Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Một số vấn đề cấp dưỡng trong trường hợp li hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.96 KB, 51 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội. Muốn cho xã hội tốt thì trước tiên và cốt
yếu là phải xác lập được một quan hệ vợ chồng hạnh phúc, vì đó là hạt nhân
quan trọng tạo nên tế bào đó. Song nếu như kết hôn là một hiện tượng xã hội
bình thường nhằm xác lập nên tế bào của xã hội, thì li hôn có thể coi là hiện
tượng bất bình thường nhưng không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân thực
sự tan vỡ. Vấn đề cấp dưỡng khi li hôn có từ lâu trong lịch sử loài người. Đây là
một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước
ta và vấn đề này ngày càng được sự chú ý của cộng đồng và người dân. Bởi lẽ
việc cấp dưỡng nhằm đảm bảo cho người được cấp dưỡng được hưởng sự quan
tâm, chăm sóc về vật chất và tinh thần, đảm bảo cho người cấp dưỡng có đủ điều
kiện tồn tại và phát triển. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây tình trạng li
hôn diễn ra ngày càng phức tạp. Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt theo nguyên
tắc quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng chấm dứt theo nhưng quan hệ tài sản
trong đó có quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng không hẳn đã chấm dứt. Khi
một bên vợ hoặc chồng gặp khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lí
do chính đáng thì người chồng hoặc vợ cũ có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng
của họ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với truyền thống của người Việt Nam “Vợ
chồng một ngày nên nghĩa”. Bên cạnh đó, khi vợ chồng li hôn người phải gánh
chịu nhiều thiệt thòi nhất không ai khác là các con. Vì hoàn cảnh, vì những bất
đồng quan điểm sống của cha mẹ mà những người con không thể cùng một lúc
nhận được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của cả cha và mẹ. Mặt khác,
trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay, khi đạo đức xã hội ở một bộ phận
cộng đồng đang bị xuống dốc, đã ảnh hưởng trực tiếp đến truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay, đã xảy ra không ít
trường hợp vợ hoặc chồng bỏ mặc không quan tâm, không cấp dưỡng cho chồng
hoặc vợ cũ khi người chồng hoặc vợ cũ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu.
Hay trường hợp, vợ chồng sau khi li hôn không quan tâm đến cuộc sống của con
cái, bỏ mặc, không thực
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện trách nhiệm cấp dưỡng của họ đối với con. Trong khi đó các quy định của
pháp luật hiện hành về cấp dưỡng nói chung và cấp dưỡng trong trường hợp vợ
chồng li hôn nói riêng, có những vấn đề chưa được quy định hoặc quy định
chưa đủ, điều đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người được cấp dưỡng cũng
như quyền lợi của người phải cấp dưỡng. Do đó, việc đảm bảo quyền và lợi ích
của các bên trong quan hệ cấp dưỡng là rất quan trọng và có ý nghĩa thiết thực.
Vì vậy việc hoàn thiện pháp luật về cấp dưỡng nói chung và cấp dưỡng
trong trường hợp vợ chồng li hôn nói riêng là đòi hỏi tất yếu.
Vấn đề cấp dưỡng được nhiều người nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau, trong khuôn khổ khoá luận với khả năng còn hạn chế tôi không đề cập một
cách cụ thể tất cả vấn đề liên quan đến cấp dưỡng mà chỉ trình bày một số vấn
đề cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng li hôn. Qua đó đưa ra các phân tích,
đánh giá nhằm góp phần xây dựng đề tài khoa học và hoàn thiện pháp luật cấp
dưỡng.
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn tôi đã chọn đề tài: “ Một số vấn đề cấp
dưỡng trong trường hợp li hôn”.
Bố cục của khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về cấp dưỡng
Chương II: Cấp dưỡng trong trường hợp li hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000.
Chương III: Thực tiễn giải quyết cấp dưỡng trong trường hợp li hôn và
một số kiến nghị.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP DƯỠNG
1. Khái niệm cấp dưỡng
1.1. Khái niệm
Gia đình là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên xã hội.

Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, chăm sóc, và phát triển nhân cách của con
người. Các thành viên trong gia đình như: Ông bà, cha mẹ, con cháu được gắn
kết bằng sợi dây tình cảm vô hình. Để cho gia đình tồn tại và phát triển giữa các
thành viên trong gia đình phải quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau. Sự quan tâm,
chăm sóc tồn tại một cách tự nhiên và là nhu cầu tất yếu về mặt tình cảm và đạo
đức và không thể mất đi vì bất cứ lí do gì.
Sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng vừa là quyền đồng thời cũng là nghĩa
vụ của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa vụ
nuôi dưỡng cũng có thể thực hiện được. Trong những hoàn cảnh nhất định,
người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không có điều kiện thực hiện nuôi dưỡng như: Họ
phải đi công tác xa, bị bệnh nặng kéo dài, phải chấp hành hình phạt tù, hay điển
hình như trong trường hợp vợ chồng li hôn. Trong những trường hợp này để
đảm bảo cuộc sống của người được nuôi dưỡng đồng thời để thể hiện phần nào
đó sự quan tâm, chăm sóc giữa người nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng thì
nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, trong công tác lập pháp pháp, Nhà nước ta
đã quy định nghĩa vụ cấp dưỡng trong các đạo luật. Luật Hôn nhân và gia đình
(Sau đây gọi là Luật HN&GĐ) đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
được thông qua ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch nước kí sắc lệnh công bố
ngày 13/1/1960 theo sắc lệnh số 02/SL đã quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
chồng khi li hôn. Kế thừa Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986
thông qua ngày 29/12/1986 và được Hội đồng nhà nước công bố ngày 3/1/1987
đã quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, giữa cha mẹ cho con khi giải
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyết li hôn. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986
nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu với nghĩa hẹp và mang tính nguyên tắc. Luật
HN&GĐ năm 2000 thông qua ngày 9/6/2000 và được công bố ngày 22/6/2000
đã kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1989 đã
dành một chương gồm mười ba điều quy định cấp dưỡng giữa các thành viên

