Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Đặc điểm nhân cách của phạm nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.57 KB, 50 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay vấn đề nhân cách được nhiều khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong quá trình phát triển của các khoa hoc, đặc biệt là các khoa hoc xã hội,
nghiên cứu về con người nói chung và nhân cách nói riêng là một đòi hỏi tất
yếu.
Ở Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đặc
bịêt coi trọng nguồn lực con người. Muốn công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất
nước thành công thì phải đặt con người lên vị trí trung tâm, phải có con người
đạo đức trí tuệ. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn liền
với xây dựng nhân cách phát triển hài hoà.
Trong khoa học tâm lý, nhân cách là vấn đề trung tâm và hết sức rộng lớn,
trong đó mỗi chuyên nghành lại đi sâu vào những lĩnh vực khác nhau. Giống
như các chuyên nghành khác, tâm lý học pháp lý cũng nghiên cứu nhân cách
nhưng đối tượng mà nó hướng tới là nhân cách của những người tham gia tố
tụng như: bị can, bị cáo, người phạm tội, luật sư, kiểm sát viên.
Trong các nhóm xã hội, phạm nhân là nhóm người đăc biệt. Họ là những
người đã phạm lỗi lầm nghiêm trọng trong quá khứ, bị đưa ra xét xử, bị kết án tù
và hiện đang phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Theo các nhà tâm lý học
pháp lý, ở phạm nhân có nhiều nét nhân cách tiêu cực, có nhiều biểu hiện lệch
lạc trong lĩnh vực động cơ. Ngoài ra, trong tâm lý học tội phạm từ lâu cũng đã
tồn tại quan điểm cho rằng, phạm nhân là những người có nhiều điểm tâm lý
không phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và đây chính là một trong những
nguyên nhân đưa họ đến hành vi phạm tội. Thời gian phạm nhân chấp hành hình
phạt tại trại giam là thời gian diễn ra nhiều diễn biến tâm lý phức tạp trong con
người họ. Đây có lẽ là một trong những lí do khiến không ít nhà tâm lý học chọn
phạm nhân làm khách thể nghiên cứu, thậm chí trong tâm lý học còn xuất hiện
nhiều chuyên nghành nghiên cứu về phạm nhân: tâm lý học tội phạm, tâm lý học
cải tạo.
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên thực tế, từ trước đến nay, trên thế giới có rất nhiều các công trình
khoa học nghiên cứu về nhân cách, đặc điểm nhân cách, tuy nhiên vẫn chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu về nhân cách phạm nhân một cách sâu sắc.
Mặc dù đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Về mặt lí luận, nghiên cứu nhân cách phạm nhân góp phần làm rõ hơn các
quan điểm về nhân cách, đặc điểm nhân cách. Đồng thời bổ sung vào các công
trình nghiên cứu tâm lý học về nhân cách.
Về mặt thưc tiễn, nghiên cứu nhân cách phạm nhân nhằm chỉ ra các phẩm
chất tâm lý tích cực, tiêu cực ở phạm nhân, giúp họ phát huy các phẩm chất tích
cực; chỉ ra những thay đổi về nhân cách, đặc điểm nhân cách của họ trong thời
gian chấp hành hình phạt tù. Đồng thời, tìm ra các phương pháp cải tạo phù hợp
cũng như những trợ giúp xã hội cho phạm nhân, đưa ra các hướng mới trong
nghiên cứu quá trình tái hoà nhập xã hội của họ. Nghiên cứu nhân cách phạm
nhân còn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn phòng ngừa tội phạm, và hoạt
động của các cán bộ trại giam…
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Đặc điểm nhân
cách của phạm nhân” là vấn đề nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ đặc điểm nhân cách của phạm nhân, những điểm tích cực, tiêu
cực. Từ đó, đưa ra kiến nghị cho công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân tại trại
giam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận về nhân cách, đặc điểm nhân cách
- Khảo sát về thực trạng và nghiên cứu phạm nhân ở một số khía cạnh:
đặc điểm nhân cách phạm nhân, các nguyên nhân tâm lý- xã hội dẫn họ đến
hành vi phạm tội, những thay đổi tâm lý trong thời gian chấp hành hình phạt tại trại
giam.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quá trình giáo dục cải
tạo phạm nhân.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm nhân cách của phạm nhân.
- Khách thể nghiên cứu
Phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam.
Ngoài ra, chúng tôi có tiến hành thu thập và lấy ý kiến của một số cán bộ
giáo dục, quản giáo trại giam.
5. Giới hạn nghiên cứu
- Về khách thể nghiên cứu:
Chúng tôi chỉ tiến hành điều tra,khảo sát trên một số lượng hạn chế các
phạm nhân hiện đang thi hành án tại trại giam.
- Nội dung: Vấn đề nhân cách là một vấn đề phức tạp và đến nay vẫn còn
nhiều tranh luận trong giới khoa học. Trong khoá luận này, chúng tôi đi vào tìm
hiểu đặc điểm nhân cách của các phạm nhân được nghiên cứu, tìm hiểu các
nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn họ tới hành vi phạm tội. Trong đó,
đặc biệt chú trọng đến các nguyên nhân liên quan đến bản thân phạm nhân, gia
đình và các yếu tố xã hội khác.
6. Giả thuyết khoa học
Qua quá trình tổ chức nghiên cứu, tiếp xúc với các phạm nhân, tôi cho
rằng nhân cách của phạm nhân có những nét đặc trưng, khác biệt so với các đối
tượng khác. Sự khác biệt này biểu hiện trên nhiều mặt khác nhau: nhận thức,
cảm xúc, hành vi, các thuộc tính tâm lí nhân cách.
7. phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
- Trắc nghiệm nhân cách của Cattell;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ phạm nhân;
- Phương pháp thống kê toán học

8. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
này bao gồm 3 chương:
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chương I: Cơ sở lý luận
- Chương II: Tổ chức nghiên cứu
- Chương III: Kết quả nghiên cứu thực tiễn
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề nhân cách
Từ lâu, nhân cách đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học:
triết học, xã hội học, đạo đức học. Tuy nhiên, đối với khoa học tâm lý, từ cuối
thế kỉ thứ 19 cho đến nay, các nhà tâm lý học mới nghiên cứu nhiều về nhân
cách.
Trong tâm lý học phương tây, nhân cách được nghiên cứu trên cơ sở của
nhiều lý thuyết khác nhau với các đại diện: thuyết phân tâm (S. Freud), thuyết
đặc điểm nhân cách (Allport, Cattell, Esensk), thuyết hiện tượng (C. Rogers).
W. Stern đã viết tác phẩm “Bàn về tâm lý học khác biệt cá nhân” trong
đó, ông đã đưa ra khái niệm “person” để chỉ bất kì một thực thể nào có khả năng
tự xác định và tự phát triển trong thế giới vô cơ lẫn thế giới hữu cơ. Theo ông,
toàn bộ thế giới là một cơ chế có thứ bậc của các “person” có thuộc tính nhân
cách. Đó là những phẩm chất tích cực, cá biệt, có xu hướng và mục đích hoạt
động. W.Stern cho rằng, nhân cách như là một kiến tạo hoàn chỉnh của đời sống
tâm lý con người.
Học thuyết có ảnh hưởng to lớn trong các lĩnh vực đời sống xã hội
phương Tây là học thuyết phân tâm của S. Freud. Ông cho rằng, yếu tố sinh học

và vô thức quyết định việc hình thành nhân cách, coi đối tượng của tâm lý học
không phải là ý thức mà là vô thức, coi sự thoả mãn tình dục là động lực hoạt
động. Ông giải thích mọi hiện tượng xã hội, tệ nạn, chiến tranh đều do bản năng
tình dục gây ra.
Không đồng ý với chủ nghĩa sinh học trong học thuyết phân tâm của S.
Freud, một số cộng sự cũng như học trò của ông đã rời bỏ học thuyết Freud và
hình thành học thuyết phân tâm học mới phát triển theo nhiều hướng khác nhau:
Karl Jung, Erich Fromn.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lí thuyết đặc điểm nhân cách với các đại diện như: Cattell, Allport,
Esensk, mặc dù đi sâu vào những vấn đề khác nhau và đưa ra các quan điểm
khác nhau về nhân cách nhưng theo họ nhân cách con người đều có những nét
đặc trưng nhất. Các đặc trưng đó là nền tảng của nhân cách. Những nhà tâm lý
học này đều cho rằng, hành vi và nhân cách con người có thể được sắp xếp theo
trật tự trên dưới, trật tự này là thứ tự của các đặc điểm nhân cách. Tuy nhiên các
nghiên cứu đều còn coi nhẹ mặt thực tại xã hội của nhân cách.
Có những lý thuyết khác lại đề cao tính xã hội trong quan điểm về nhân
cách. Họ cho rằng chỉ cần chú trọng đến những yếu tố xã hội là đủ để hiểu về
nhân cách con người, mà không hề tính đến vai trò của các yếu tố sinh học, như
thuyết siêu đẳng bù trừ (Adler), thuyết tương tác xã hội (G. H Mead), thuyết liên
nhân cách (R. Sears), thuyết hiện tượng ( C. Rogers)…
Gần đây, các nhà tâm lý học khác cũng đưa ra một số định nghĩa về nhân
cách. David G. Myers cho rằng, nhân cách là mô hình tư duy cảm xúc và hành
động mang đặc điểm của bản thân. Robert A. Baron lại nhận định nhân cách là
những hành vi, tư duy và cảm xúc có tính ổn định và đặc biệt của cá nhân…
Ở Liên Xô cũ trước đây, có nhiều nhà tâm lý học nghiên cứu về nhân cách
như: Rubinstein, Lêônchiev, Ananiev, Platonov… Dựa trên quan điểm của triết
học Macxit và phương pháp luận duy vật biện chứng, các nhà tâm lý học đều có
sự thống nhất chung về phương pháp luận nghiên cứu.

