Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực kinh doanh của kinh tế hộ theo mô hình VAC ở nông thôn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.22 KB, 54 trang )

MỤC LỤC
L I M UỜ ỞĐẦ 2
I. KINH T H TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRI N NÔNG NGHI P VÀ Ế Ộ Ể Ệ
NÔNG THÔN N C TA HI N NAYƯỚ Ệ 3
1. Các khái ni mệ 3
2. C s s n xu t kinh t VACơ ở ả ấ ế 3
3. Vai trò kinh t h , mô hình s n xu t kinh t VACế ộ ả ấ ế 5
4. c i m c a kinh t h gia ình v VACĐặ để ủ ế ộ đ à 6
II. N NG L C KINH DOANH C A H GIA ÌNH THEO MÔ HÌNH VACĂ Ự Ủ Ộ Đ 8
1. Khái ni m n ng l c kinh doanh v nâng cao n ng l c kinh doanh c a hệ ă ự à ă ự ủ ộ 9
2. Các nhân t nh h ng n n ng l c kinh doanh c a h gia ình l m VACốả ưở đế ă ự ủ ộ đ à 9
Bi u II: H phân theo quy mô t nông nghi pể ộ đấ ệ 11
3. Cách th c ti n h nh xây d ng mô hình VAC v m t s i n hình tiên ti nứ ế à ự à ộ ốđể ế 21
III. TH C TR NG N NG L C KINH DOANH C A H THEO MÔ HÌNH Ự Ạ Ă Ự Ủ Ộ
VAC 27
1. Nh ng k t qu ã t cữ ế ảđ đạ đượ 27
Bi u III- 2: Hi n tr ng s d ng t n m 2000ể ệ ạ ử ụ đấ ă 32
2. Thách th c t ra i v i vi c nâng cao n ng l c kinh doanh c a h theo mô hình ứ đặ đố ớ ệ ă ự ủ ộ
VAC 34
Bi u III-3: S li u u t cho nông nghi pể ố ệ đầ ư ệ 34
Ngu n: T ng c c th ng kêồ ổ ụ ố 38
IV. BI N PHÁP NÂNG CAO N NG L C KINH DOANH C A H :Ệ Ă Ự Ủ Ộ 40
1. T o v s d ng v n:ạ à ử ụ ố 41
C ng c , phát tri n các h p tác xã tín d ng nông thôn huy ng các ngu n v n ủ ố ể ợ ụ ở để độ ồ ố
nh n r i trong nông dân, c bi t l nh ng h gi u v khá có m t s v n t m th i à ỗ đặ ệ à ữ ộ à à ộ ố ố ạ ờ
nh n r i có th huy ng u t m t ph n nhu c u vay ng n h n c a các h nông dânà ỗ ể độ đầ ư ộ ầ ầ ắ ạ ủ ộ
42
2. M r ng th tr ng tiêu th nông s nở ộ ị ườ ụ ả 46
3.Quy ho ch s d ng tạ ử ụ đấ 47
4. Nâng cao trình v n hoá, khoa h c k thu t v trình s n xu t kinh doanh độ ă ọ ỹ ậ à độ ả ấ
cho ch hủ ộ 48


5. y m nh công tác khuy n nông:Đẩ ạ ế 49
6. Khuy n khích h nông dân tham gia v o h p tác xã, các hi p h i, các câu l c b ế ộ à ợ ệ ộ ạ ộ
ngh nghi p, th nh viên qu tín d ng nhân dân:ề ệ à ỹ ụ 50
7. T ng c ng vai trò c a Nh n că ườ ủ à ướ 51
52
53
K T LU NẾ Ậ 53
DANH M C CÁC TÀI LI U THAM KH OỤ Ệ Ả 54
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển của khoa học công nghệ mỗi người phải không ngừng
học hỏi nâng cao trình độ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Để giúp sinh viên trau dồi kiến
thức, tích lũy kinh nghiệm từ thực tế, hàng năm trường Đại học KTQD phát động
phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học. Năm nay, chủ đề chung của trường là
“nâng cao năng lực kinh doanh”, chủ đề của khoa KTNT & PTNT là “nâng cao
năng lực kinh doanh của chủ hộ, trang trại”. Qua việc nghiên cứu lý thuyết và
những tài liệu tham khảo, chúng em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao
năng lực kinh doanh của kinh tế hộ theo mô hình VAC ở nông thôn Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” làm công trình nghiên cứu khoa học sinh viên.
Hiện nay kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường tạo cơ hội cho VAC phát triển,
mở ra con đường làm giàu cho các hộ nông dân. Tuy nhiên nhiều công trình nghiên
cứu về phát triển nông thôn đã chỉ ra rằng: hiệu quả sản xuất của phần đông nông
hộ còn thấp. Nguyên nhân là do thiếu vốn, kỹ thuật sản xuất; trình độ sử dụng và
quản lý nguồn lực đất đai, vốn, lao động chưa cao.
Mục tiêu của đề tài được xác định là: Mét, đọc sách, báo, tạp chí để hiểu được
những vấn đề lý thuyết về kinh tế hộ và năng lực kinh doanh của hộ. Hai, phân tích
thực trạng năng lực kinh doanh của hộ theo mô hình VAC để rót ra được những
thành tựu, thách thức và nguyên nhân của nó. Ba, bước đầu đề ra một số giải pháp
có căn cứ khoa học để nâng cao năng lực kinh doanh của hộ.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng nguyên lý duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử; đọc sách, báo, trao đổi với bạn bè cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô
trong khoa. Tuy nhiên, do vấn đề lựa chọn có nội dung rộng, trình độ còn hạn chế
nên có những vấn đề còn chưa rõ, cần tiếp tục hoàn thiện.
Công trình này bao gồm lời nói đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và những phần chính sau:
I. Kinh tế hộ trong quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta
hiện nay.
II. Năng lực kinh doanh của hộ gia đình theo mô hình VAC .
III. Thực trạng năng lực kinh doanh của hộ gia đình theo mô hình VAC.
IV. Biện pháp nâng cao năng lực kinh doanh của hộ.
2

