Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Nghiên cứu thị trường chứng khoán thị trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.4 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

MỤC LỤC
Lời giới thiu
CHNG I : Cơ sở của đề tài
I.Quy lut thng nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh
các mặt đối lập
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
3.Ý nghĩa phương pháp luận
II. Mâu thuẫn biện chứng giữa lợi ích của doanh nghiệp và nhà đầu tư
– nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của thị trường chứng khoán.
1.Người tiêu thụ cũng là người đầu tư
2. Doanh nhân lúc nào cũng cần tiền
3. Cơ sở trao đổi giữa doanh nghiệp và cơng chúng: đền bù rủi ro kinh
doanh
4. Sự hóa giải cái trái ngược về lợi ích giữa doanh nhân và nhà đầu tư
5.Góp vốn và cho vay
6.Sự cần thiết của một người trung gian
7.Tính tất yếu của Sự hình thành thị trường chứng khốn
8.Tồn cảnh về thị trường chứng khốn
CHƯƠNG II : SỰ RA ĐỜI CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TRÊN THẾ GIỚI
CHƯƠNG III: BUỔI BAN ĐẦU CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
I. Những thành tựu, kết quả ban đầu
II . Thị trường chứng khoán - Những khuyết tật
III. Các văn bản pháp luật
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2




Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lêi giíi thiƯu
Trong sự phát triển của nhân loại, từ nền văn minh nông nghiệp
đến văn minh công nghiệp và vơng tới văn minh trí tuệ, tiền tệ đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong tiến trình ấy. Ngay từ khi ra đời, các hình
thức trao đổi tiền, tích lũy, lu thông tiền tệ đà không ngừng đựoc cải tiến
để thúc đẩy cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa.
Cho đến khi dịch vụ Ngân hàng ra đời thì đó hẳn là bớc đột phá
lớn lao để con ngời có thể sử dụng và tích lũy tài sản an toàn, tiện lợi
hơn. Tài chính Ngân hàng phát triển xong khi mà nền kinh tế thị trờng
đà phát triển cao thì dờng nh ngành này vẫn cha đáp ứng hết chức năng
về tài chính. Điều đó đà tạo tiền đề cho sự ra đời của một loại thị trờng.
Đó là Thị trờng chứng khoán.
Tại Việt Nam, khái niệm này xem ra còn mới mẻ. Thị trờng
chứng khoán Việt Nam cũng chỉ mới đi vào hoạt động từ tháng 7 - 2000.
Số lợng doanh nghiƯp tham gia cịng chØ vµi chơc. Con sè nµy thực sự
còn khiêm tốn tuy nhiên trong thời gian gần đây TTCK VN đà có những
bớc tiến mạnh mẽ. ĐÃ cã thªm rÊt nhiỊu doanh nghiƯp lín tham gia nh
Vinamilk, Vietcombank,.. . ; lợng cổ phiếu cũng nh giá trị giao dịch cũng
ngày càng tăng lên.
Trong sự phát triển nhanh của một loại thị trờng tiền tệ, chúng ta
càng cần có kiến thức về nó để đáp ứng những đòi hái míi cđa nỊn kinh
tÕ. Bµi tiĨu ln nµy chØ xin đề cập đến Sự ra đời của thị trờng chứng
khoán trên Thế giới và tại Việt Nam. Với những gì đợc đa ra, tôi hi vọng
nó sẽ đem lại những kiến thức bổ ích để chúng ta đều biết đợc nguồn gốc
của một loại thị trờng rất đặc biệt và hấp dẫn này. Sự ra đời của nó
trong lich sử nhân loại cũng chính là một phạm trù triết học mà ta cần

nghiên cứu làm rõ.

3


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ch¬ng I: C¬ sở của đề tài
I.Quy lut thng nht v u tranh của các mặt đối lập
* Vai trò của Quy luật trong Phép biện chứng : Chỉ ra nguồn
gốc và động lực của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin viết : Có
thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất
của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng, nhưng điều đó địi hỏi phải có những giải thích và một sự phát
triển thêm” (V.I.Lênin: Toàn tập, t29, NXB Tiến Bộ, Matxcơva,
1981, tr240.)
1. Khái ni ệm các m ặt đối l ập, mâu thu ẫn, s ự th ống nh ất v à
đấu tranh các m ặt đối l ập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan, tạo nên sự tồn tại của sự
vật.
+ Sự tồn tại của các mặt đối lập là phổ biến. Nếu sự vật khơng có
mặt đối lập thì khơng tồn tại
Mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau trong sự thống nhất, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
+ Mâu thuẫn biện chứng quy định sự tồn tại của sự vật chứ khơng
tiêu diệt sự vật, nó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập, sự
chuyển hóa của các mặt đối lập tạo nên sự ra đời hay kết thúc của

sự vật, hiện tượng.
+ Mâu thuẫn biện chứng có tính khách quan phổ biến. Như cơ học
(hút – đẩy); Quang lý (hạt – sóng); hóa học (tổng hợp – phân
hủy); sinh học (đồng hóa – dị hóa); xã hội (vật chất – ý thức); tư
duy (biết – chưa biết). Theo F.Enghen: “Bản thân sự vận động đã
là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách máy móc và
đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ vì một vật trong
cùng một lúc vừa ở nơi này, vừa ở nơi khác, vừa cùng ở một chỗ
duy nhất lại vừa khơng ở chỗ đó”. (Chống Duy-ring, NXB Sự
thật, Hà Nội, 1984, tr201).