Nhà tâm lý học xuất sắc Ananiev đã nghiên cứu nhân cách trên cơ sở
thâm nhập một cách hữu cơ các khoa học nghiên cứu về con người. Ông cho
rằng, muốn xây dựng khoa học nhân cách phải dựa trên các khoa học nghiên
cứu về con người. Theo Ananiev, nhân cách là cá thể có tính chất xã hội, là
khách thể và chủ thể của bước tiến lịch sử. Nhân cách không tồn tại ngoài xã
hội, không tồn tại ngoài lịch sử. Vì thế, nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu
lịch sử cá nhân, đồng thời phải gắn liền nhân cách với hoàn cảnh xã hội. Tác giả
đã lần lượt nghiên cứu nhân cách dưới bốn hướng tiếp cận: nghiên cứu nhân
cách phải nghiên cứu con người với tư cách là chủng loài, từ đó tìm ra các yếu
tố lý hoá tác động đến hoạt động sống của con người. Nghiên cứu nhân cách
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cũng cần nghiên cứu con người với tư cách là cá nhân và sự phát triển cá thể của
nó. Đồng thời nghiên cứu con người với tư cách là chủ thể, theo đó ông cho rằng
nhân cách là chủ thể và khách thể của quá trình lịch sử, của mối quan hệ xã hội.
Cuối cùng, nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách và con đường sống
của nó; trong đó phải nghiên cứu xu hướng, tính cách, hành vi xã hội, động cơ
hành vi, cấu trúc nhân cách, vị thế nhân cách, con đường sống của nhân cách
trong xã hội.
Lêônchiev lại dựa vào thuyết hoạt động để nghiên cứu nhân cách. Tác giả
cho rằng, hoạt động là cơ sở của nhân cách. Vì thế, phải lấy hoạt động để phân
tích kiến giải hiện tượng nhân cách. Khi phân tích nhân cách phải kể đến động
cơ, nhu cầu, mục đích và hành động của cá nhân trong hoạt động. Từ đó mới có
thể tách bạch được con người ở những cấp độ khác nhau: cấp độ sinh vật, cấp độ
tâm lý với tư cách chủ thể và cấp độ xã hội [13].
Nhà tâm lý học Platonov đã đưa ra hệ thống cấu trúc chức năng cơ động
làm nền tảng để giải quyết những vấn đề về nhân cách. Đó là cấu trúc xu hướng
bao gồm ý hướng, ý nguyện, hứng thú, cấu trúc này không có yếu tố tự nhiên tác
động. Cấu trúc thứ hai là kinh nghiệm bao gồm các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và
thói quen. Cấu trúc thứ 3 là các quá trình tâm lý bao gồm những quá trình tâm lý

riêng lẻ và các chức năng tâm lý với hình thức phản ánh. Cấu trúc thứ 4 là các
thuộc tính sinh học qui định nhân cách, đó là thuộc tính của khí chất, giới tính,
lứa tuổi, bệnh lý của cá nhân.
Ngoài ra, ở Liên xô còn có xu hướng nghiên cứu nhân cách theo xu hướng
là cách tiếp cận cá thể hoá. Hoặc trên cơ sở phân tích hành vi phản xạ có điều
kiện của con người (quan điểm của Dobrưhin). Kovalev nêu quan điểm cho
rằng, nghiên cứu nhân cách là nghiên cứu điều kiện hình thành nhân cách, hành
vi, ý thức đạo đức, mối quan hệ nhân cách…
Nền tảng tâm lý học Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của nền tâm lý học
Liên xô cũ. Những luận điểm cơ bản của các nhà tâm lý học Macxit, sự vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của họ mãi mãi là bài học lớn cho
các nhà tâm lý học Việt Nam.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ở nước ta, các nhà tâm lý học như Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê
Đức Phúc, Nguyễn Quang Uẩn đều có những công trình nghiên cứu, bài viết về
vấn đề nhân cách, đặc điểm nhân cách. Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu
lý luận, làm rõ khái niệm nhân cách, đặc điểm nhân cách và các khía cạnh có
liên quan mà còn tiến hành nhiều phương pháp thực nghiệm, từ đó chỉ ra những
nét đặc trưng, cấu trúc, đăc điểm của nhân cách. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau.
Tác giả Trần Trọng Thuỷ nhấn mạnh: nhân cách có quan hệ với các thuộc
tính nhất định của cá thể, có nghĩa nó là tính cá biệt [ DT 7; tr.41]
Theo Lê Đức Phúc, nhân cách là những nét bản chất, những phương thức
hành vi, biểu hiện độc đáo riêng biệt trong hoạt động với những mối quan hệ
hiện thực của một người. Và khi người ta chết đi, sự hoạt động của não bộ
không còn nữa, thì chỉ có sự phản ánh nhân cách của họ thông qua những người
khác, tạo nên những hiện tượng tâm lý có thể giải thích khác nhau mà thôi [16].
Trần Hiệp viết: “là kết quả của quá trình xã hội hoá cá nhân, nhân cách
bao gồm tập hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý đã qui định hoạt

động và hành vi của cá nhân, qua đó giá trị của cá nhân ấy được xác đinh.” [DT
7]
Nguyễn Quang Uẩn xác định: nhân cách là tổ hợp những đăc điểm, những
thuộc tính tâm lý đã qui định hoạt động và hành vi của cá nhân, qua đó giá trị xã
hội của cá nhân ấy được xác định. Tác giả cho rằng, nhân cách có 4 đặc điểm cơ
bản như: tính thống nhất, tính ổn định, tính tích cực và tính giao lưu [24].
Đỗ Long coi: nhân cách là một chủ thể tự ý thức ở mỗi con người, thể
hiện thông qua quá trình tự khẳng định trong hoạt động chủ đạo của chính mình.
Theo Vũ Dũng, “một mặt nhân cách là sản phẩm của sự phát triển lịch sử
xã hội, mặt khác nhân cách cũng là ngươì sáng tạo ra hoàn cảnh, điều kiện, của
cải xã hội… Những nét đặc trưng của nhân cách bao gồm: tính tích cực hoạt
động và mở rộng phạm vi của nó, xu hướng với một hệ thống động cơ vững
chắc, trình độ tự nhận thức về các quan hệ của mình với hiên thực” [3, tr.179].
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tóm lại, các nhà tâm lý học Việt Nam mặc dù có quan điểm không đồng
nhất nhưng họ đã đưa ra những kết luận tương đối nhất quán: khái niệm nhân
cách là một phạm trù xã hội lịch sử, nhân cách thường được xác định như là một
hệ thống các quan hệ của con người, nhân cách thuộc về con người cụ thể bao
hàm những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý cá nhân biểu hiện bản sắc và giá
trị xã hội của họ, nhân cách bao gồm các mặt luôn có tác động qua lại với nhau
là nhận thức, xúc cảm, động cơ và ý chí…
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề nhân cách phạm nhân
Mặc dù nhân cách là vấn đề được nghiên cứu rất sâu rộng, nhưng riêng về
vấn đề nhân cách phạm nhân cho đến nay trên thế giới vẫn rất ít được nghiên
cứu, thỉnh thoảng mới được gián tiếp đề cập đến trong một số công trình nghiên
cứu về phạm nhân. Chẳng hạn khi nghiên cứu những yếu tố chi phối thái độ
chấp hành nội quy, quy chế trại giam, Ph.R. Xundurov đã nhận thấy rằng những
phạm nhân có gia đình ít vi phạm kỉ luật hơn những phạm nhân chưa có gia đình
hoặc đã có nhưng li hôn [DT 4].