trong gia đình. Cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ năm 2000 đã mở rộng hơn và
được quy định cụ thể và đầy đủ hơn. Tại Điều 8 Khoản 11 Luật HN&GĐ năm
2000 có quy định: “ Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với
mình mà có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng
trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà
không có khả năng lao động và không có tài sản nuôi mình, là người gặp khó
khăn túng thiếu theo quy định của Luật này ”
Cấp dưỡng là một vấn đề quan trọng trong sinh họat cộng đồng xã hội.
Xét về mặt đạo lý xã hội, nó vừa là nghĩa vụ mang tính bắt buộc thực hiện để
giúp đỡ những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi
dưỡng, nhất là khi họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn không có khả năng tự nuôi
mình.
1.2. Phân biệt cấp dưỡng và nuôi dưỡng
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng và
nghĩa vụ nuôi dưỡng. Xét dưới góc độ luật học thì hai nghĩa vụ này có mối quan
hệ nội tại với nhau. Xuất phát từ mối quan hệ nội tại đó mà trong những điều
kiện nhất định hai nghĩa vụ này có thể thay thế cho nhau và cũng chính điều đó
khiến cho nhiều người nhầm lẫn cấp dưỡng là nuôi dưỡng và nuôi dưỡng là cấp
dưỡng. Trong một số trường hợp sự nhầm lẫn đó không gây hại đến quyền và lợi
ích của các chủ thể trong hai quan hệ đó nhưng trong quá trình xét xử, nếu
chúng ta không phân biệt được đâu là nghĩa vụ cấp dưỡng đâu là nghĩa vụ nuôi
dưỡng điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Chúng ta cũng biết nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng có cùng
chủ thể, đó là những người có mối quan hệ đặc biệt. Trước tiên là những người
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có quan hệ huyết thống với nhau sau đó là những người có quan hệ nuôi dưỡng
và quan hệ hôn nhân. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tại các Điều 36, Điều
38, Điều 47, Điều 48 những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau bao gồm: Cha

mẹ và con, anh chị em với nhau, ông bà và cháu. Bên cạnh đó, Điều 50 của Luật
cũng quy định: Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được thực hiện giữa cha mẹ và con,
giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, giữa vợ và
chồng. Mặt khác điều kiện phát sinh hai nghĩa vụ này cũng có nét tương đồng
như: Một hoặc nhiều người trong số những người có quan hệ gia đình với nhau
nhưng không có khả năng để tự nuôi mình và những người khác có khả năng để
nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng. Do vậy, để phân biệt hai nghĩa vụ này phải dựa vào
yếu tố không gian giữa chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và quan hệ nuôi dưỡng.
Luật HN&GĐ quy định khi người có quan hệ nuôi dưỡng không cùng chung
sống với nhau thì giữa họ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng. Đây chính là điểm mấu
chốt có thể phân biệt nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Nếu trong quan hệ nuôi dưỡng, người được nuôi dưỡng và người có nghĩa
vụ nuôi dưỡng sống chung với nhau thì ngược lại trong quan hệ cấp dưỡng
người được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng không cùng sống chung với
nhau. Vấn đề đặt ra là cần hiểu thế nào là “ sống chung ” và thế nào là “không
sống chung”. Hiện nay có ba quan điểm khác nhau về “ sống chung ”.
Quan điểm thứ nhất: Những người sống chung là những người có cùng
nơi đăng kí hộ khẩu thường trú.
Quan điểm thứ hai: Chỉ coi là sống chung khi họ cùng sinh sống thường
xuyên dưới một mái nhà và không phụ thuộc vào nơi đăng kí hộ khẩu thường
trú.
Quan điểm ba: Việc xác định thế nào là những người sống chung với nhau
không phụ thuộc vào nơi đăng kí hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú mà căn cứ vào
nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu vật chất hằng ngày của họ. Do đó những
người được coi là sống chung khi họ có cùng quỹ tiêu dùng.
Từ những quan điểm khác nhau về “ sống chung ”, có thể thấy rằng quan
điểm thứ ba đầy đủ hơn vì trong thực tế có những người có cùng nơi đăng kí hộ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu thường trú nhưng lại không cùng ăn chung ở chung. Ví dụ: Cha mẹ cho