I. KINH TẾ HỘ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ
NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Các khái niệm
Để tìm hiểu mô hình kinh tế VAC chóng ta xem xét một số khái niệm:
Hé gia đình: là một nhóm xã hội gồm tập hợp những người sống chung với
nhau trên cơ sở có quan hệ huyết thống, cùng sống chung và có kinh tế chung.
VAC là một hệ sinh thái bao gồm ba yếu tố làm vườn (V), nuôi trồng thuỷ sản
(A), chăn nuôi (C) được kết hợp chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và hỗ trợ cho
nhau dưới sự điều khiển của con người nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mối
quan hệ giữa 3 yếu tố này đảm bảo cho toàn bộ hệ thống VAC tồn tại và phát triển
bền vững.
Như vậy, ta thấy: Vườn (V) bao gồm các hoạt động trồng trọt (ngoài vườn có
ruộng, nương rẫy, vườn rừng). Trong vườn có cây xanh, chúng sử dụng năng lượng
mặt trời với sự chăm bón của con người để tạo nên sản phẩm sống cho con người
(rau, lúa, hoa quả ) và thức ăn cho gia sóc, gia cầm (lá, củ, hạt ) và cho cá (lá
cây).
Ao (A): tượng trưng cho tất cả các hoạt động khai thác mặt nước gồm: cá, tôm,
cua và các thuỷ sản khác. Ao hồ là nguồn nước tưới cho vườn cây, cho trồng trọt,

thiếu nguồn nước thì cây trồng không thể cho năng suất cao được. Nguồn nước còn
rất cần thiết cho cuộc sống của con người và gia sóc, gia cầm. Ngược lại, các sản
phẩm của cây xanh là nguồn thức ăn cho cá và các sinh vật nước trong ao, hồ, sông,
suối.
Chuồng (C): khái niệm chăn nuôi bao gồm đại gia súc như trâu, bò, ngựa, hươu
sao; tiểu gia súc như vịt, gà, ngan, ngỗng, thỏ và các hình thức chăn nuôi khác
như nuôi ong, nuôi giun, nuôi hươu, nuôi Õch, nuôi ba ba
2. Cơ sở sản xuất kinh tế VAC
a.Theo truyền thống dân tộc
Hình thái VAC xây dựng trên cơ sở truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của
nhân dân ta tạo nên nền “văn minh lúa nước”, “nền văn minh Sông Hồng”. Từ việc
đào ao lập thổ đã có mô hình “vườn sau ao trước”, “một thước ao bằng ba sào
3
ruộng” đã khẳng định hiệu quả của mô hình VAC “thứ nhất canh trì, thứ nhì canh
viên, thứ ba canh điền”. Và cũng qua kinh nghiệm thực tế và lâu đời ông cha ta đã
tạo ra những giống địa phương quí có chất lượng tốt nh: nhãn Hưng Yên, vải Thanh
Hà, gà Đông Cảo, lợn Móng Cái
b. Cơ sở khoa học
Trước cách mạng, trong nông thôn nước ta, các tầng lớp bần, cố nông thường
không có đất làm vườn, một số Ýt làm vườn nhưng hiệu quả không cao. Từ cải cách
ruộng đất người dân được chia ruộng nhưng phần lớn dành cho sản xuất lương thực
phục vụ kháng chiến. Vì vậy, mô hình VAC chưa được phát triển, chỉ tồn tại ở một
số vùng với tính chất tự cấp, tự túc.
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nông nghiệp đã có những
bước phát triển to lớn. Qua kinh nghiệm và sự vận dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ có hiệu quả, sản xuất VAC đã có những biến đổi lớn vượt ra khỏi sự tự
cấp, tự túc, tạo ra sản phẩm là hàng hoá trao đổi trên thị trường. Cơ sở khoa học của
sản xuất VAC là:
- Dựa trên thâm canh sinh học, việc thiết kế đảm bảo nguồn lợi tối ưu, hạn chế
thấp nhất các điều kiện bất lợi. Mô phỏng theo mô hình của tự nhiên, sử dụng phân

hữu cơ, chất che phủ động vật; xử lý, tái sử dụng chất thải, áp dụng công nghệ sinh
học; phòng trừ dịch bệnh bằng phương pháp IPM; sử dụng hợp lý, đa dạng sinh
học.
- Trên cơ sở tái sinh năng lượng: Sử dụng phế thải của các cơ thể khác để tiết
kiệm năng lượng, đầu tư Ýt, hiệu quả cao.
Ví dụ: sự kết hợp giữa cơ sở truyền thống và cơ sở khoa học của mô hình
VAC.
Năng lượng Mặt trời