Ở Việt Nam, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào tiến hành
nghiên cứu về đặc điểm nhân cách của phạm nhân. Các nhà tâm lý học mới chỉ
nghiên cứu về nhân cách chung chung, hoặc đăc điểm nhân cách của môt số đối
tượng khác, mà không nghiên cứu về nhân cách phạm nhân: Nhà tâm lý học Lê
Thị Hà với đề tài nghiên cứu “Đặc điểm nhân cách của gái maị dâm và định
hướng giải pháp giáo dục” (Luận án tiến sĩ tâm lý học).
2. Các khái niệm cơ bản
2.1. Khái niệm nhân cách và đặc điểm nhân cách
2.1.1. Khái niệm nhân cách (NC)
NC là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học và nhiều ngành khoa học
khác: giáo dục học, triết học, xã hội học… Trong tâm lý học, NC là một vấn đề
rất rộng lớn và phức tạp, các quan điểm tiếp cận lại rất đa dạng, mỗi quan điểm
lại đưa ra khái niệm NC trên những góc độ nghiên cứu của mình. Cho nên đến
nay, giới nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm này.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về mặt thuật ngữ, từ NC bắt nguồn từ chữ “persona” trong tiếng Hi Lạp
cổ đại. Trong từ điển Anh - Việt, “personality” nghĩa là nhân cách, nhân phẩm,
cá tính, người, cá nhân. Theo Từ điển Nga- Việt, từ “litrnost” nghĩa là: nhân
cách, nhân phẩm, con người, nhân vật, cá nhân. Còn trong từ điển tiếng Việt, từ
NC được hiểu là tư cách và phẩm chất của con người [15, tr.407].
Trong tâm lý học phương Tây, NC được nghiên cứu trên cơ sở của nhiều
lý thuyết. Có những lý thuyết đề cao quan điểm mặt sinh học trong cách hiểu về
NC, coi yếu tố sinh học là cái quan trọng hơn cả cần nghiên cứu trong hệ thống
nghiên cứu về NC, như bản năng vô thức (S. Freud), đặc điểm hình thể
(Kretschmer), thể trạng (Sheldon)…
Có những lý thuyết lại đề cao quan điểm xã hội trong định nghĩa về NC,
cho rằng chỉ cần chú trọng đến những yếu tố xã hội là đủ để hiểu về NC con
người mà không tính đến vai trò của các yếu tố sinh học: G.H. Mead, C.
Rogers…

Theo H. Thomae, NC là khái niệm bao hàm tất cả sự kiện hợp thành một
tiểu sử cá nhân.
Cattell cho rằng NC là hành vi của một người trong một tình huống nhất
định.
Esensk quan niệm NC là một tổ chức mang tính ổn định ít hay nhiều của
tính cách, khí chất, trí tụê và sinh lý của cá nhân, qui định tính độc đáo của sự
thích nghi đối với môi trường của nó.
Ở Liên Xô trước đây cũng có rất nhiều nhà tâm lý học nghiên cứu về NC.
Xuất phát từ quan điểm cuả tâm lý học Macxit cho rằng: NC là một phạm trù xã
hội, có bản chất xã hội – lịch sử, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa NC khác
nhau.
X.L. Rubinstein đã viết: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính
đặc biệt, không lặp lại, con người là NC do nó xác định được quan hệ của mình
với những người xung quanh một cách có ý thức”.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo Lêônchiev, NC không phải được sinh ra mà là được hình thành, là
một cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong các quan hệ sống cá nhân do hoạt
động của người đó được cải biến mà thành [13].
Còn theo Ananiev, NC là cá thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ
thể của bước tiến lịch sử, NC không tồn tại ngoài xã hội, ngoài lịch sử.
Tác giả Platonov hiểu NC đồng nghĩa với con người. Theo đó, ông cho
rằng, NC là con người có ý thức, NC là con người có lí trí, có ngôn ngữ, lao động.
Tóm lại, các nhà tâm lý học có quan niệm khác nhau về khái niệm NC
nhưng họ đều thống nhất với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:
NC là một phạm trù xã hội có tính lịch sử, NC không phải có sẵn hay bẩm sinh
mà được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân
đang lớn lên và đang biến đổi.
Trong cách hiểu của người Việt, NC có thể đươc hiểu dưới các mặt: thứ
nhất, NC được hiểu là con người có tài đức hay là tính cách và năng lực hoặc là