con ăn riêng trong khi họ vẫn cùng ở chung một nhà với nhau. Bên cạnh đó,
cũng có trường hợp những người có nơi đăng kí hộ khẩu khác nhau lại “ ăn
chung, ở chung ” với nhau. Ví dụ: Anh A và chị B là vợ chồng. Hai anh chị có
nơi đăng kí hộ khẩu khác nhau nhưng sống chung với nhau ở Hà Nội.
Như vậy, theo quan điểm thứ ba thì những người “ không cùng chung
sống” là những người không có quỹ tiêu dùng chung. Điều đó có nghĩa là khi
xem xét một quan hệ có phải là quan hệ cấp dưỡng hay quan hệ nuôi dưỡng cần
xác định giữa các chủ thể này có quỹ tiêu dùng chung hay không? Khi họ không
có quỹ tiêu dùng chung thì quan hệ giữa họ là quan hệ cấp dưỡng. Tuy nhiên,
cũng có những trường hợp dù sống chung một nhà, dù có quỹ tiêu dùng chung
nhưng người có nghĩa vụ nuôi dưỡng lại không quan tâm đến người được nuôi
dưỡng. Ví dụ: Vợ hoặc chồng ở xa không đóng góp thu nhập vào khối tài sản
chung để đảm bảo nuôi con. Lúc này nghĩa vụ nuôi dưỡng được chuyển thành
nghĩa vụ cấp dưỡng. Điều 50 khoản 2 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “
Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì
buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này”.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng ranh giới để xác định đâu là nghĩa
vụ cấp dưỡng đâu là nghĩa vụ nuôi dưỡng thật khó. Tuy vậy, không phải vì khó
mà chúng ta có thể đánh đồng cấp dưỡng và nuôi dưỡng. Cần phải xác định khi
nào thì nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh, khi nào thì nghĩa vụ nuôi dưỡng phát sinh
để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ đó. Đặc biệt là những chủ
thể chưa thành niên, hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động,
không có tài sản nuôi mình.
2. Đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng
Qua sự phân tích khái niệm và sự khác biệt giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và
nghĩa vụ cấp dưỡng có thể thấy cấp dưỡng có những đặc điểm cơ bản sau:
* Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn với nhân thân của mỗi bên
trong quan hệ cấp dưỡng. Điều đó thể hiện ở chỗ: Người có nghĩa vụ cấp dưỡng
phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu
6

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Vì vậy, “ nghĩa vụ cấp dưỡng không thể
thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác” (Khoản
1 Điều 50 Luật HN&GĐ). Nghĩa vụ cấp dưỡng phải do chính người có nghĩa vụ
thực hiện mà không phải là bất cứ ai khác và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
cũng phải được thực hiện cho người có quyền được cấp dưỡng.
* Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên
cơ sở hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng. Điều 50 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định “ Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa
anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ chồng theo
quy định của Luật này”. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định rõ phạm
vi chủ thể của quan hệ cấp dưỡng đó là cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, giữa anh
chị em với nhau, giữa ông bà và cháu. Ngoài phạm vi những chủ thể trên, những
chủ thể khác như: Chú, bác, cô, dì và cháu sẽ không phát sinh nghĩa vụ cấp
dưỡng mặc dù họ là những người thừa kế ở hàng thứ ba của nhau theo pháp
luật. Quan hệ cấp dưỡng giữa chú, bác, cô, dì với cháu (nếu có) thường do quy
phạm đạo đức điều chỉnh, vì dù sao giữa họ cũng tồn tại mối quan hệ về mặt tình
cảm.
Chính từ đặc điểm này mà quan hệ cấp dưỡng thường hình thành một
cách tự nhiên trên cơ sở đạo đức và quan hệ ruột thịt giữa con người với nhau
theo phong tục tập quán. Sau đó quan hệ cấp dưỡng mới được điểu chỉnh bởi
quy phạm pháp luật và trở thành quan hệ pháp luật.
* Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản song không mang tính đền bù
ngang giá. Do yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể, nên nghĩa vụ cấp dưỡng
được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán đến giá trị tài sản đã cấp
dưỡng, không đòi hỏi người cấp dưỡng sẽ phải hoàn lại một số tiền tương ứng.
Mặt khác, không phải lúc nào nghĩa vụ cấp dưỡng cũng đặt ra, chỉ trong trường
hợp nhất định và với điều kiện nhất định, nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Vì
vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương đương, không có tính
tuyệt đối và không diễn ra đồng thời. Ví dụ: cha mẹ phải cấp dưỡng cho con khi