4


Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Các mặt đối lập nhưng không trong một thể thống nhất, một
chỉnh thể chỉ có thể tạo nên mâu thuẫn hình thức, không biện
chứng.
Sự thống nhất : hai mặt đối lập nương tựa, làm tiền đề cho nhau,
không
tách rời nhau.
Cần phân biệt hai khái niệm: Đồng nhất và thống nhất
+ Đồng nhất: là sự phát triển ngang nhau, các yếu tố giống
nhau giữa các mặt đối lập
+ Thống nhất: thể hiện đòi hỏi sự chuyển hóa giữa các mặt đối
lập.
Sự đấu tranh: đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động
qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy định sự vận động và

phát triển của sự vật chứ không phải tiêu diệt sự vật.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập trong thể thống nhất của sự
vật, hiện tượng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu
hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Chúng khơng tách rời nhau trong q trình vận động và phát triển của
sự vật. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là có
điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối. (Sđd, tr.379-380)
Đấu tranh của các mặt đối lập làm thay đổi tất yếu các mặt và làm
cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác
nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó
ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập sung đột gay gắt
đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết.
Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ
mất đi, sự vật mới thay thế. V.I.Lênin viết: Sự phát triển là một cuộc đấu
tranh giưa các mặt đối lập” (Sđd, tr.379). Tuy nhiên khơng có thống nhất
giữa các mặt đối lập thì cũng khơng có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập là không thể tách rời trong mâu thuẫn

5


Website: Email : Tel : 0918.775.368

biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập quy định tính ổn định và thay đổi của sự vật. Do đó mâu thuẫn chính là

nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
3.Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức được bản chất cảu sự vật phải phát hiện ra mâu
thuẫn, vì mâu thuẫn quy định bản chất sự vật. Phải thừa nhận mâu thuẫn
tồn tại khách quan, để nhận thức đầy đủ sự vật phải nhận thức ít nhất hai
mặt đối lập.
Phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể. Sự vật khác nhau, quá
trình khác nhau, bản chất khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác nhau,
tránh rập khn, máy móc.
Muốn thay đổi bản chất sự vật phải giải quyết mâu thuẫn, tránh cải
lương, điều hòa.

II. Mâu thuẫn biện chứng giữa lợi ích của doanh nghiệp và nhà
đầu tư – nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của thị trường chứng
khoán.

1.Người tiêu thụ cũng là người đầu tư
Là nam hay nữ, chúng ta đều cần cơm ăn, áo mặc, và nhiều thứ khác
gọi là hàng hóa. Hàng hóa phải được chế tạo ra. Người làm ra chúng được
gọi là nhà sản xuất hay doanh nhân hay doanh nghiệp. Doanh nhân cung
ứng sản phẩm và chúng ta là người tiêu thụ.
Để mua hàng, ta phải đi làm để có tiền, gọi là lợi tức hay thu nhập.
Mua sắm đủ cho hơm nay, ta cịn phải dành ít thu nhập để phịng cho
ngày mai, nhỡ đau yếu, bệnh tật, đó là tiết kiệm. Tiền tiết kiệm
chúng ta có thể cho người khác sử dụng bằng cách cho vay, hoặc hùn
vốn. Nếu ta đưa tiền cho doanh nhân dùng tức là chúng ta đầu tư, vì
với số tiền của ta, doanh nhân sẽ làm cho số tài sản hiện có được
tăng thêm. Doanh nhân và ta cần có nhau. Doanh nhân sản xuất, ta
6



Website: Email : Tel : 0918.775.368

mua hàng của họ rồi đầu tư vào họ vì họ sẽ sản xuất nhiều hơn cho
ta và con cháu ta. Vì vậy, là người tiêu thụ nhưng cũng có khi chúng
ta là người đầu tư. Những người như ta rất đông tạo nên một thành
phần trong nền kinh tế gọi là công chúng.
2. Doanh nhân lúc nào cũng cần tiền
Doanh nhân luôn ln cần tiền của người đầu tư. Bởi vì doanh nhân
phải bỏ tiền của chính mình ra, gọi là vốn, trong hai giai đoạn. Lúc đầu,
mua sắm nhà cửa, máy móc, xe cộ để có cơng cụ sản xuất. Những thứ này
dùng vài năm mới hỏng, nên tiền bỏ ra mua chúng gọi là vốn cố định. Về
sau, doanh nhân tiếp tục bỏ tiền ra mua nguyên vật liệu, thuê thầy thợ, trả
điện nước để làm ra sản phẩm; tiền này gọi là vốn lưu động. Từ lúc bỏ tiền
mua, rồi làm ra sản phẩm, đem đi bán đến khi thu tiền về bao giờ cũng
phải mất đi một thời gian. Thí dụ, làm cái bánh chưng thì mất hai ba ngày;
nhưng sản xuất một cái máy cày phải mất vài tháng mới bán được. Thời
gian đó gọi là vịng quay vốn. Doanh nhân có thể có đủ vốn lưu động cho
vòng quay đầu nhưng đến vòng thứ hai, thứ ba, họ phải đi vay vốn lưu
động để duy trì sản xuất. Vịng quay càng dài thì càng phải vay nhiều. Vậy,
lý do thứ nhất khiến doanh nhân luôn phải vay nợ là vì có vịng quay vốn
mà họ lại khơng thể ngưng sản xuất được. Vốn đi theo vịng tròn, hết vòng
này mới sang vòng khác; trong khi sản xuất lại đi theo đường thẳng.
Tiền thu về gọi là doanh thu sẽ giúp doanh nhân trang trải 4 thứ:





Lấy lại vốn lưu động

Trả thuế
Dành một khoản cấn trừ theo tỷ lệ của vốn cố định để sau này còn
mua sắm chúng lại được, gọi là khấu hao tài sản cố định
Thưởng cho mình vì cơng sức đã bỏ ra.