Động vật Cây trồng

Phế thải Khí đốt biogas

Nuôi cá
Hay mô hình: Cây trồng Nuôi lợn (cũi, chuồng) Nuôi cá
4
3. Vai trò kinh tế hộ, mô hình sản xuất kinh tế VAC
Kinh tế hộ: góp phần tận dụng sức lao động của nông dân trong sản xuất nông,
lâm, ngư; góp phần tạo thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân; tạo điều kiện để phát
huy tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng tối đa các
tiềm năng sẵn có phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn góp phần phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước.
Mô hình kinh tế VAC: Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
kinh tế VAC từng bước phát triển sản xuất hàng hoá theo nhu cầu của thị trường.
VAC là kết quả của những đổi mới trong nhận thức, của sự vận dụng nhiều hiểu
biết của đội ngũ cán bộ về thiên nhiên nước ta, của sự tổng kết kinh nghiệm làm
vườn của nông dân ta qua hàng nghìn năm phát triển, của sự vận dụng có kết quả
các thành tựu khoa học và công nghệ.
Một số vai trò của sản xuất VAC:
- VAC trong đời sống và phát triển kinh tế hộ:

Hoạt động sản xuất theo mô hình VAC mang lại nguồn thu nhập đáng kể, làm
vườn chiếm tỷ trọng trong thu nhập gia đình 50 - 60% tổng thu nhập gia đình.
Hiệu quả đầu tư cao, kể cả vốn, lao động và đất. Đất dùng làm VAC thường
đem lại hiệu quả cao gấp 2 - 3 lần diện tích tương đương để trồng lúa. Một hecta đất
trồng lúa ở mức độ thâm canh trung bình hàng năm cho thu hoạch 10 - 12 tấn thóc,
cho thu nhập 15 - 18 triệu đồng (giá năm 2002). Trong khi đó 1 hecta vườn thu
hoạch 50 - 60 triệu đồng.VAC trong nhiều trường hợp đòi hỏi đầu tư về vốn không
cao như các ngành nghề phụ khác, vốn quay vòng khá nhanh. VAC thu hót lao động
dư thừa trong gia đình có hiệu quả, kể cả lao động của người già, trẻ em. Đặc điểm
sử dụng lao động trong hệ thống VAC Ýt mang tính thời vụ hơn so với sản xuất cây
lương thực. Nhờ VAC mà các hộ điều hoà hợp lý việc sử dụng lao động trong gia
đình và tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực dư thừa này.
Ngoài ra, mô hình kinh tế này còn cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ và
thường xuyên cho gia đình đặc biệt là các nguồn đạm động vật rẻ tiền như: cá,
trứng. Các sản phẩm VAC là sản phẩm hàng hoá được đem bán trên thị trường, từ
đó thu được lượng tiền mặt để chi tiêu, mua sắm các vật dụng cần thiết trong gia
đình và đầu tư trở lại để mở rộng sản xuất.
5
- VAC trong đời sống kinh tế xã hội:
Như chúng ta đã thấy, sản phẩm của sản xuất VAC hiện nay không còn
mang tính tự cấp, tự túc nữa mà được bán trên thị trường. Từ đó cung cấp nguồn
lương thực, thực phẩm đáng kể cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Ngoài ra, nó còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho các vùng nông thôn, nâng cao đời
sống cho các gia đình, hạn chế tình trạng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị
kiếm sống, góp phần giảm sức Ðp đối với thành thị.
Phát triển VAC, có hiệu quả giáo dục và kinh tế trong nhà trường phổ thông
như việc lao động trong vườn trường tạo ra sản phẩm, tạo môi trường lành mạnh và
nâng cao chất lượng đào tạo.
Sản xuất theo mô hình VAC góp phần sử dụng hợp lý tài nguyên, nhân lực sẵn
có, Ýt lệ thuộc vào bên ngoài, giúp bà con dân tộc bỏ thói quen du canh du cư.

VAC góp phần đa dạng hoá nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phá
chế độc canh, hình thành một số ngành sản xuất khác như: dịch vụ, chế biến, bảo
quản nông sản
- VAC góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường:
VAC sử dụng đầy đủ hơn, tiết kiệm hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
Ýt gây ô nhiễm môi trường. Đây là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, thống nhất các
khâu các thành phần. Trong hệ sinh thái này có mối quan hệ chặt chẽ giữa Vườn -
Ao - Chuồng. Chuồng phát huy và nâng cao hiệu quả cuả các sản phẩm lấy từ Vườn
- Ao. Các loại gia sóc tham gia tích cực và chu trình chuyển hoá các chất Làm cho
đất đai ngày càng trở nên màu mỡ, các chất thải từ trồng trọt và ao cá được sử
dụng tốt hơn tránh gây ô nhiễm môi trường sống.
4. Đặc điểm của kinh tế hộ gia đình và VAC
a. Đặc điểm của kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội: Hé gia
đình là chủ sở hữu hoặc chủ thể sử dụng đất đai và những tư liệu sản xuất chủ yếu
khác; là đơn vị độc lập tham gia vào phân công lao động chung của toàn xã hội. Hộ
gia đình là hình thức tổ chức sản xuất thích nghi với các ngành sản xuất nông
nghiệp.
6
Hé gia đình là đơn vị tiêu dùng của xã hội: Với khoản thu nhập của mình, họ
sẽ tự quyết định việc tiêu dùng sản phẩm xã hội cho nhu cầu của các thành viên
trong gia đình.
Hé gia đình với tư cách là tế bào xã hội: Là cơ sở để hình thành những mối
quan hệ xã hội trong cộng đồng, nơi giáo dục, gìn giữ, bảo tồn và phát triển giá trị
văn hoá truyền thống.
b. Đặc điểm của mô hình VAC
VAC là một hệ sinh thái nông nghiệp được xây dựng trên cơ sở vận dụng các
qui luật khách quan tồn tại và hoạt động trong các hệ sinh thái tự nhiên từ đó đảm
bảo cân bằng sinh thái có tính bền vững cao. Nó có cấu trúc hợp lý, đảm bảo vòng
chu chuyển vật chất gần nh khép kín không tạo ra phế thải làm ô nhiễm môi trường.