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
con chưa thành niên nhưng con chỉ phải cấp dưỡng cho cha mẹ khi con đã thành
niên và có khả năng lao động.
* Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính pháp lý được
đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các biệp pháp
cưỡng chế thi hành. Bởi lẽ nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên
trong gia đình trên cơ sở hôn nhân huyết thống hoặc nuôi dưỡng (giữa cha mẹ và
con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà với các cháu; giữa vợ chồng…).
Giữa các thành viên trong gia đình luôn có mối quan hệ tình cảm khăng khít,
khó tách rời. Khi các thành viên trong gia đình không thể trực tiếp quan tâm,
chăm sóc nhau, thì họ thực hiện nghĩa vụ này thông qua việc cấp dưỡng. Việc
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuất phát từ lương tâm, đạo đức và dư luật
xã hội. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh trách nhiệm cấp dưỡng của
mình lúc này biện pháp cưỡng chế mới đặt ra. Đồng thời, để nâng cao ý thức,
trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ cấp dưỡng Luật HN&GĐ năm 1959,
Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định vấn đề cấp
dưỡng như một chế định quan trọng cần thiết để điểu chỉnh quan hệ hôn nhân
và gia đình.
* Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định. Khi
điều kiện đó xuất hiện thì người có nghĩa vụ phải cấp dưỡng mới phải thực hiện
trách nhiệm cấp dưỡng của mình đối với người được cấp dưỡng. Tức là khi
không có điều kiện đó thì người cấp dưỡng không phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Ví dụ: Trong trường hợp cha, mẹ li hôn, thông thường họ phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, nhưng nếu cha mẹ không có khả
năng lao động và không có tài sản nuôi mình, cha mẹ không phải cấp dưỡng cho
con nữa.
3. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng không phải lúc nào cũng phát sinh mà nó chỉ phát
sinh trong những điều kiện nhất định, chỉ khi những điều kiện đó xảy ra thì

nghĩa vụ đó mới phát sinh. Vậy nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ phát sinh trong những
điều kiện sau:
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng không sống chung với
nhau.
Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng sống chung với nhau thì
người cấp dưỡng đã trực tiếp thực hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng người
được nuôi dưỡng bằng tài sản của mình, do đó việc cấp dưỡng không đặt ra.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì hoàn cảnh
không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người kia, do đó họ phải chu cấp một
khoảng tiền hoặc tài sản nhất định (như lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc
men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người cần cấp dưỡng, đảm bảo sự
sống còn của họ. Ví dụ: trước khi li hôn, cả vợ và chồng đều có thể hàng ngày
chăm sóc con của mình, nhưng khi họ li hôn, người con khi đó chỉ có thể ở với
bố hoặc mẹ và như vậy người còn lại không thể quan tâm chăm sóc con như
trước họ chỉ có thể thể hiện sự quan tâm đó bằng cách cấp dưỡng cho con.
Như đã phân tích “ không sống chung” trong quan hệ cấp dưỡng là những
thành viên trong gia đình không còn quỹ tiêu dùng chung, vì vậy mà họ không
có thể trực tiếp chăm sóc, giúp đỡ nhau cho nên vấn đề cấp dưỡng được đặt ra
nhằm đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu cho nhau. Nhưng có trường hợp tuy có
quỹ chung nhưng nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn được đặt ra đó là khi người có nghĩa
vụ nuôi dưỡng trốn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng đối với người được nuôi
dưỡng. Đây có thể được coi là trường hợp ngoại lệ của nghĩa vụ cấp dưỡng.
Luật HN&GĐ năm 2000 (Khoản 2 Điều 50) quy định: “Trong trường hợp người
có nghĩa vụ mà trốn tránh trách nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng theo quy định của luật này”. Ví dụ: Con cái sống chung với cha mẹ già,
nhưng lại không quan tâm, chăm sóc cuộc sống của cha mẹ …
* Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân,
huyết thống, hoặc nuôi dưỡng.

- Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi kết hôn. Sự kiện kết hôn
đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ chồng. Nội dung quan hệ pháp luật
giữa vợ chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và các nghĩa vụ về
tài sản. Thực hiện quyền và nghĩa vụ đó nhằm đảm bảo thoả mãn những nhu cầu
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tình cảm và vật chất trong đời sống vợ chồng, đảm bảo lợi ích chung của gia
đình và xã hội. Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt (vợ chồng li hôn) về nguyên tắc
các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn dù vợ
chồng có thoả thuận hay không thoả thuận được thì Toà án cũng sẽ quyết định
nhưng quyền và nghĩa vụ về tài sản trong đó có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
không hẳn đã chấm dứt. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng là kết
quả của quan hệ hôn nhân hợp pháp (Hôn nhân đó phải tuân thủ các điều kiện về
kết hôn và cấm kết hôn, có đăng kí kết hôn) và quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng phát sinh kể từ thời điểm kết hôn. Khi li hôn, một bên vợ hoặc chồng sẽ
được cấp dưỡng “ nếu bên khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý
do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” (Điều
60 Luật HN&GĐ năm 2000)
- Quan hệ huyết thống là quan hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ của người phụ
nữ và từ sự kiện đó phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Có chung
huyết thống tức là giữa họ có mối quan hệ về mặt sinh học. Cha mẹ là người
sinh ra các con, do vậy họ phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc người các con
trở thành công dân tốt, và những người con cũng có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ,
đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau bệnh tật…Điều đó bắt nguồn từ mối quan hệ tình
cảm tồn tại lâu bền giữa họ. Người xưa có câu “ Một con ngựa đau, cả tàu bỏ
cỏ” và “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” huống chi giữa họ lại có mối quan
hệ máu mủ ruột thịt.
- Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ do sự kiện nuôi con nuôi và quan hệ hôn
nhân đem lại. Nuôi con nuôi là việc một người nhận nuôi một đứa trẻ( trừ
trường hợp đặc biệt có thể người được nhận làm con nuôi là người đã thành