Khoản tiền 3 và 4 gọi là lợi tức thuần, hay sau thuế hay lợi tức doanh
nghiệp. Doanh nhân trả nợ xong thì có thể vay vốn lưu động tiếp; gọi là
vốn vay hay tín dụng ngắn hạn, nghĩa là phải trả trong vịng một năm là tối
đa.
Bây giờ, vì hàng bán chạy, doanh nhân thấy cần tăng mức sản xuất,
muốn có thêm hàng phải có thêm máy móc mới, gọi là đầu tư mở rộng. Lợi
tức thuần không đủ để đầu tư mở rộng. Doanh nhân bắt buộc phải đi vay.
Đây là lý do thứ hai vì sao họ phải đi vay. Tiền vay cho đầu tư mở rộng chỉ
7


Website: Email : Tel : 0918.775.368

có thể trả từ từ bằng lợi tức thuần, vì nếu có bao nhiêu lợi tức thuần mà
đem trả nợ hết thì khơng còn tiền cho vốn lưu động hay để thay thế máy
móc cũ. Vì thế, vốn vay cho đầu tư mở rộng phải là vốn trung hạn, trả
trong vòng từ 3-5 năm, hay vốn dài hạn, từ 5 năm trở lên. Doanh nhân
càng cần vốn nhiều thì phải đi vay hay gọi vốn nhiều. Tùy số vốn ấn định,
họ có thể là một Cơng ty cổ phần, là hình thức gom vốn cao nhất hiện nay
3. Cơ sở trao đổi giữa doanh nghiệp và công chúng: đền bù rủi ro kinh
doanh
Doanh nhân cần vốn ngắn, vốn dài, nhưng hàng làm ra có thể khơng
bán được, bị hỏng, bị mất.... Hàng mất thì khơng có doanh thu. Cho nên
cơng việc làm ăn của doanh nhân ln ln có rủi ro, gọi là rủi ro kinh
doanh. Rủi ro này nằm ở 2 chỗ là thời gian để thu tiền về và khả năng tiền

bị mất.
Cơng chúng đầu tư vào doanh nhân thì cũng phải chịu rủi ro kinh
doanh. Muốn lôi kéo họ, doanh nhân phải hứa hẹn. Lời hứa là nếu ai giao
tiền để cho vay hay hùn vốn, thì sẽ được đền bù cho rủi ro kia và việc phải
nhịn ăn, nhịn tiêu bây giờ. Mức đền bù sẽ bằng một khoản chênh lệch giữa
số tiền cho bây giờ và trả sau này tính theo phần trăm trên số tiền được
giao lúc đầu, gọi là lãi suất. Lãi suất là cái giá mà doanh nhân phải trả để
mua tiền của người đầu tư. Các nhà kinh tế coi sự giao dịch giữa hai người
gọi là một sự trao đổi (trade)
Từ cơ sở ấy, một nguyên tắc được đặt ra cho sự trao đổi dựa trên lẽ
công bằng là nếu rủi ro mất tiền cao thì lãi suất sẽ cao; việc nhịn ăn, nhịn
tiêu được tính chung vào lãi suất ấy nhưng bị tùy thuộc vào việc doanh
nhân có dễ tìm được một người đầu tư khác hay không. Lãi suất tiêu biểu
cho rủi ro kinh doanh và là cái giá để mua bán tiền.
4. Sự hóa giải cái trái ngược về lợi ích giữa doanh nhân và nhà đầu tư
Do nguyên tắc về lãi suất, sự trao đổi giữa doanh nhân và nhà đầu tư
luôn là một sự giằng co giữa hai lợi ích khác nhau. Người đầu tư muốn lãi
suất cao, thu tiền sớm. Doanh nhân lại muốn lãi suất thấp, mà lâu mới trả
tiền; nhất là những người thực hiện những dự án lớn. Đó là địi hỏi cực
đoan giữa các bên. Giải quyết mâu thuẫn biện chứng này là cơng trình của
lồi người kéo dài qua nhiều thế kỷ và bằng hai cách chính.

8


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Cách đầu là để hai bên trao đổi với nhau qua trung gian là thị trường
tiền tệ; chủ yếu do các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thực
hiện. Cách sau là qua thị trường tài chính, tức thị trường khốn. Khoảng

cách xuất hiện của hai phương cách này khá dài. Thí dụ ở Mỹ, ngân hàng
đầu tiên xuất hiện năm 1781 (Bank of North America) cịn thị trường
chứng khốn New York ra đời năm 1863. Sở dĩ như vậy là vì các yếu tố để
hình thành phải đi đồng bộ với nhau và đi từ thấp lên cao. Chẳng hạn,
muốn có thị trường chứng khốn, doanh nghiệp phải làm ăn lời lãi, muốn
đầu tư mở rộng hay đầu tư vào những dự án lớn (làm đường sá); lúc ấy họ
mới cần thêm vốn nhiều. Về phía người đầu tư, họ cũng phải có thu nhập
cao, có nhiều tiền để dành. Rồi tình hình kinh tế chung phải phát triển, luật
pháp phải mở mang. Khi đã có các yếu tố chuẩn bị này thì hệ thống tài
chính làm trung gian phải có phương tiện và kỹ thuật tương ứng giúp cơng
chúng và doanh nhân trao đổi với nhau được.
TTCK là một bước phát triển cao hơn của thị trường tiền tệ. Nó vận
dụng các cơng nghệ của riêng nó, ăn khớp với các kỹ thuật của thị trường
tiền tệ và của các doanh nghiệp để thu hút tiền tiết kiệm của công chúng
rồi đưa cho doanh nghiệp. Và khi làm như thế, nó đồng thời hóa giải được
địi hỏi cực đoan của 2 bên, nhiều hơn tất cả những phương thức có trước
đó.
5.Góp vốn và cho vay
Trong xã hội, con người sống với nhau, con người giúp đỡ nhau về
tinh thần và trao đổi với nhau thành quả công việc của mình. Sự trao đổi
tạo nên sự chun mơn hóa, cịn gọi là phân cơng lao động. Nhờ chun
mơn hóa, con người tạo ra nhiều của cải hơn cái mà mình dùng. Vậy có dư
thừa.
Đã sống thì ai cũng lo cho ngày mai, nào mình, nào con cái, do đó,
phải để dành. ấy là tiết kiệm. Có tiền tiết kiệm thì ai cũng muốn nó sinh
sơi. Và chỉ có 2 cách: lấy số tiền đó đứng ra làm ăn bn bán; hoặc đưa
cho người khác. Người tính chuyện làm ăn lâu dài sẽ lập một cơ sở sản
xuất. Đó là đầu tư. Người đầu tư trong đa số trường hợp, bao giờ cũng
được hưởng lợi tức từ số tiền đã bỏ ra. Đó là sự đền bù vì đã nhịn ăn, nhịn
tiêu, bỏ công sức và chịu rủi ro kinh doanh. Mất mát càng cao thì sự đền

bù càng nhiều. Những người này là doanh nhân. Lợi tức doanh nhân hưởng
thường là từ 20% trở lên cho ngành sản xuất, cao hơn nữa cho ngành bn
bán; riêng ngành tài chính thường phải hơn 30%. Mức lợi tức đó được tính
9