VAC là một trong những phương thức sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên
thiên nhiên:
- Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất cho hiệu quả kinh tế cao trên từng đơn
vị diện tích; nâng cao độ phì của đất, làm giảm đến mức thấp nhất quá trình rửa trôi,
xói mòn đất, cải tạo đất hoang hoá.
- Hệ thống VAC tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng các nguồn nước: nước mưa,
nước mặt, nước ngầm có hiệu quả; tuỳ điều kiện nguồn nước mà bố trí cây trồng
cho phù hợp từ đó có thể tái sinh ra nguồn nước sạch.
Trong hệ sinh thái VAC tài nguyên không khí, điều kiện khí hậu được sử dụng
tốt hơn do việc lựa chọn các cơ cấu cây trồng thích hợp. Với lợi thế vị trí địa lý, khí
hậu nhiệt đới ta lựa chọn cơ cấu sản xuất để đưa ra thị trường những sản phẩm đặc
thù, đặc biệt là các sản phẩm trong vụ đông.
VAC là kết quả vận dụng các qui luật tồn tại của đa dạng sinh học, đồng thời
góp phần gìn giữ tính đa dạng đó; giải quyết tốt mối quan hệ giữa sinh vật trung tâm
(cây trồng, vật nuôi chính) với sinh vật hỗ trợ (cây trồng, vật nuôi bổ sung). Sự đa
dạng sinh học trong VAC không thể phát triển theo đa hướng vì nh thế hệ thống
VAC sẽ trở nên manh mún không mang lại hiệu quả kinh tế.
VAC là hệ thống sử dụng năng lượng có hiệu quả, tiết kiệm với hiệu suất cao,
vận dụng có kết quả dây chuyền chu chuyển vật chất. Trong hệ sinh thái VAC, năng
7
suất cây trồng, năng suất lao động được nâng lên, hiệu quả sản xuất tăng và không
gây ô nhiễm môi trường.
VAC đảm bảo tính liên hoàn giữa các khâu trong hệ sinh thái do phát huy tốt
tiềm năng sinh học của các loại cây trồng, vật nuôi. Tính liên hoàn này làm cho mọi
yếu tố vật chất và năng lượng đều luôn ở trạng thái hoạt động. VAC được xây dựng
trên cơ sở đưa những yếu tố dư thừa trong hệ sinh thái vào quá trình sản xuất, đồng
thời tiến hành các biện pháp để làm cho đạt đầy đủ các yếu tố còn thiếu cả về số
lượng và chất lượng. VAC lựa chọn và áp dụng những loại giống cây trồng, vật
nuôi phù hợp với đặc điểm của các vùng sinh thái nhằm phát huy hiệu quả kinh tế
cao nhất.

VAC được xây dựng trên cơ sở giải quyết đồng bộ các khâu của quá trình sản
xuất - bảo quản - chế biến - tiêu thụ. Nó tồn tại và phát triển trong tổng hoà các mối
quan hệ sinh thái - nhân văn, sinh thái - kinh tế, sinh thái - môi trường.
VAC phát triển không gây tác động xấu đến môi trường, trái lại còn tạo nên
môi trường sống trong lành cho con người. Mô hình này hướng tới tạo ra những
quần thể sinh vật dồi dào sức sống, tồn tại hài hoà trong quần xã các loài dẫn đến
năng suất kinh tế cao. Trong VAC các loại sinh vật sinh sống hài hoà tạo nên một
hệ sinh thái phát triển bền vững.
II. NĂNG LỰC KINH DOANH CỦA HỘ GIA ĐÌNH THEO MÔ HÌNH
VAC
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nh vũ bão,
con người được xem là nguồn lực chủ chốt nhất, đóng vai trò quyết định thúc đẩy
tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với nước ta, sự thành bại trong
công cuộc đổi mới đất nước phụ thuộc vào tài năng và trí tuệ sáng tạo của người
Việt Nam. Trong nông nghiệp, mục tiêu của chúng ta là phát triển nền nông nghiệp
sinh thái, nền nông nghiệp bền vững. Để đạt mục tiêu này, con người phải không
ngừng nâng cao trình độ để áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Kinh tế hộ gia đình là đơn vị cơ
bản của nền sản xuất xã hội, từ đó cần có những biện pháp nâng cao năng lực kinh
doanh để sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất những tiềm năng trong hé .
8
1. Khái niệm năng lực kinh doanh và nâng cao năng lực kinh doanh
của hộ
- Năng lực kinh doanh: là khả năng, kiến thức, phương pháp, thái độ hành vi
của con người trong quá trình thực hiện việc kết hợp, sử dụng và quản lý có hiệu
quả các yếu tố nguồn lực như vốn, khoa học kỹ thuật, công cụ lao động nhằm đạt
được kết quả như ý muốn của con người.
- Nâng cao năng lực kinh doanh: Là cách thức nhằm nâng cao khả năng, kiến
thức của con người trong việc kết hợp, sử dụng và quản lý có hiệu quả các yếu tố
nguồn lực như vốn, khoa học kỹ thuật, công cụ lao động; là sự điều chỉnh về