con người có các phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ. Thứ hai, NC được hiểu như các
phẩm chất và năng lực của con người. Thứ ba, NC có thể được hiểu như mặt đạo
đức, giá trị làm người của con người.
Trong khoa học tâm lý Việt Nam, NC là một khái niệm được các nhà tâm
lý học nghiên cứu từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một khái
niệm thống nhất.
Các nhà nghiên cứu khi đưa ra định nghĩa về NC đều căn cứ vào các quan
điểm của tâm lý học Macxit, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người,
đạo đức cách mạng.
Tác giả Phạm Hoàng Gia đã coi NC là giá trị xã hội hay phẩm giá của một
cá nhân.
Theo Bùi Văn Huệ, bản chất của NC là phạm trù thuộc cấp độ xã hội, bao
trùm lên một không gian rộng lớn hơn nhiều so với không gian của lớp đặc điểm
tâm sinh lý cá nhân [10, tr.56].
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ đưa ra định
nghĩa: "NC không phải là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người mà chỉ là những đặc điểm nào qui định con người như là thành viên của
xã hội, như là một công dân, một người lao động, một nhà hoạt động có ý
thức… NC là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân, qui định
giá trị xã hội và hành vi của họ" [DT 7, tr.84].
Nguyễn Ngọc Bích cho rằng, "NC là hệ thống những phẩm giá xã hội của
cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với cá nhân khác, với tập thể xã hội
với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong quá
khứ, hiện tại và tương lai" [2, tr.222].
Theo chúng tôi, “NC là một tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá
nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy” [22, tr.179].
Trong khái niệm trên, “thuộc tính tâm lý” được hiểu là những hiện tượng
tâm lý tương đối ổn định, có tính qui luật chứ không xuất hiện một cách ngẫu

nhiên. “Tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành NC có quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại làm thành một tổ hợp cấu trúc nhất định.
“Bản sắc” là muốn nói tới trong số những thuộc tính tâm lý đó, có cái chung từ
xã hội, song trong từng con người cụ thể đã biến thành cái riêng, cái khác biệt
của từng người không giống với các tổ hợp khác của bất cứ người nào. “Giá trị
xã hội" nghĩa là những thuộc tính tâm lý đó ở cá nhân được thể hiện ra bằng
những việc làm, hành vi, lao động ở người ấy và được xã hội đánh giá.
2.1.2. Đặc điểm nhân cách (ĐĐNC)
Cũng giống như NC, trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm ĐĐNC.
Trong tiếng Anh, từ “đặc điểm” thường được gọi là “trait”, trong tiếng
Nga là “xapakatep” được dịch sang tiếng Việt có nghĩa là đặc điểm, tính cách.
Trong từ điển tiếng Việt, “đặc điểm” được hiểu là nét riêng biệt [15, tr.283]. Vì
thế khi xem xét, ĐĐNC được coi là nét riêng biệt của NC hay là nét NC.
Trong các nghiên cứu về ĐĐNC của giới tâm lý học phương Tây, nổi lên
các lý thuyết theo trường phái ĐĐNC (trait theory) của các tác giả: Allport,
Cattell, Eysensk, Pervin… Họ cho rằng, đặc điểm là thiên hướng ứng xử theo
một cách thức nhất định của NC, đặc điểm qui định và điều chỉnh hành vi. Mặc
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dù chưa có cách hiểu thống nhất, chưa đưa ra một khái niệm ĐĐNC giống nhau
nhưng các tác giả khi đưa ra định nghĩa về thuật ngữ ĐĐNC đều đặt trong mối
quan hệ mật thiết với hành vi, coi hành vi như là hệ quả của những đặc điểm
nhân cách mang tính ổn định, nhất quán. Lý thuyết về ĐĐNC nhìn nhận hành vi
con người một cách đa dạng với đa biến số, phương pháp tiến hành nghiên cứu
cũng rất độc đáo và phát triển từng bước. Các nhà nghiên cứu đã chú trọng đến
nhiều nguồn của số liệu nghiên cứu: phòng thí nghiệm, quan sát tự nhiên và
bảng hỏi. Các nhà nghiên cứu về ĐĐNC đã cho ra đời những công cụ đo lường
NC ổn định và rất hữu ích trong công việc đánh giá và dự báo về NC.
Theo Allport, đặc điểm là các đơn vị cơ bản của NC, các đặc điểm thực sự

tồn tại và dựa trên hệ thần kinh. Chúng đại diện cho những thiên hướng khái
quát của NC và chịu trách nhiệm về tính ổn định trong vận hành của một người
trong suốt các tình huống và thời gian. Ông phân biệt hai loại đặc điểm là đặc
điểm cá nhân và đặc điểm chung. Đặc điểm chung là những đặc điểm có ở đa số
mọi người, đặc điểm cá nhân là những đặc điểm tạo nên tính duy nhất của người
đó hoặc của một số người. Theo ông, lý thuyết NC phải nhấn mạnh đến đặc
điểm cá nhân. Những đặc điểm cá nhân sau này được ông gọi là thiên hướng cá
nhân và thiên hướng này cũng được chia thành ba loại: thiên hướng chủ yếu,
thiên hướng trung tâm và thiên hướng thứ yếu.
Lý thuyết về ĐĐNC của Eysenck cho rằng, NC là một tổ chức có tính thứ
bậc. Cấp độ đơn giản nhất của hành vi là những phản ứng đặc biệt, tiếp đến một
nhóm thói quen kết hợp với nhau tạo nên các đặc điểm. Chúng tổng hợp nên một
yếu tố bậc cao nhất, được gọi là các siêu yếu tố. Ông đã xác định các chiều cạnh
cơ bản của NC nằm sau các yếu tố hoặc các đặc điểm đã tìm được. Các chiều
cạnh cơ bản này ông gọi là các loại hình hay các kiểu loại NC, bao gồm: tính
hướng nội- hướng ngoại, tính nhạy cảm, dễ bị kich thích hay là ổn định và bất
ổn định và tính tâm thần. Eysenck nhấn mạnh rằng các ĐĐNC có cơ sở sinh học
và phủ định vai trò của yếu tố xã hội trong sự hình thành nên các ĐĐNC.
Với Cattell, yếu tố cơ bản về mặt cấu trúc là đặc điểm, được định nghĩa
như là một thiên hướng. Theo ông thì các đặc điểm không đồng nhất với nhau,
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chúng khác nhau về quá trình hình thành, về khả năng thay đổi, về vai trò trong
cấu trúc NC. Ông đã tìm cách để phân biệt các loại đặc điểm khác nhau và chia
chúng thành hai nhóm: nhóm thứ nhất ông phân biệt giữa các đặc điểm năng
lực, đặc điểm tính khí và đặc điểm động thái, còn nhóm thứ hai là phân biệt giữa
các đặc điểm bề ngoài và đặc điểm nguồn gốc. Kết quả hàng loạt các nghiên cứu
thực nghiệm của ông là một bảng hỏi có tên 16 yếu tố nhân cách con người.
Cattell không coi con người là một đơn vị cố định ứng xử theo một cách
thức trong tất cả các tình huống. Các ứng xử phụ thuộc vào ĐĐNC và động cơ