Website: Email : Tel : 0918.775.368

theo hàng năm dựa trên số chi phí bỏ ra và doanh thu lấy về. Doanh nhân
là người có óc phiêu lưu, lại được trời cho cặp mắt nhìn ra được các cơ hội
để kiếm tiền. Và vì thế họ là người tài ba. Những ai không tài ba mà cũng
muốn tiền để dành sinh lãi thì - nghe lời hứa của doanh nhân - đưa tiền cho
doanh nhân, gọi là hùn vốn để cuối năm được chia lời, số tiền đưa vào sẽ
lấy về mươi mười năm sau khi doanh nghiệp giải thể. Đó là sự hùn vốn,
hay đầu tư bằng cách góp vốn. Khi hùn vốn thì có năm khơng được chia gì
nếu doanh nghiệp làm ăn khơng có lời hay quyết định khơng chia lời. Tiền
chia lời do góp vốn gọi là cổ tức.
Có nhiều người ngại cách hùn vốn. Họ muốn tiền đưa ra tháng nào
cũng phải có lãi về, và bao lâu nhất định lấy lại số gốc. Do đó, họ cho
doanh nghiệp vay. Tiền cho vay phải có tài sản bảo đảm sẽ trả nợ. Từ đó
có cách vay có tài sản thế chấp hay khơng. Đó là đầu tư bằng cách cho vay.
Cho vay thì khơng sợ mất tiền nên lãi được hưởng sẽ không cao như khi
góp vốn. Góp vốn hay cho doanh nghiệp vay gọi là tài trợ. Tài trợ là một
sự trao đổi.
Người đầu tư và doanh nhân là 2 trụ cột cho sự phát triển của một
nước. Công chúng đưa tiền cho doanh nhân để người này làm cho sản xuất
gia tăng. Nhờ sự gia tăng ấy, ai cũng có cơng ăn việc làm, và lợi tức của
nhiều người lên cao. Có lợi tức cao, người ta để dành nhiều hơn khiến cho
đầu tư sẽ cao hơn. Động lực cho cái vòng này là sự mong muốn được giàu
có hơn và vì lo cho ngày mai. Tuy nhiên, để cho vòng quay giữa hai bên

được dễ dàng, ít tốn kém và nhanh chóng thì phải có một người làm trung
gian. Người trung gian đó là ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng,
cịn gọi là hệ thống tài chính.
6.Sự cần thiết của một người trung gian
Khi công chúng là một số đông trao đổi với doanh nhân cũng là một
số đông, thì cả hai bên cần đến một người trung gian. Đây là một diễn tiến
tự nhiên. Trước hết, khi hai bên trao đổi thì số tiền đi về sẽ rất lớn, khơng
ai một mình cất giữ được, đạo chích lại thăm ngay; phải có một nơi an tồn
cất giữ. Một nơi nào đó cất giữ nhiều tiền của nhiều người thì - vì sự tiện
lợi của cả 3 - họ sẽ đứng thay mặt người này đưa tiền cho người kia. Đó là
hệ quả của việc cất giữ. Có người khách đứng ra đưa tiền đi, lấy tiền về
cho mình, bớt một việc lỉnh kỉnh nên ai cũng thích. Vậy phải trả cho nơi
cất giữ và thanh toán kia một khoản nhỏ cho phí dịch vụ hay tiền hoa hồng.
Và bên kia được cả hai bên nhìn nhận là trung gian. Đó là các ngân hàng

10


Website: Email : Tel : 0918.775.368

thương mại. Từ hình thức này sang hình khác, lúc đầu chủ yếu đáp ứng đòi
hỏi của khách hàng, ngân hàng đã xuất hiện trong những hình thức và
khn khổ hoạt động khác nhau tạo nên hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính sẽ phục vụ công chúng và doanh nhân trong
nhiều lĩnh vực ngồi việc cất tiền và thanh tốn. Thí dụ, về phía cơng
chúng, khi cho vay hay góp vốn vào doanh nghiệp, họ cần biết các thơng
tin. Nếu góp vốn, họ phải xem doanh nghiệp làm ăn ra sao. Cho vay cũng
phải biết họ trả nợ được khơng; có khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền
mặt nhanh chóng và ít hao hụt khơng; gọi là thanh khoản. Sau đó, phải ký
với doanh nghiệp hợp đồng về góp vốn và cho vay. Cơng chúng khơng có