niên) không do họ sinh ra nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và các con giữa người
nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho người được nhận nuôi
được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với đạo đức xã hội.
* Điều kiện về người được cấp dưỡng là người chưa thành niên (người
dưới mười tám tuổi) người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Không có khả
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năng lao động có thể là do già yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự. ...“ không có khả năng lao động” phải gắn liền với “ không có
tài sản để tự nuôi mình”. Vấn đề quan trọng là khi nào một người được xác định
là “ không có tài sản để tự nuôi mình” để có thể được người khác cấp dưỡng.
Vấn đề này Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ do vậy cần có sự quy
định cụ thể để đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử. Việc cấp dưỡng
nhằm cung cấp những thứ cần thiết như tiền bạc, tài sản để đáp ứng nhu cầu
sống thiết yếu của người được cấp dưỡng, nên nó chỉ nảy sinh khi người được
cấp dưỡng không có khả năng về kinh tế, không tự lo cho cuộc sống bình
thường của mình. Cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của
người được cấp dưỡng.
* Điều kiện về người được cấp dưỡng là người có khả năng cấp dưỡng.
Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 30/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị định số 70/2001/NĐ -
CP) quy định: “ Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là
người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên
nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống
của người đó” (Điều 16). Như vậy, đánh giá khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng cấp dưỡng có thể dựa vào hai yếu tố: Thu nhập thường
xuyên và tài sản hiện có hoặc một người tuy không có thu nhập thường xuyên
nhưng lại còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phi cần thiết cho bản thân thì cũng
được coi là có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Điều 56 và Điều

92 Luật HN&GĐ năm 2000 thì khi li hôn cha mẹ không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao số 02/2000/NQ - HĐTP ngày23/01/2000 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị
quyết số 02/2000/NQ – HĐTP) quy định: “Đây là nghĩa vụ của cha mẹ do đó
không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người
không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong trường
hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dưỡng vì lí do nào đó thì Tòa án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp
dưỡng nuôi con là quyền lợi của con, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ
khả năng, điều kiện nuôi con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng
nuôi con”. (Mục 11)
Theo như quy định trên thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của bậc làm cha mẹ, dù họ không thể
tiếp tục cuộc sống vợ chồng nhưng không phải vì thế mà mối quan hệ giữa họ
với con cái bị cắt đứt. Họ vẫn phải thực hiện trách nhiệm “ nuôi dưỡng” dưới
dạng “ cấp dưỡng” nhằm đảm bảo cho con cái họ được bù đắp sự hụt hẫng về
mặt tinh thần và đảm bảo cuộc sống tối thiểu của con họ. Tuy nhiên, trong
trường hợp con có quyền được cha mẹ cấp dưỡng nhưng cha mẹ lại không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ đó thì cha, mẹ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ
(chẳng hạn như trường hợp cha, mẹ bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, mất
khả năng lao động và không có tài sản).Trong trường hợp này cha, mẹ, người
không trực tiếp nuôi con có thể xin tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho đến khi
họ có khả năng cấp dưỡng. Nhưng Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn
bản hướng dẫn không nói cụ thể thời gian tạm hoãn đến khi nào kết thúc như
vậy thì quyền lợi của con cái trong trường hợp này cũng sẽ không được bảo
đảm.

Điều 60 của Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “ Khi li hôn, nếu một bên
khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lí do chính đáng thì bên kia có
nghĩa vụ cấp theo khả năng của mình”. Như vậy còn phải căn cứ vào khả năng
thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy rằng chỉ khi nào các điều kiện
trên xảy ra đồng thời thì lúc đó nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Khi thiếu một
trong các điều kiện trên thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng không phải thực hiện
trách nhiệm cấp dưỡng và người có quyền hưởng cấp dưỡng cũng không được
hưởng.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng tám
đến nay
Chế định về cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay được chia làm 3 giai đoạn tương ứng với sự phát triển của
Luật HN&GĐ từ Cách mạng tháng Tám đến nay.
*Từ 1945 đến 1954
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra
đời đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta. Hiến pháp đã
ghi nhận bình đẳng nam nữ về mọi mặt. Đó là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng
để xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới dân chủ và tiến bộ. Năm 1950,
Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên về hôn nhân và gia đình. Đó là
sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL.
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định
về hôn nhân và gia đình, ở sắc lệnh này không nhắc đến nghĩa vụ cấp dưỡng khi
vợ chồng li hôn nhưng theo những quy định ở Sắc lệnh số 90/SL ngày
10/10/1945 của Chủ tịch nước thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn
sẽ được thực hiện theo quy định Bộ dân luật cũ tức là áp dụng Bộ luật trong thời
kì Pháp thuộc. Trong sắc lệnh này đã bảo vệ quyền lợi của “con hoang vô thừa
nhận” họ được kiện để truy tìm cha, mẹ cho mình (Điều 9).

Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề li hôn. Trong sắc
lệnh này có bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ li hôn. Điều 6
quy định “Toà án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con chưa thành niên để ấn
định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã li hôn cùng
phải chịu phí tổn nuôi dạy con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình”.
Như vậy, cả hai sắc lệnh này đã góp phần đáng kể xoá bỏ chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến lạc hậu. Hai sắc lệnh đều đưa ra những quy định bảo vệ
quyền lợi của các con, quyền lợi của người vợ khi li hôn và cũng đã quy định
gián tiếp vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn, cấp dưỡng cho con khi
cha, mẹ li hôn.
* Từ năm 1954 - 1975.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954) tuy nhiên đất
nước vẫn tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tình
hình chính trị đặt sự nghiệp Cách mạng trong giai đoạn này thành hai nhiệm vụ
chiến lược: Miền Bắc được giải phóng bước vào thời kì quá độ xây dựng Chủ
Nghĩa Xã Hội, Miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc,dân chủ, đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Miền Bắc: Trong giai đoạn này Sắc lệnh 97/SL và sắc lệnh 159/SL đã
hoàn thành vai trò lịch sử góp phần vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia
đình phong kiến nhưng không đáp ứng được tình hình phát triển cách mạng.
Hiến pháp 1959 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà điều 24 đã ghi nhận
quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội và giáo
dục là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới Xã Hội
Chủ Nghĩa ở nước ta.
Dự luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc Hội khoá I, kỳ họp thứ 11
chính thức thông qua ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch nước ký sắc lệnh công
bố ngày 13/1/1960 theo sắc lệnh số 02/SL. Luật HN&GĐ năm 1959 tại các Điều
30, Điều 31, Điều32 và Điều 33 đã quy định về quan hệ cấp dưỡng. Theo Điều

30 quy định: “Khi li hôn nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì bên kia
cấp dưỡng theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng
hai bên thoả thuận; trường hợp hai bên không thoả thuận với nhau được thì Toà
án nhân dân sẽ quyết định. Khi người được cấp dưỡng lấy vợ, lấy chồng thì sẽ
không được cấp dưỡng nữa”. Điều 31: “Vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa
vụ và quyền lợi đối với con chung”
Điều 32: “Khi li hôn, việc giao con cho ai trông nom, nuôi nấng và giáo
dục con cái chưa thành niên, phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con cái. Về
nguyên tắc, con còn bú phải do mẹ có phụ trách. Người không giữ con vẫn có
quyền thăm nom, chăm sóc.
Vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi nấng và giáo dục
con cái, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình…”
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy Luật HN&GĐ năm 1959 đã có các quy định cụ thể hơn so với
sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh 159/SL về cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn.
Khi vợ chồng li hôn, nếu một bên gặp khó khăn thì có thể yêu cầu bên kia cấp
dưỡng cho mình một khoản tiền. Cả vợ hoặc chồng có thể đưa ra yêu cầu cấp
dưỡng nếu họ đáp ứng các điều kiện mà luật đưa ra. Đồng thời, Luật HN&GĐ
năm 1959 đã bảo vệ quyền lợi của người con khi cha mẹ li hôn. Việc cấp dưỡng
cho con, và con được ai chăm sóc nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi của con
cái. Vợ chồng khi li hôn không có nghĩa là rũ bỏ trách nhiệm với người con mà
mình sinh ra.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các quy định này đã có nhiều bất cập
không phát huy được hiệu lực thực tế, không đảm bảo việc giải quyết các vụ
việc phát sinh nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, vì nội dung mang tính nguyên
tắc, quá chung chung, chưa thống nhất và đồng bộ.
* Từ năm 1975 đến nay
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(30/4/1975), cả nước thống nhất. Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