phương pháp, thái độ hành vi của con người để họ nắm được quy luật phát triển nền
nông nghiệp sinh thái nhằm tạo ra những sản phẩm an toàn đáp ứng nhu cầu thị
trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh của hộ gia đình
làm VAC
a. Tài lực
Nước ta đang trong quá trình phát triển nên nhu cầu về vốn là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Trong nông nghiệp, nhu cầu về vốn là hết sức cần thiết, đặc biệt là
trong giai đoạn đầu khi xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc sản xuất kinh
doanh nông nghiệp trong đó có lĩnh vực kinh doanh theo mô hình VAC.
Mô hình VAC được đề cập đến ở đây với mục đích sản xuất hàng hoá, nó vượt
ra khái gia đình tự cấp, tự túc mà sản phẩm làm ra được đưa ra trao đổi mua bán
trên thị trường. Do đó, việc huy động, sử dụng vốn với mục đích kinh doanh chứ
không phải với các mục đích khác nh vẫn tồn tại (vay vốn để cưới xin, giỗ tết ).
Vì vậy, vốn cho vay để phát triển kinh tế VAC có những ưu thế với cơ cấu cây,
con đa dạng “lấy ngắn nuôi dài” nên thực hiện được việc cho vay trả góp. Cho vay
phát triển kinh tế VAC gắn liền với vai trò của tổ chức hội cơ sở để chuyển giao kỹ
thuật, làm cho vốn được sử dụng đúng mục đích đem lại hiệu quả kinh tế cao cho
đối tượng vay và an toàn về vốn.
Thực tế cho thấy, khả năng tích tụ, tập trung vốn của đại bộ phận các hộ nông
dân là thấp. Các hộ sản xuất trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Chọn hình
thức kinh doanh theo mô hình VAC cũng là một cách tạo vốn bởi VAC là cách sử
9
dụng tài nguyên đất hợp lý, đạt hiệu quả cao về kinh tế trên từng đơn vị diện tích
đất nông nghiệp. Với 1 hecta trồng lúa ở mức độ thâm canh trung bình hàng năm
cho thu hoạch 10 - 12 tấn thóc, cho thu nhập là 15 đến 18 triệu đồng, trong khi đó, 1
hecta vườn có thể cho thu nhập 50 đến 60 triệu đồng (theo giá năm 2002). Từ đó ta
thấy, với mô hình VAC, thu nhập của người dân đã tăng lên rõ rệt kéo theo sù gia
tăng vốn đầu tư .
Nguồn vốn tự có của hộ nông dân chủ yếu dựa vào tích luỹ, song tích luỹ của

họ không phải dựa trên một nền nông nghiệp thặng dư. Sự tích luỹ này do sự chắt
bóp của nông dân. Những nông sản phẩm được bán đi để mua vật tư đầu tư vào sản
xuất đôi khi chính là khẩu phần lương thực của họ, xâm phạm vào sản phẩm tất yếu.
Nguồn tích luỹ của nông hộ chủ yếu từ ngành trồng trọt, chăn nuôi. Nguồn tích luỹ
dưới hình thái vật phẩm Ýt có khả năng sinh lời.
Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn là cơ sở để nâng cao cơ sở hạ
tầng, trang bị kỹ thuật cho lao động và mở rộng qui mô sản xuất của các ngành công
nghiệp, dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn. Vốn đầu tư là các nguồn lực tài chính và
phi tài chính của các chủ thể kinh tế được đưa vào hoạt động đầu tư, nhằm tạo năng
lực sản xuất mới hoặc tăng năng lực sản xuất sẵn có với mục đích sinh lợi.
b.Vật lực
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đòi
hỏi tất cả các ngành, các vùng, các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất đều phải
tính đến hiệu quả đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển. Sản xuất nông nghiệp chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhưng đất đai trước hết là đất canh tác nếu được sử
dụng triệt để và hợp lý sẽ cho sản lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng cao
được hiệu quả kinh tế đồng thời góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, trong điều kiện quỹ đất có hạn, dân số không ngừng tăng kéo theo
nhu cầu tiêu dùng nông sản tăng sẽ mâu thuẫn gay gắt với tiến trình thực hiện công
nghiệp hoá, đô thị hoá ở các vùng làm cho diện tích đất canh tác giảm càng nhanh.
Trong điều kiện đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác được xem là vấn đề hết
sức quan trọng và bức thiết. Một trong những biện pháp sử dụng hợp lý, tiết kiệm
và hiệu quả nguồn đất đai đó là cách thức sản xuất theo mô hình VAC.
10
Đất đai có ý nghĩa quan trọng vì nó là tư liệu sản xuất đặc biệt hàng đầu không
thể thay thế của sản xuất nông nghiệp, bảo đảm nguồn thu nhập của hơn 80% dân
số nước ta, tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm cung cấp cho gần 80 triệu dân.
Ngoài ra, còn là nơi tạo ra nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp và hàng nông
sản xuất khẩu.
Diện tích đất nông nghiệp nước ta: 9.345.346 ha, diện tích đất nông nghiệp