đủ chun mơn để làm những việc trên và phải nhờ người trung gian. Hệ
thống tài chính với chun mơn và phương tiện của mình sẽ làm thay cho
cơng chúng.
Về phía doanh nghiệp, tiền của công chúng sẽ giúp họ tạo ra sản
phẩm. Nhưng khi có hàng trong tay, họ sẽ lo hàng mất rồi giá có thể sẽ lên
xuống. Giúp doanh nhân thốt khỏi các lo ngại này, đấy cũng là công việc
của hệ thống tài chính.
7.Tính tất yếu của Sự hình thành thị trường chứng khốn
Nhìn chung thị trường chứng khốn đều hình thành một cách tự phát
dưới tác động của hàng loạt yếu tố khách quan sau:
 Sự phát triển ngày càng tăng của phân cơng lao động xã hội. Q
trình chun mơn hóa theo ngành ngày càng cao thì sẽ địi hỏi sự
giao lưu, luân chuyển các yếu tố sản xuất, trong đó sự luân chuyển
các nguồn vốn giữa các doanh nghiệp, các ngành, mà công cụ thuận
lợi nhất để thực hiện sự giao lưu này là cổ phiếu và trái phiếu. Việc
buôn bán này chủ yếu được thực hiện trên thị trường chứng khoán.
 Để thực hiện lưu chuyển các giấy tờ vay nợ một cách nhanh chíng tư
chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác nhằm thỏa mãn nhu cầu bán
và mua của người sở hữu chúng và muốn sở hữu chúng. Sự xuất
hiện của cung và cầu về thị trường chứng khoán vào cùng một thời
điểm đã tạo ra một nét độc đáo của nền kinh tế - đó là sự ra đời của
thị trường chứng khốn.
 Do q trình phân cơng lao động quốc tế và nền kinh tế của mỗi
quốc gia ngày càng hòa nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên

11


Website: Email : Tel : 0918.775.368


thế giới cho nên phải có thị trường chứng khốn để thực hiện việc
giao lưu đầu tư quốc tế, huy động vốn Quốc tế cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế mỗi Quốc gia phù hợp với trào lưu kinh tế
quốc tế.
Những lý do cơ bản nói trên đã dẫn tới sự xuất hiện của thị trường chứng
khốn. Đó là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường phát triển.
8.Tồn cảnh về thị trường chứng khốn
Vẽ lên một bức tranh tồn cảnh cho TTCK, ta có 4 vịng trịn đồng
tâm. Tâm điểm là chính quyền, Vịng 1 nhỏ nhất ở trong cùng, là doanh
nghiệp. Vòng 2 là thị trường tiền tệ. Vịng 3 là thị trường chứng khốn. Và
vịng 4 là cơng chúng. Hai vịng làm trụ cột cho nền kinh tế của một nước
là vòng 1 và vòng 4. Thoạt đầu, những người ở hai vòng này trao đổi với
nhau qua vòng 2. Phát triển hơn lên, họ trao đổi thêm với nhau qua vòng 3.
Thị trường chứng khoán là một mạng lưới người bán và người mua
cổ phiếu sở hữu các công ty. Trong những năm gần đây, thị trường chứng
khoán xuất hiện ở nhiều nước. Chúng hoạt động vì mục đích phát triển
kinh tế bằng cách huy động vốn và đầu tư trong nền kinh tế quốc dân, bằng
việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Thị trường chứng khoán cho phép những người tiết kiệm lớn và nhỏ
trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra của cải bằng cách nhận thu nhập
trực tiếp từ những công ty kinh doanh thành đạt, dưới dạng lợi tức và tăng
vốn. Mặt khác, các doanh nhân giỏi, có ý tưởng hay với sản phẩm và dịch
vụ tốt có thể tiếp cận một nguồn vốn khổng lồ thông qua thị trường chứng
khốn: đó là thế hai bên cùng có lợi của những người có nguồn lực tài
chính nhưng khơng biết đầu tư một cách hiệu quả và những doanh nhân
biết cách cung cấp dịch vụ và sản phẩm mà thiếu vốn. Đây cũng chứng tỏ
là một cách hiệu quả để xã hội hoá đầu tư, sản xuất và phân phối thu nhập.
Qua phần trên, chúng ta tuy chưa thu được những kiến thức chuyên
sâu về thị trường này xong đơn giản, tơi chỉ muốn làm rõ một điều đó là:
khi trong xã hội nhu cầu đầu tư của công chúng lớn đến mức ngân hàng

thương mại không thể đáp ứng nổi thì tất yếu Thị trường chứng khốn ra
đời. Nó đã giải quyết căn bản mâu thuẫn biện chứng về lợi ích giữa doanh
nghiệp và cơng chúng. Nói một cách đơn giản là nhà đầu tư “chọn được
mặt, gửi được vàng”, sau đó cịn có lợi nhuận cao; doanh nghiệp lại có
thêm một kênh huy động vốn nhanh và hiệu quả đồng thời lại có người

12


Website: Email : Tel : 0918.775.368

chia sẻ bớt rủi ro. Cả hai bên đến với nhau và đều tìm thấy lợi ích. Đó là
điều quan trọng, mấu chốt.

13


Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG II :
SỰ RA ĐỜI CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TRÊN THẾ GIỚI
Thực ra sự gặp nhau giữa cung và cầu chứng khoán buổi ban đầu
không được pháp luật thừa nhận, cho nên những cuộc trao đổi mua bán
chứng khoán chỉ diễn ra một cách lén lút ở những quán cà phê hoặc ở
những gốc cây cổ thụ nào đó.
Mãi đến năm 1973, ở London mới có ngơi nhà tạm để giao dịch
chứng khốn và 10 năm sau nó mới được đặt tên là Sở giao dich chứng
khốn Hồng gia London (London Royal stock Exchange).
Xét về mặt lịch sử thì việc ra đời của thị trường chứng khốn

London cịn sau thị trường chứng khốn Frankfurt. Ở đây, ngay từ cuối thế
kỉ 16 người ta đã tụ tập để mua kỳ phiếu. Vào năm 1595, thị trường chứng
khoán Frankfurt ra đời, sớm nhất trong 160 thị trường chứng khoán trên
thế giới. Nhưng mãi đến năm 1724 mới có được một sở giao dịch chứng
khốn ở Pái và vào năm 1805, Napoleon mới xây dựng lâu đài Brongniart
làm nơi giao dịch chứng khốn chính thức.
Theo nhiều tài liệu còn lưu giữ
cho biết mãi đến ngày 17 – 5 – 1792
mới có một thỏa thuận giữa 24 nhà
mơi giới về việc mơi giới chứng
khốn. Chính văn kiện đã khai sinh ra
thị trường chứng khoán New York.
Năm 1817, việc mua bán chứng
khốn được thực hiện tại một văn
phịng trong quán café Tontine. Sau
đó dời về 40 phố Wall và ở đó gọi là
cơ quan của hội đồng mua bán chứng
khoán New York, rồi đến năm 1863
đổi tên là sở giao dịch chứng khoán
New York. Đến 1903, sở giao dịch
chứng khốn New York dời về góc
Sở giao dịch chứng khoán New York
14