ra đời.
Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết 76/CP, quyết định
về việc thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có đạo luật số 13
về hôn nhân và gia đình ( Luật HN&GĐ năm 1959).
Ngày 18/12/1980, Hiến pháp thứ ba của nước ta ra đời, Hiến pháp 1980
đã quy định về các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình. Tình hình kinh
tế – chính trị – xã hội ngày càng thay đổi. Việc áp dụng luật hôn nhân và gia
đình năm 1959, có một số điều không phù hợp, trong đó có cả vấn đề cấp dưỡng
giữa vợ chồng khi li hôn. Vì vậy việc ban hành Luật HN&GĐ mới là một tất yếu
khách quan. Dự thảo luật đã được Quốc hội khoá VII kì họp thứ 12 thông qua
ngày 29/12/1986 và được hội đồng nhà nước công bố ngày 3/1/1987 Luật
HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời trên cơ sở kế
thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1959, trong đó các quy định về cấp dưỡng
đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Để bảo vệ quyền
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lợi của các bên trong quan hệ cấp dưỡng, đồng thời đảm bảo hiệu lực, hiệu quả
của các quy định về cấp dưỡng trên thực tế, tại các Điều 19, Điều 20, Điều 21,
Điều 27, Điều 43, Điều 44 và Điều 45 đã thể hiện rõ nét sự khác biệt này. Theo
quy định tại Điều 43: “Khi li hôn nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì
bên kia cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng và thời gian
cấp dưỡng do hai bên thoả thuận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau
thì do Toà án nhân dân quyết định. Khi hoàn cảnh thay đổi, người được cấp
dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu thay đổi mức hoặc thời gian
cấp dưỡng. Nếu người được cấp dưỡng kết hôn với người khác thì không được
cấp dưỡng nữa”.
Trong suốt thời gian 14 năm thi hành các quy định này, Luật HN&GĐ
năm 1986 cũng đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc, chưa thoát ra khỏi quy tắc,
chung chung, thiếu cụ thể, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong bối cảnh
hiện nay. Do đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã ra đời đã được bổ sung, sửa đổi

một cách cơ bản toàn diện, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và kinh
nghiệm của nước ngoài, trong đó các quy định về cấp dưỡng tạo thành một chế
định mới, độc lập, thống nhất và đồng bộ, được quy định thành một chương
riêng gồm 13 điều (từ Điều 50 đến Điều 62).
Điểm mới thiết thực nhất gắn liền với việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các bên trong quan hệ cấp dưỡng mà đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đó là: Luật
HN&GĐ năm 2000 đã quy định mở rộng đối tượng được cấp dưỡng và phương
thức thực hiện cấp dưỡng.
Như vậy, theo thời gian, để phù hợp với sự nghiệp Cách mạng của đất
nước, phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực
tế các quan hệ về hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các
văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình trong đó có phần cấp dưỡng giữa vợ
chồng khi li hôn. Hệ thống pháp luật HN&GD trong đó quy định nghĩa vụ cấp
dưỡng khi vợ chồng li hôn dần được hoàn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà
nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cấp dưỡng lẫn người được
cấp dưỡng.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
CẤP DƯỠNG TRONG TRƯỜNG HỢP LI HÔN THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
1. Các trường hợp cấp dưỡng khi vợ chồng li hôn
1.1. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn phát sinh kể từ
thời điểm họ kết hôn. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những quyền
và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Pháp luật thừa nhận và
bảo đảm thực hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng, kể cả trong trường hợp vợ
chồng li hôn. Khi vợ chồng li hôn nghĩa vụ cấp dưỡng giữa họ chỉ phát sinh khi
đáp ứng những điều kiện nhất định. Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“Khi li hôn, nếu một bên khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lí do

chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Quan
hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn là loại quan hệ có điều kiện, chỉ trong
những trường hợp nhất định, nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Ngoài trường
hợp đó nghĩa vụ cấp dưỡng không đặt ra. Như vậy điều kiện cần và đủ để phát
sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn là:
Thứ nhất: Bên được cấp dưỡng.
+ Có khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng, có lí do chính đáng.
Đây là cơ sở quyết định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn. Vậy
khi nào một bên được coi là có “khó khăn, túng thiếu” và khi nào “sự khó khăn,
túng thiếu” của họ được coi là có “lí do chính đáng”. Luật HN&GĐ năm 2000
cùng văn bản hướng dẫn đã không đưa ra quy định cụ thể về việc xác định tình
trạng khó khăn, túng thiếu. Do vậy, mà trong thực tế các thẩm phán vẫn theo
hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/NQ – HĐTP ngày 20/10/1988 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (sau đây gọi là Nghị quyết số 01/NQ –
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
HĐTP) để xác định tình trạng khó khăn, túng thiếu của người có yêu cầu cấp
dưỡng. Nghị quyết số 01/NQ – HĐTP có quy định “ Trường hợp túng thiếu là
trường hợp ốm đau, già cả không đủ sức lao động hoặc không còn khả năng lao
động để sinh sống. Người có khả năng lao động mà không chịu lao động thì
không được cấp dưỡng”. Song với tình hình kinh tế hiện nay, các căn cứ để xác
định tình trạng khó khăn, túng thiếu vì lí do chính đáng theo Nghị quyết số
01/NQ – HĐTP chưa thật sự đầy đủ. Vậy có thể hiểu một cách chung chung là:
Sự túng thiếu, khó khăn của bên được cấp dưỡng phải thật sự và có lí do chính
đáng như ốm đau, bị tai nạn, già yếu…Nếu có khó khăn, túng thiếu thật sự
nhưng không có lí do chính đáng như nghiện hút, cờ bạc, lười biếng… thì sẽ
không được cấp dưỡng.
Khi người được cấp dưỡng thoả mãn điều kiện trên họ có thể trực tiếp yêu
cầu người phải cấp dưỡng hoặc gửi đơn lên Toà án nhờ Toà án bảo vệ quyền lợi
cho họ. Thời điểm người được cấp dưỡng nhận được sự chu cấp từ phía người