bình quân theo đầu người là 0,097 ha, đất vườn tạp 628.464 ha, đất có mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản 367.846 ha, đất đồng bằng chưa sử dụng 589.374 ha, đất có mặt
nước chưa sử dụng 148.534 ha (năm2000). Nh vậy, tiềm năng về đất để khai thác
sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản là tương đối lớn. Đối với diện tích đất
nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đều có giới hạn về mặt diện tích, nó được
quy định bởi đặc điểm của đất đai: số lượng hữu hạn nhưng có tính vô hạn về sự
sinh lời của đất. Với diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người thấp, quy
mô canh tác nhỏ bé, lại phân tán trên nhiều cánh đồng, nhiều mảnh ruộng theo cách
chia đều, nhà ai cũng có ruộng xấu, ruộng tốt, ruộng xa, ruộng gần
Biểu II: Hộ phân theo quy mô đất nông nghiệp
Diện tích bình quân/hộ (ha) Số hé Tỷ lệ (%)
0 444.661 4,16
0- 0,2 2.688.253 25,15
0,2- 0,5 4.189.051 39,19
0,5- 1 1.755.064 16,42
1- 2 1.058.138 9,9
2- 3 338.298 3,16
3- 5 167.903 1,57
5- 10 42.796 0,4
Trên 10 5.639 0,05
Tổng 10.689.753 100
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
Do đó để có thể xây dựng được mô hình VAC thì yêu cầu cần có quy mô đất
đủ lớn. Theo Luật đất đai năm 1993, người dân có quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng ruộng đất. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển mô
hình VAC. Tuy nhiên, với diện tích có hạn nên mô hình VAC được xây dựng
11
thường nhỏ. Từ đó, ta thấy để mô hình kinh tế VAC hoạt động có hiệu quả cao thì
cần có sự thiết kế, bố trí mô hình một cách khoa học.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá đã tương đối phát triển, tập trung ruộng đất

là điều kiện căn bản để chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc, phân tán manh món sang
sản xuất tập trung hoá, chuyên môn hoá. Hiện nay, giá trị trên 1 hecta đất canh tác
bình quân mới đạt trên 1000 USD/năm, bình quân một hộ gia đình có doanh thu từ
đất khoảng 600 USD/năm. Như vậy, mức thu nhập chỉ khoảng 400 USD/năm, mà
mỗi hộ gia đình có từ 4 - 5 nhân khẩu thì một nhân khẩu nông nghiệp có thu nhập
không đến 100 USD/năm. Một tháng mức thu nhập từ đất của một nhân khẩu từ đất
của một nông dân khoảng 8 - 9 USD tức là khoảng 100 - 200 đồng/người/tháng,
cộng với các khoản thu nhập ngoài trồng trọt, chăn nuôi, nghề phi nông nghiệp, thu
nhập khác thì bình quân từ 180.000 - 200.000 đồng/người/tháng.
Diện tích đất nông nghiệp bình quân/lao động nông nghiệp ở nước ta thấp: 0,3
ha đứng thứ 135/160 nước trên thế giới (Châu Âu 17 ha, Châu Mỹ 45 - 50 ha, khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương 4 - 4,5 ha). Diện tích này có xu hướng ngày càng
giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, do sự phát triển của kết cấu hạ
tầng trong nông thôn, sự hình thành các trung tâm công nghiệp mới. Tình trạng
chuyển đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng “đất chật người đông” để xây dựng các
khu công nghiệp, các liên doanh với nước ngoài đang diễn ra mạnh làm cho diện
tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Bên cạnh đó, do sức Ðp về lao động và việc làm,
do nhu cầu về nông sản ngày càng tăng, trong khi quỹ ruộng đất dành cho nông
nghiệp ngày càng thu hẹp, do đó đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang hoá đưa vào
sản xuất nông nghiệp là việc cần thiết.
Năm 1993, Luật đất đai được ban hành quy định đất nông nghiệp được giao
cho hộ, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Người dân
hưởng quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng ruộng đất đã tạo điều kiện thuận
lợi cho họ tập trung ruộng đất và có thể thực hiện sản xuất kinh doanh theo mô hình
VAC. Cùng với diện tích mặt nước tự nhiên, việc đào ao góp phần làm tăng thêm
diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản. Sau khi đã bố trí xây dựng mô hình phù
hợp, các hộ gia đình tiến hành việc chăn nuôi với nhiều hình thức khác nhau, có thể
12
sử dụng phương thức chăn nuôi kết hợp: cá - vịt, cá - lợn, vườn - cây - lợn - cá, lợn
- cá- ong - vườn đem lại hiệu quả cao cả về kinh tế và môi trường sinh thái.