Website: Email : Tel : 0918.775.368

đường giữa Brood str và Wall str, ngày nay nơi đây được coi là trung tâm
tài chính lớn nhất Thế giới.
Ở Nga, thị trường chứng khoán được thành lập năm 1703 ở

Pêtecbua nhưng thực ra chưa hoạt động gì, mãi đến thế kỉ 19 mới trở nên
sơi động. Đến 1914 đã có trên 115 sở giao dịch chứng khoán ở Nga, vào
chiến tranh Thế giới I (1914-1918) các giao dịch chứng khốn đóng cửa.
Ngày 29 – 12 – 1921, sở giao dịch chứng khốn hàng hóa Matxcơva được
thành lập.
Ở Nhật Bản, thị trường chứng khoán Tokyo thành lập năm 1878.
Đến năm 1977, Nhật có tới 6 triệu người mua cổ phiếu và được coi là nước
đứng thứ 2 về số người mua cổ phiếu sau Mỹ.
Qua đó chúng ta đã thấy sự ra đời của thị trường chứng khốn là như
thế. Điều đó cũng chứng minh được sức mạnh của thị trường chứng khoán
về nhiều mặt.

15


Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG III :
BUỔI BAN ĐẦU CỦA
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Sau một thời gian thử nghiệm, thị trường chứng khoán Việt Nam
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 18-7-2000 và bắt đầu sự khai
trương Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 207-2000. Đó là một sự kiện có tính lịch sử, thể hiện sự nhất qn trong
đường lối đổi mới kinh tế - phát triển đồng bộ nền kinh tế thị trường và
khẳng định xu thế hợp tác chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta.
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển thị trường chứng khoán,
Đảng ta chủ chương xây dựng và phát triển Trung tâm giao dịch chứng
khoán – giai đoạn đầu của sở giao dịch chứng khoán – thực hiện nhiệm vụ
“xây dựng từ thực tiễn và thông qua thực tiễn đất nước, tiếp tục bổ sung và

hoàn chỉnh”, tạo lập một thị trường chứng khốn thích hợp với trình độ
phát triển và địi hỏi của nèn kinh tế đất nước.
I. Những thành tựu, kết quả ban đầu
Trong năm đầu giao dịc, thị trường chứng khốn chỉ có 5 loại cổ
phiếu niêm yết. Sau 2 năm, tổng giá trị chứng khoán giao dịch thị trường là
835 tỷ đồng, trong đó giá trị giao dịch theo phương thức khớp lệnh là
1578,3 tỷ đồng, với 345 phiên giao dịch, giá trị giao dịch bình quân/phiên:
5,51 tỷ đồng. Lúc đầu thị trường chứng khoán giao dịch 1 tuần/3 phiên,
sau nâng lên 1 tuần/5 phiên. Tính đến cuối năm 2001, có thêm 5 loại cổ
phiếu và 11 loại trái phiếu chính phủ, và vào 5 tháng đầu năm 2002, tăng
thêm hàng hóa cho thị trường, bằng cách đưa thêm 7 loại cổ phiếu mới và
8 loại trái phiếu Chính phủ.
Trong năm đầu thử nghiệm. qua 146 phiên giao dịch, giá thị trường
các loại cổ phiếu liên tục tăng, có loại tăng thấp nhất là 2,3 lần và cao nhất
leen tới 5,6 lần; nếu so với mênh giá cổ phiếu thì có loại đã tăng lên 10-12
lần. Các nhà đầu tư đã mở 5140 tài khoản để kinh doanh tại các công ty

16


Website: Email : Tel : 0918.775.368

chứng khoán. Tổng khối lượng cổ phiếu giao dịch hơn 13 triệu, tổng giá trị
giao dịch hơn 625 tỷ đồng.
Trái phiếu chính phủ, ngay từ đầu đã xác định là loại hàng hóa chủ
đạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ thử nghiệm. Tổng
giá trị trái phiếu niêm yết giao dịch trong năm đầu là 1257,7 tỷ đồng, trong
đó đại bộ phận là trái phiếu Chính phủ (chiếm 88%), là một khối lượng
niêm yết khá lớn, nhưng tổng giá trị giao dịch trái phiếu thì thực hiện được
quá thấp, chỉ gần 123,2 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là giao dịch theo phương

thức thỏa thuận tới 90,2% và chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé. Tổng giá trị trái
phiếu giao dịch khớp lệnh trong 2 năm là 12 tỷ đồng và giao dịch thỏa
thuận 111,2 tỷ đồng, chỉ chiếm 6,7% tổng giá trị chứng khoán giao dịch
trên thị trường.
Như vậy sau thời gian đầu thử nghiệm, chúng ta đã đạt được những
thành công bước đầu rất quan trọng, tạo một thị trường an tn, cơng bằng
và ổn định – tạo lập một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế, có sức
phát triển mạnh mẽ trong tương lai gần.
II . Thị trường chứng khoán - Những khuyết tật
Thị trường chứng khốn có tính hai mặt. Nó khơng chỉ tồn tại mặt
tích cực như đã nói ở trên mà cịn chứa đựng những khuyết tật cần khắc
phục. Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm, dễ biến động, chao đảo.
Những nguyên nhân đưa đến sự chao đảo, chấn động thậm chí sụp đổ của
thị trường chứng khốn chính là do:
1. Đây là nơi mà bọn đầu cơ hoạt động mạnh, với các thủ đoạn gian
xảo như: phao tin đồn nhảm, gian lận thông tin; nâng giá ép giá nhà
đầu tư; mua bán nội gián, mua khồng chứng khoán để kiếm chênh
lệch giá, lợi nhuận siêu ngạch,… C.Mác đã chỉ ra rằng, trong chế độ
Tư bản chủ nghĩa, sở giao dịch chứng khoán là con quỷ hút máu
người.
2. Do chi phối của đồng tiền mạnh của các nước có nền kinh tế phát
triển, đồng tiền các nước nghèo phải phụ thuộc vào các đồng tiền
mạnh. Với chính sách thả nổi đồng tiền, nếu các nước giàu phá giá
đồng tiền của họ sẽ khiến cho hàng hóa của họ bán rẻ hơn hàng của
các nước có nền kinh tế kém, do đó các nước nghèo sẽ bị lệ thuộc
nhập khẩu. Vì thế, các nước này sẽ lâm vào tình trạng kinh tế trì trệ,
hàng hóa khơng bán được, giá chứng khốn của các công ty sụt
17