thích ứng với tình huống đó. Thêm vào đó trạng thái và các vai trò cũng có tầm
quan trọng đặc biệt liên quan đến sự thay đổi của hành vi.
Ông cũng quan tâm tới hai vấn đề lớn là yếu tố di truyền và giáo dục
trong sự phát triển NC con người. Từ các nghiên cứu ông cho rằng, ảnh hưởng
của di truyền và môi trường thay đổi theo từng đặc điểm.
Nhìn chung, các đại diện của dòng lý thuyết về ĐĐNC đều cho rằng
ĐĐNC là thiên hướng phản ứng chung của cá nhân và là đơn vị cơ sở của NC.
Điểm khác nhau ở họ là số lượng và ý nghĩa của các đặc điểm cần thiết để có thể
có những mô tả hoàn chỉnh về NC.
Theo các nhà tâm lý học Macxit, con người là một thực thể xã hội và do
đó, NC, về nguyên tắc được quyết định bởi hoạt động trong xã hội đó. Con
người sống và hoạt động trong xã hội đều chịu sự tác động của tổng hoà các yếu
tố xã hội trong toàn bộ cuộc sống của mình. Các yếu tố đó có mối quan hệ mật
thiết với nhau và tạo thành môi trường xã hội của NC. Điều này có thể thấy rõ
trong lý thuyết về NC của Lêônchiev- lý thuyết hoạt động, coi hoạt động là cơ
sở của NC. Theo đó, tác giả coi NC như là một cấu tạo tâm lý mới hình thành
trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo con người, do
đó hoạt động là cơ sở của NC. Từ đó ông cho rằng, ĐĐNC luôn được thể hiện
trong các hoạt động của con người, nhất là các hoạt động chủ đạo.
Các nhà tâm lý học Việt Nam thường coi ĐĐNC là nét NC hoặc các thuộc
tính tâm lý của cá nhân. Trong từ điển tâm lý học, khái niệm nét NC được hiểu
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là “Đặc điểm tương đối bền vững của hành vi con người, lặp đi lặp lại trong
những hoàn cảnh khác nhau” [3].
Theo quan điểm của tác giả Bùi Văn Huệ, ĐĐNC đó là thuộc tính nhất
định của NC, đại diện cho một cá nhân, giúp ta phân biệt được cá nhân này với
hàng loạt cá nhân khác không có thuộc tính ấy, và cùng với hàng loạt những NC
khác cũng có những thuộc tính ấy, nó thể hiện cái toàn thể mang tính chất bộ
phận [10, tr.65].

Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: "ĐĐNC qui định giá trị xã hội của cá nhân.
Nó tương đối khó hình thành nhưng cũng khó mất đi" [24].
Giáo trình Tâm lý học trường đại học luật Hà nội liệt kê 4 đặc điểm cơ
bản của NC, bao gồm: tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực và tính giao
tiếp [22].
Trên cơ sở các quan điểm khác nhau về ĐĐNC, chúng tôi cho rằng: “Đặc
điểm nhân cách có thể được hiểu chung là những thuộc tính tâm lý nhất định tạo
nên nét đặc trưng cho NC của của cá nhân, giúp ta phân biệt được cá nhân này
với các cá nhân khác, đồng thời quy họ về một nhóm. Nó được thể hiện trong
cấu trúc của NC và trong hành động của mỗi người” [7].
2.2. Khái niệm nhân cách của phạm nhân
2.2.1. Khái niệm phạm nhân
Phạm nhân là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến
trong đời sống hằng ngày cũng như trong khoa học pháp lý. Là thuật ngữ chuyên
ngành của pháp luật hình sự, “phạm nhân” còn được sử dụng rộng rãi trong các
khoa học khác như: điều tra hình sự, tội phạm học, tâm lý học tư pháp…
Theo từ điển Hán- Việt, phạm nhân có nghĩa là người phạm tội. Trong từ
điển tiếng Việt thông dụng (Nguyễn Như Y chủ biên), phạm nhân được hiểu là
người phạm tội, người bị kết án. Và trong suy nghĩ của nhiều người, “phạm
nhân” được hiểu đồng nghĩa với người phạm tội.
Tuy nhiên trong thực tiễn pháp luật hai khái niệm phạm nhân và người
phạm tội hoàn toàn khác nhau, trong đó nội hàm khái niệm người phạm tội rộng
hơn khái niệm phạm nhân. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, người phạm tội là
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện
hành vi phạm tội cụ thể được qui định trong bộ luật hình sự [25]. Trong đó,
người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và không thuộc các trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự.