Tuy nhiên, quá trình tích tụ ruộng đất sẽ gặp khó khăn trong 5 - 7 năm tới. Do
đó, muốn phát triển sản xuất nông nghiệp không phải bằng con đường tích tụ ruộng
đất nữa mà phải theo hướng “tích luỹ vốn, đầu tư kỹ thuật”. Càng Ýt ruộng đất thì
càng phải đi vào chiều sâu trong khai thác đất đai và chiều rộng trong mở mang
ngành nghề mới.
Hệ thống công cụ sản xuất của được xem là một trong những nguồn vốn cố
định của nông hộ, phản ánh trình độ trang bị kỹ thuật, những phương tiện sản xuất.
Do vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất nói chung và vốn đầu tư cho mua sắm tài sản
cố định nói riêng còn hạn chế nên ở nông thôn nước ta vẫn sử dụng các công cụ thủ
công( cày, bừa, cuốc, xẻng ). Xét về cơ cấu động lực thì thiên về sức người và sức
gia súc. Sử dụng sức người 38%, sức súc vật 35%, sử dụng máy móc 27%. Ngay ở
khâu làm đất trong nông nghiệp, số diện tích đất được làm bằng máy cũng chỉ
chiếm tỷ lệ 10% tổng diện tích đất canh tác. Hệ thống công cụ, đặc biệt là trong các
khâu trực tiếp của sản xuất nông nghiệp Ýt có sự biến đổi. Thường nó vẫn mang
tính truyền thống, việc đưa máy móc vào nông nghiệp sẽ làm giảm cả tương đối và
tuyệt đối số lượng lao động trực tiếp sản xuất. Do đó việc trang bị máy móc, công
cụ lao động vào sản xuất nông nghiệp sẽ làm tăng năng suất lao động, rút ngắn thời
gian hoàn thành công việc.
Với mô hình VAC, việc trang bị hệ thống công cụ sản xuất là rất cần thiết biểu
hiện bằng việc cơ giới hoá các quá trình sản xuất chẳng hạn như trong ngành chăn
nuôi ở các khâu vệ sinh chuồng trại, tắm rửa gia súc, phân phối và chuẩn bị thức ăn
cho gia sóc; trang bị máy móc như máy bơm nước để chủ động tưới tiêu cho cây
trồng trong vườn
Trong sản xuất nông nghiệp giống là yếu tố quan trọng không thể thiếu, giống
tốt góp phần làm tăng năng suất, giống có khả năng chống chịu tốt, phù hợp với
điều kiện thời tiết, khí hậu và đặc điểm của đất đai sẽ góp phần làm giảm chi phí
sản xuất và giảm đầu tư sức lao động của con người. Trong mô hình VAC, có chu
trình khép kín nên các sản phẩm từ vườn, chuồng là nguồn thức ăn cho ao nên việc
đảm bảo hợp vệ sinh, tránh những tàn dư độc hại để sinh vật có thể phát triển tốt
13

nhất. Các loại giống được sử dụng trong hé VAC hiện nay thường là các giống do
hộ tự tạo ra hoặc mua từ những hộ trong cùng địa phương. N h việc họ tự ghép cành,
chiết cành để tạo ra giống cây trồng mới, tiến hành lai tạo giống con nuôi.
Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp góp phần làm cho nông nghiệp
có thể phát huy hết những tiềm năng sẵn có. Hệ thống giao thông trên đồng ruộng
cũng như đường sá vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ quá xấu
hoặc chưa được xây dựng làm hạn chế khả năng hạ giá thành sản xuất và làm tăng
chi phí, thời gian vận chuyển làm hao hụt sản phẩm.
Trong mô hình VAC đã chủ động được nguồn nước, có thể sử dụng nước
trong ao để tưới cây trong vườn hay tắm rửa cho gia súc, vệ sinh chuồng nuôi. Ao là
nơi tiêu nước cho vườn khi ngập úng, là nguồn nước tưới cho cây lúc khô hạn.
c. Trí lực
Trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nh vũ bão, con người
được xem là nguồn lực chủ chốt nhất đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Cùng với sự phát triển chung Êy, con người
luôn không ngừng học hỏi nâng cao trình độ bởi vì hiện nay lao động trong nông
nghiệp nông thôn còn đang ở trình độ thấp. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
công cụ lao động còn đang diễn ra khá chậm thể hiện ở quy mô, tốc độ chuyển dịch
ngành nghề, trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ, chất lượng của nguồn lao động và
ở cả trình độ tổ chức quản lý sản xuất và tổ chức lao động.
Lao động nông nghiệp nước ta chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội
76,4% (năm 2002). Đây là tiềm năng lớn để có thể khai thác trong sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, do quỹ đất nông nghiệp Ýt, diện tích đất nông nghiệp bình quân
0,097 ha/người thêm vào đó tốc độ tăng dân số nước ta còn cao 1,31% (năm 2002)
cộng với khoảng trên 1 triệu lao động bước vào thị trường lao động hàng năm, gây
ra sự dư thừa lao động và tình trạng thiếu việc làm dẫn đến thu nhập của người lao
động thấp. Thu nhập bình quân từ nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2002 là 658,85
nghìn đồng/người. Tỷ lệ thất nghiệp của cả nước gần đây có xu hướng giảm từ
6,44%(năm 2001) còn 5,84%(năm 2002).
14