Website: Email : Tel : 0918.775.368

giảm. Người cầm giữ chứng khoán, sợ mất vốn đua nhau bán chứng
khoán càng khiến cho thị trường rối loạn Khi công ty, doanh nghiệp
gặp lhó khăn, phá sản buộc ngân hàng bảo lãnh trả nợ thay, càng
khiến cho ngân hàng bị phá sản nhanh hơn – kéo theo chấn động
của thị trường Thế giới trong đó có thị trường chứng khốn.
3. Nợ nước ngoại của các nước nghèo đến hạn không trả được, các
chủ nợ nước ngoài rút vốn, khiến cho thị trường chứng khoán bấp
bênh, trao đảo. Họ đua nhau bán chứng khoán để thu hồi vốn, khiến
thị trường chứng khoán thêm hỗn oạn, giá chứng khốn tụt nhanh
và các cơng ty chứng khoán, các ngân hàng kinh doanh nghiệp vụ
thị trường mở bị phá sản trước.
4. Lạm phát tiếp diễn nặng nề với quy mô và tốc độ cao hơn, vì khi
ngoại tệ đưa vào bằng vay nợ nước ngồi, thì bản tệ cũng tăng lên
tương ứng, trong khi chính phủ vẫn duy trì bội chi ngân sách và
chưa khắc phục được lạm phát. Khi đến hạn trả nợ người ta đua
nhau mua ngoại tệ, quan hệ tỷ giá biến động theo hướng đồng tiền
trong nước mất giá nhanh so với ngoại tệ. Đồng thời khi nhà đầu tư
rút vốn về (bằng ngoại tệ) thì bản tệ đã tung ra trước đây để mua số
ngoại tệ đầu tư vào vẫn nằm lại trên thị trường, gây áp lực lớn đối
với hàng hóa và dịch vụ. Sản xuất đình đốn, khơng đáp ứng đủ cầu
hàng hóa đã khiến lạm phát tăng, bản tệ sụt giá nhanh, thị trường
chứng khoán sẽ nhanh nhạy phản ánh mức độ khủng hoảng của nền
kinh tế - tài chính ấy.
Tóm lại, thị trường chứng khốn là một thị trường cần thiết, là sản
phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, Nhưng bản thân nó là một thể chế
tài chính bậc cao, hoạt động theo một cơ chế riêng biêt, bên cạnh mặt tích
cực, ln tồ tại một số yếu tố tiêu cực như hành vi mua bán nội gián, thao
túng thị trường, thông tin sai sự thật, neo giá, giữ giá, rớt giá, v.v. mà thị

trường vừa qua ddax khơng tránh khỏi, đó là một số biểu hiện khơng lành
mạnh. Nó như con dao 2 lưỡi: vừa thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư tích kũy và
kinh tế thị trường phát triển; vừa có tác động tiêu cực, gây rối loạn nền
kinh tế. Chính vì vậy việc nhà nước ta xây dựng và khơng ngừng hồn
thiện khung luật pháp cho loại hình thị trường này là vơ cùng cần thiết.
Điều đó có ý nghĩa quan trọng, quyết định trong việc duy trì bảo đảm một
thị trường chứng khốn cơng bằng, ổn định, có hiệu quả và thực hiện
nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư

18


Website: Email : Tel : 0918.775.368

– phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
III. Các văn bản pháp luật
Quy định chung
• Nghị định của Chính phủ số 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm
1998 về Chứng khoán và Thị trường Chứng khốn.
• Nghị định của Chính phủ số 75/CP ngày 28 tháng 11 năm 1996 về
việc thành lập Uỷ ban Chứng khốn Nhà nước
• Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 127/1998/QĐ-TTG ngày
11 tháng 7 năm 1998 về việc thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
khốn.
• Quyết định số 1038-1997/QĐ-TTg ngày 5-12-1997 của Thủ Tướng
Chính Phủ về thành lập Trung Tâm Nghiên cứu khoa học và bồi
dưỡng nghiệp vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thuộc
ủy ban Chứng Khốn Nhà nước
Phát hành, niêm yết

• Thơng tư hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998
về phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra cơng chúng
• Nghị định của Chính phủ số 01/2000/NĐ-CP ngày 13 tháng 1 năm
2000 ban hành quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ.
• Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước số
04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27 tháng 03 năm 1999 về việc ban hành
Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng
khốn
• Văn bản hướng dẫn đăng ký niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng
khốn (TTGDCK)
• Nghị định số 120-CP của Chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về
việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà Nuớc.
Giao dịch chứng khốn
• Quyết định sửa đổi bổ sung Quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3 và
Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3

19


Website: Email : Tel : 0918.775.368

• Quyết định sửa đổi bổ sung Quyết định 79/2000/QĐ-UBCK về niêm
yết, công bố thơng tin và giao dịch chứng khốn
• Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban Ban chứng khoán Nhà nước số
05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27 tháng 03 năm 1999 về việc ban hành
Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khốn.
• Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước số
04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27 tháng 03 năm 1999 về việc ban hành
Quy chế thành viên, niêm yết, cơng bố thơng tin và giao dịch chứng
khốn