Nhưng không phải người phạm tội nào cũng được coi là phạm nhân. Mặc
dù khi thực hiện hành vi phạm tội họ đã đủ độ tuổi luật định, là người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đã bị kết án. Nhưng nếu như hình phạt mà họ phải
chấp hành không phải là hình phạt tù, hoặc phải chấp hành hình phạt tù nhưng
được hưởng án treo thì không thể gọi những người đó là phạm nhân.
Trong Từ điển luật học, khái niệm phạm nhân được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng, phạm nhân là người đã bị toà án hình sự tuyên xử là đã phạm
tội và bị hình phạt, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo nghĩa hẹp, phạm nhân
là người đã bị toà án phạt tù và đang bị giam giữ hoặc bị án tử hình [21, tr.361].
Theo Pháp lệnh thi hành án phạt tù, “Thi hành án phạt tù là buộc những
người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân chấp hành hình phạt tại trại giam
nhằm giáo dục họ trở thành người lương thiện” (điều 1); và “trại giam là nơi
chấp hành hình phạt của người bị kết án tù” (điều 6) [26].
Như vậy, từ đây có thể hiểu: phạm nhân là người bị kết tù có thời hạn, tù
chung thân và hiện đang phải chấp hành hình phạt tại trại giam.
2.2.2. Đặc điểm nhân cách của phạm nhân
Trên cơ sở các hiểu biết trên đây về NC, ĐĐNC có thể đưa ra các kết luận
sau đây:
- Thứ nhất, về NC của người phạm tội nói chung và NC phạm nhân nói
riêng, đó là những đặc điểm tâm lý không phù hợp với những chuẩn mực xã hội
và luôn trái ngược với lợi ích Nhà nước và cộng đồng.
Nhân cách người phạm tội không phải tự nhiên mà có cũng không phải do
bẩm sinh di truyền, mà được hình thành trong quá trình thực hiện tội phạm, quá
trình tác động qua lại giữa cá nhân với môi trường sống xã hội tiêu cực.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thứ hai, ĐĐNC của phạm nhân là những thuộc tính tâm lý nhất định tạo
nên nét đặc trưng cho nhân cách của phạm nhân, giúp ta phân biệt được phạm
nhân với các cá nhân khác. ĐĐNC của phạm nhân được thể hiện trong cấu trúc
nhân cách và trong hành động của họ.

2.3. Các mặt nhân cách cơ bản
Giá trị xã hội của nhân cách phạm nhân phụ thuộc rất lớn vào hành vi của
họ. Hành vi của phạm nhân đó là kết quả của sự tác động qua lại của nhiều yếu
tố. Vì thế nghiên cứu NC của phạm nhân liên quan đến viêc nghiên cứu các mặt
của NC. Theo Bùi Văn Huệ, “NC có cấu trúc xác định, NC không phải là vô
định. Các phần tử tạo nên NC liên hệ với nhau rất hữu cơ làm cho NC trọn vẹn”
[10, tr.57].
Chúng tôi cho rằng, cấu trúc của NC gồm 4 thuộc tính: xu hướng, năng
lực, tính cách, khí chất.
2.3.1. Xu hướng
Hoạt động của cá nhân trong cộng đồng, trong xã hội bao giờ cũng nhằm
một mục đích nhất định hoặc hướng tới một mục đích nào đó, không có hoạt
động nào là không có phương hướng. Sự hướng tới này được phản ánh trong
tâm lý mỗi người như là xu hướng của nhân cách. Xu hướng nói lên hướng phát
triển của nhân cách, nhân cách phát triển từ đâu theo chiều hướng nào là do xu
hướng quyết định.
Xu hướng cá nhân là một hệ thống động cơ và mục đích định hướng và
thúc đẩy con người tích cực hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu, hứng thú hoặc
vươn tới mục tiêu mà cá nhân sẽ lấy làm lẽ sống của mình.
Trong cuộc sống, xu hướng biểu hiện ra bên ngoài ở nhu cầu, hứng thú, lí
tưởng, thế giới quan và niềm tin.
- Nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của con người trong những điều
kiện nhất định, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của họ. Nhu cầu bao giờ cũng là
đòi hỏi về một cái gì đó, có thể là nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần hay là nhu
cầu gắn liền với các chức năng xã hội. Lúc đó nhu cầu trở thành động lực thúc
đẩy con người hoạt động để thoả mãn chính những nhu cầu đó.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó mà đối
tượng đó vừa có ý nghĩa trong đời sống, vừa hấp dẫn về mặt tình cảm đối với cá