phải cấp dưỡng có thể là thời điểm do người phải cấp dưỡng và người được cấp
dưỡng thoả thuận hoặc do Toà án quyết định trong trường hợp hai bên không thể
thỏa thuận được.
Thứ hai: Bên cấp dưỡng có khả năng cấp dưỡng. Bởi nếu người cấp
dưỡng không có khả năng cấp dưỡng, không thể nuôi được bản thân họ thì họ
cũng không thể làm điều gì cho người mà họ có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Có thể thấy, người có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho vợ hoặc
chồng khi li hôn là người thuộc một trong những trường hợp sau:
- Có thu nhập thường xuyên mà thu nhập đó cao hơn mức sống trung bình
của người đó và những người khác mà người đó có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng hoặc cấp dưỡng.
- Còn tài sản sau khi trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống
của người đó và của người khác mà người đó có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng
hoặc cấp dưỡng và việc sử dụng tài sản đó để cấp dưỡng không ảnh hưởng đến
cuộc sống lâu dài của bản thân của người đó.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn xuất phát từ
đạo lí, tình nghĩa vợ chồng và là biểu hiện tốt đẹp truyền thống đạo đức của dân
tộc. Việc cấp dưỡng khi li hôn là nhằm tạo điều kiện để đảm bảo cuộc sống cho
bên bị túng thiếu, khó khăn trong thời gian sau khi li hôn. Có thể thấy khác với
trường hợp khác, việc cấp dưỡng giữa vợ chồng đã li hôn mang tính mền dẻo và
ít cưỡng chế hơn. Điều đó thể hiện Luật HN&GĐ năm 2000 đã không quy định
về việc xác định phương thức cấp dưỡng và mức cấp dưỡng mà cho người cấp
dưỡng tuỳ theo khả năng của mình để tự quyết định. Tuy nhiên, đây là một
nghĩa vụ đặc biệt, được thực hiện khi quan hệ hôn nhân đã chấm dứt nên pháp
luật cần quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền yêu cầu cấp dưỡng, thời điểm
yêu cầu cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng, việc thay đổi cấp dưỡng…khi li hôn.
Quy định cụ thể vấn đề này sẽ tạo cơ sở pháp lý trong việc giải quyết yêu cầu
cấp dưỡng giữa vợ chồng khi li hôn.

1.2. Cấp dưỡng giữa cha mẹ đối với con
Nghĩa vụ của cha mẹ cho con phát sinh trên cơ sở nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng con. Khi vợ chồng li hôn, họ không thể cùng nhau trực tiếp nuôi
con. Do vậy nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra. Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000
quy định: “Khi li hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên
hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động và không có tài sản nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con...”.
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP thì: “Đây là nghĩa vụ của cha mẹ, do
đó không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không,
người không trực tiếp nuôi con vẫn phải cấp dưỡng nuôi con…”. Theo quy định
trên thì điều kiện để cấp dưỡng khi cha mẹ li hôn bao gồm:
Thứ nhất: Đối tượng được cha mẹ cấp dưỡng bao gồm con đẻ và con nuôi
chung của hai vợ chồng. Con được cấp dưỡng là con chưa thành niên hoặc nếu
đã thành niên thuộc diện tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản nuôi mình. Theo nguyên tắc chung, cha mẹ có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đến khi con đã thành niên (đủ mười tám tuổi).
Trong trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự, không có khả năng lao động và không có tài sản nuôi mình, thì cha mẹ vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến khi con khỏi bệnh, phục hồi sức
khoẻ và có thể lao động tự túc được.
Thứ hai: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con. Trong trường hợp có phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ
với con khi li hôn, thì mức cấp dưỡng sẽ do hai bên thoả thuận nếu không thoả
thuận được thì do Toà án quyết định.
Khác với loại nghĩa vụ cấp dưỡng khác, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là
nghĩa vụ của cha mẹ nên không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng
kinh tế hay không người không trực tiếp nuôi con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng của mình. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu

người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lí do nào đó thì Toà án cần giải
thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu
cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi con thì Toà
không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con (Mục 11- Nghị quyết 02/2000/NQ-
HĐTP). Toà án tôn trọng sự thoả thuận của các bên nhưng dựa trên quyền lợi
của con cái. Đây không phải là cơ sở để “ chấm dứt” nghĩa vụ cấp dưỡng của
cha, mẹ đối với con, kể cả trong trường hợp đã công nhận việc cấp dưỡng nuôi
con một lần. Vì lợi ích của con, nếu sau này người được giao trực tiếp nuôi con
có yêu cầu thì vẫn có thể quyết định bên kia phải thực hiện nghĩa vụ nuôi con,
bởi vì bản chất pháp luật giữa cha mẹ và con là không thể thoả thuận để “ khuớc
từ” nghĩa vụ.
* Mức cấp dưỡng nuôi con: Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi
phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ
thể, vào khả năng của mỗi bên mà Toà án quyết định mức cấp dưỡng nuôi con
hợp lí.
* Phương thức cấp dưỡng: Do các bên thoả thuận định kì hàng tháng,
hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không
20

×