• Cơng văn số 149/UBCK3 về việc hướng dẫn thành lập, cấp giấy
phép hoạt động cho cơng ty chứng khốn và cấp giấy phép hành
nghề cho cá nhân.
• Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước số
128/1998/QĐ-UBCK5 ngày 01 tháng 8 năm 1998 ban hành quy chế
tổ chức và hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khốn.
• Quy trình cầm cố - giải tỏa cầm cố chứng khoán
Các quy định khác
• Quyết định số 998/2000/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ký ban hành ngày 13 tháng 9 năm 2002 về quản lý ngoại hối
đối với việc mua, bán chứng khốn của tổ chức, cá nhân nước ngồi
tại Trung tâm Giao dịch Chứng khốn
• Quyết định Thủ tướng Chính phủ số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27
tháng 3 năm 2000 Quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt
động kinh doanh chứng khốn.
• Thơng tư của Bộ tài chính số 10/1999/TT/BTC ngày 29 tháng 1 năm
1999 hướng dẫn tạm thời chế độ Quản lý tài chính đối với Trung
tâm Giao dịch Chứng khốn.
• Thơng tư của Uỷ ban Chứng khốn nhà nước số 02/2000/TTUBCK1 ngày 14 tháng 11 năm 2000 sửa đổi một số điểm trong
Thông tư số 01/2000/TT-UBCK1 ngày 17/04/2000 về hướng dẫn
tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh
doanh dịch vụ chứng khốn.

KẾT LUẬN
Việc hình thành thị trường chứng khốn là một hiện tượng kinh tế
cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất là hàng hóa và

20



Website: Email : Tel : 0918.775.368

do đó địi hỏi khách quan phải có loại thị trường dành cho các hàng hóa đó.
Vì thế, trong cơ chế thị trường của nhiều nước trên thế giới, bên cạnh thị
trường hàng hóa cho tiêu dùng, cịn có thị trường tư liệu sản xuất, thị
trường sức lao động, thị trường chứng khoán,…Trong cơ cấu đó, thị
trường chứng khốn là một yếu tó cấu thành đặc biệt quan trọng của nền
kinh tế thị trường và nó có đầy đủ các đặc trưng của một thị trường, nó tồn
tại khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế thị trường.
Trên cơ sở vận dụng Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập, chúng ta đã thấy được tính tất yếu của sự ra đời thị trường chứng
khoán. Ở bất kỳ đâu trên thế giới, nơi nào có hoạt động bn bán giữa con
người với con người thì ở nơi đó có doanh nhân và cơng chúng. Mâu thuẫn
biện chứng giữa họ như đã phân tích ở trên là mang tính phổ biến. Điều đó
đã thúc đẩy sự ra đời của loại thị trường tiền tệ này. Thị trường chứng
khoán ở Việt Nam cịn vơ cùng mới mẻ đối với nhiều người. Sự ra đời và
hoạt động lớn dần của nó trong một vài năm gần đây càng khiến chúng ta
phải để tâm nghiên cứu.
Vấn đề huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là một trong
những nguồn lực nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
nước ta. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Phát
triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và
trung hạn. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khốn, thị trường bảo
hiểm an tồn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả
năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam”. Để huy động vốn trung và dài
hạn để huy động vốn đầu tư nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những nhiệm vụ cấp bách và hết sức
quan trọng hiện nay là phải xây dựng và tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận
hành, điều hành thị trường chứng khốn thích ứng với điều kiện và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Đây là một vấn đề mới mẻ, hết sức khó

khăn, phức tạp về lí luận và thực tiễn; một lĩnh vực nhạy cảm – hàn thử
biểu của nền kinh tế - địi hỏi phải có hệ thơng pháp luật, chính sách, nhân
sự được đào tạo và năng lực tổ chức quản lý, điều hành bộ máy nhà nước
có hiệu quả và hiệu lực. Sắp tới đây, lần đầu tiên luật chứng khốn Việt
Nam ra đời được trơng đợi sẽ góp phần quan trọng vào việc điều tiết hiệu
quả thị trường chứng khoán, đảm bảo được các chức năng cơ bản của nó.
Mong rằng chúng ta sẽ có một thị trường chứng khốn phát triển lành
mạnh đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư cũng như của doanh nghiệp.

21


Website: Email : Tel : 0918.775.368

22


Website: Email : Tel : 0918.775.368

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Các tác phẩm kinh điển của Mác – Enghen – Lênin.
Các văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X
Tạp chí Cộng Sản

Báo chứng khốn
Giáo trình Triết học Mác-Lênin – NXB Chính trị Quốc gia
Phân tích thị trường chứng khốn của David Blake – NXB thành
phố Hồ Chí Minh - năm 1994
7.
Thị trường chứng khoán của Nguyễn Ngọc Hùng – trường Đại học
kinh tế thành phố Hồ Chí Minh – năm 1994
8.
Regulation of the Securities anh the Stock Exchange of Singapoe 9/1993
9.
Thị trường chứng khoán của Neil Fstapley – Nguyễn Thị Ánh Tuyết
& Trần Tô tử dịch - NXB thành phố Hồ Chí Minh - năm 1994
10. Hướng tới một thị trường chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam – Trần
Du Lịch – trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư – 1993
11. Chứng khoán và thị trường chứng khoán – kinh nghiệm của các
nước trên Thế giới – Viện khoa học tài chính – thơng tin chuyên đề 1993
12. Tài liệu tập huấn về thị trường chứng khoán của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam – 1994
13. Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khốn & thị trường chứng
khoán – TS. Đào Lê Minh (chủ biên)
14. Một số vấn đề cần biết về thị trường chứng khốn Việt Nam –
Nguyễn Duy Gia – NXB Chính trị Quốc gia – 2003
15.
16.
17. - Website của Ủy ban chứng khoán Nhà
nước.
18. - Báo điện t - Thi bỏo kinh t
Vit Nam
Sự hình thành của thị trờng chứng khoán dới góc nhìn của Triết học
Mác - Lªnin


23



×