nhân đó. Hứng thú có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức, làm tăng hiệu
quả của quá trình này. Hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu
vào đối tượng. Nó biểu hiện ở chỗ nhờ có sự hứng thú mà cá nhân tập trung chú
ý cao độ vào cái làm mình hứng thú, điều chỉnh các quá trình tâm lý theo một
hướng xác định. Do đó, hoạt động con người được tích cực hoá theo hướng phù
hợp với hứng thú.
- Lý tưởng là mục tiêu được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình
thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn
bộ cuộc sống của cá nhân trong một thời gian tương đối lâu dài và hoạt động để
vươn tới mục tiêu đó.
Lý tưởng có ba chức năng:
+ Xác định mục tiêu và chiều hướng phát triển của cá nhân;
+ Lý tưởng là động lực thúc đẩy và điều khiển hoạt động của con người;
+ Lý tưởng trực tiếp chi phối sự hình thành phát triển tâm lý của cá nhân.
- Thế giới quan: là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân
hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động của người đó. Đó
là nền tảng cho toàn bộ đời sống tâm lý cá nhân, chi phối mọi phẩm chất tâm lý
khác của con người, là cơ sở để định hướng thái độ, hành động của cá nhân, thể
hiện trong lời nói, cử chỉ, hành vi, hành động và hoạt động của con người.
- Niềm tin: là hệ thống các quan niệm vững chắc quyện chặt với tình cảm
sâu sắc và ý chí mãnh liệt con người. Niềm tin có cơ sở vào lý tưởng mà con
người theo đuổi trong cuộc sống hằng ngày. Niềm tin là một bộ phận của thế
giới quan cá nhân, nó thúc đẩy NC hành động phù hợp với những quan điểm của
mình.
2.3.2. Năng lực
Năng lực của mỗi người bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của chính
người đó và các sản phẩm chính của hoạt động ấy. Năng lực chỉ hình thành và
phát triển trong hoạt động. Đến lượt nó. Kết qủa của hoạt động lại tuỳ thuộc vào
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trình độ phát triển của năng lực được hình thành trong hoạt động này. Vì thế, khi
nói đến năng lực bao giờ người ta cũng nói đến năng lực trong về một hoạt động
nào đó.
“Năng lực là tổng hoà các thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân phù hợp
với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt
động đó diễn ra có kết quả” [22, tr.188].
Năng lực là sự tổng hợp các thuộc tính, chúng được kết hợp theo một cấu
trúc nhất định. Trong số những thuộc tính tâm lý của nhân cách cấu tạo nên một
năng lực về một hoạt động bao giờ cũng có những thuộc tính có tầm quan trọng
hàng đầu, còn những thuộc tính khác có vai trò bổ sung hỗ trợ. Cấu trúc của
năng lực gồm 3 thành phần chính: những thuộc tính làm chủ đạo, những thuộc
tính làm chỗ dựa, những thuộc tính làm nền.
Năng lực được biểu hiện ở các mức độ: tư chất, thiên hướng, năng khiếu,
tài năng và thiên tài.
2.3.3. Tính cách
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp của cá nhân bao gồm một hệ
thống thái độ của nó đối với hiện thực thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ,
cách nói năng tương ứng.
Theo tác gỉa Bùi Văn Huệ, tính cách là những phẩm chất chung của NC,
là tập hợp không phải tất cả mà chỉ những đặc điểm điển hình nhất của NC ở
trong mối liên hệ rất chặt chẽ [10, tr.65].
Như vậy, có thể hiểu tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý
ổn định của con người, những đặc điểm này qui định phương thức hành vi điển
hình của người đó trong những điều kiện và hoàn cảnh sống nhất định thể hiện
thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân.
2.3.4. Khí chất
Khí chất là một thuộc tính tâm lý gắn liền với kiểu hoạt động thần kinh
tương đối bền vững của cá nhân, đặc trưng cho hoạt động tâm lý về cường độ,
tốc độ, nhịp độ, thể hiện sắc thái riêng về hành vi và cử chỉ của người đó [22].
19

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khí chất là thuộc tính tâm lý có liên quan trực tiếp đến đặc điểm mang
tính bẩm sinh di truyền, khí chất của cá nhân có cơ sở sinh lý là các kiểu thần
kinh cơ bản, nhưng khí chất là một hiện tượng tâm lý nên nó mang bản chất xã
hội lịch sử, có thể thay đổi do rèn luyện, giáo dục và tự giáo dục.
Có bốn kiểu khí chất:
- Kiểu khí chất linh hoạt;
- Kiểu khí chất bình thản;
- Kiểu khí chất nóng;
- Kiểu khí chất ưu tư.
Như vậy, cấu trúc của NC gồm 4 thuộc tính cơ bản:
- Xu hướng biểu hiện ở nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin.
- Năng lực biểu hiện ở sự hiểu biết, sự tự ý thức và đánh giá khả năng
đảm nhận một cương vị trong xã hội, vai trò trong gia đình.
- Tính cách: thể hiện qua cách ứng xử, quan hệ, tính khí thái độ đối với
thế giới xung quanh và chính bản thân mình.
- Khí chất: là cá tính con người có liên quan đến thần kinh.
Các thuộc tính này liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành một thể
thống nhất, người ta gọi đó là tính thống nhất của nhân cách.
Ở phạm nhân, 4 thành phần cấu trúc NC tạo nên một tổng hoà ở mỗi cá
nhân với bản sắc, cá tính rõ rệt và cùng ảnh hưởng đến cuộc sống và hành động
của họ.
Kết luận chương 1
Thông qua nghiên cứu sơ lựơc vấn đề nhân cách nói chung và nhân cách
phạm nhân nói riêng cho thấy, cho đến nay, hầu như chưa có công trình tâm lý
học ở trong và ngoài nước nghiên cứu về ĐĐNC của phạm nhân.
Trên bình diện tâm lý học, chúng tôi tìm hiểu các quan điểm khác nhau về
NC, ĐĐNC, các mặt của NC, một số lý thuyết chủ yếu về ĐĐNC. Chúng tôi
nhận thấy rằng, các lý thuyết về ĐĐNC đã xem xét một cách tương đối toàn
diện về các khía cạnh khác nhau của ĐĐNC. Đồng thời các tác giả cũng đã đưa

20

×