Lao động trong lĩnh vực VAC đang lớn lên, tách ra thành những ngành nghề
mới cùng với nghề trồng lúa, làm vườn, nghề trồng rau, trồng hoa, cây cảnh. Để thu
hút được lao động nhiều vào sản xuất nông nghiệp cần thiết phải đẩy mạnh việc cơ
cấu lại sản xuất nông nghiệp ở mỗi địa phương theo hướng phát triển các ngành
chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại cây trồng có trình độ thâm canh, có giá trị
kinh tế cao mà thị trường có nhu cầu.
Trong nông nghiệp có xu hướng biến đổi lao động từ lao động chưa được đào
tạo, bồi dưỡng đến lao động được đào tạo nâng cao trình độ; về tổ chức lao động từ
chỗ lao động còn phân tán riêng lẻ sang lao động hiệp tác; từ lao động thủ công là
chính sang lao động làm việc bằng máy móc là chính, với cách thức tổ chức theo lối
công nghiệp. Lao động ngày càng trở thành lao động tự giác, sáng tạo cả về mặt
tính chất.
Mô hình VAC sử dụng triệt để lao động nhàn rỗi trong nông thôn, ai phù hợp
với việc gì thì làm việc Êy, tạo ra việc làm thường xuyên cho lao động hạn chế tính
thời vụ từ đó giảm tình trạng căng thẳng về lao động. Tuy nhiên, mô hình VAC hoạt
động vẫn chưa thật hiệu quả mà phần lớn là do trình độ lao động trong nông thôn
chưa cao. Đến năm 2002, lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 88,83%
tổng lao động xã hội, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ có bằng trung học chuyên
nghiệp chiếm 3,61%, trình độ cao đẳng trở nên 3,67% tổng lao động xã hội. Phần
lớn lao động tham gia làm VAC có trình độ kỹ thuật còn ở mức thấp, chủ yếu làm
theo kinh nghiệm truyền thống, theo kiểu tự đào tạo và truyền nghề. Tri thức và kỹ
năng truyền thống có được là do tiếp xúc chặt chẽ với thiên nhiên, được áp dụng có
chọn lọc trong quá trình tiến hoá của sinh quyển. Những người nông dân đã quen
với thí nghiệm của riêng họ trên đồng ruộng, họ kiểm tra một công nghệ nào đó trên
một quy mô nhỏ trước khi hoàn toàn áp dụng những công nghệ đó vào hệ thống
canh tác đồng thời họ cũng điều chỉnh một số biện pháp trong những tình huống cụ
thể. Người dân thường có những kiến thức chi tiết về điều kiện cụ thể của địa
phương, tại những vùng có tính chất không thuần nhất. Do đó, việc lựa chọn công
nghệ của họ phù hợp với các điều kiện cụ thể đó. Kết hợp với những kinh nghiệm
truyền thống đó, cần phải nâng cao trình độ của người lao động đặc biệt là lao động

trong hộ làm kinh tế VAC với mục tiêu sản xuất hàng hoá, nâng cao trình độ là cần
15
thiết để họ có thể bước vào kinh tế thị trường với sự thua thiệt trong thương trường
là Ýt nhất.
Sự phân bố lao động trong nông nghiệp còn bất hợp lý: 90% lao động dành
cho trồng trọt, lao động trong chăn nuôi chỉ chiếm 10%. Trong trồng trọt, lao động
dành chủ yếu cho sản xuất lương thực, thực phẩm và thường tập trung ở những
vùng đồng bằng châu thổ, ven các trục đường giao thông. Do sự phân bố lao động
nông nghiệp theo vùng và phân bố theo ngành chưa hợp lý nên việc sử dụng nguồn
lực còn nhiều lãng phí. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao
do thời gian lao động không đồng nhất với thời gian sản xuất của các loại cây trồng,
vật nuôi, do sự biến thiên về điều kiện thời tiết khí hậu mỗi loại cây trồng Để tiến
hành kịp thời vụ trong VAC, những người nông dân trong từng thôn xóm thực hiện
vần công, đổi công, hợp tác lao động. Bên cạnh đó, xuất hiện việc thuê mướn lao
động có mức độ khác nhau ở các vùng tuỳ theo trình độ của sản xuất hàng hoá ở
từng vùng. VAC góp phần thu hót lao động giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn.
Với trang thiết bị máy móc chưa nhiều, phần lớn là các công cụ thô sơ nên
năng suất lao động còn thấp, thu nhập và đời sống của người lao động chậm được
cải thiện, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có trong mô hình VAC.
Muốn phát triển tốt VAC cần kết hợp khéo léo giữa kinh nghiệm cổ truyền với
tiến bộ khoa học kỹ thuật đạt trình độ công nghệ cao. Trong thực tiễn sản xuất nông
nghiệp, ở khắp mọi nơi trên thế giới những người nông dân đã tích luỹ được một
khối lượng khổng lồ những kinh nghiệm, tri thức và kỹ năng. Do đó, cần thiết phải
khai thác tối đa vốn quý giá này, cố gắng lồng ghép và áp dụng càng nhiều càng tốt,
đồng thời vận dụng sáng tạo những công nghệ mới để cung cấp lượng hàng hóa
nông sản có chất lượng theo yêu cầu của thị trường.
Tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp là những kỹ thuật, những biện pháp tổ
chức quản lý, quy trình công nghệ, giống cây trồng, con nuôi góp phần phát triển
kinh tế xã hội nông thôn, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người nông dân.

Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong nông nghiệp nói chung và trong mô
hình VAC nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khai thác, phát huy được các
16
tiềm năng, tạo ra lợi Ých trước mắt cũng như lợi Ých lâu dài; đảm bảo an toàn đối
với hệ sinh thái môi trường và là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đưa tiến bộ kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp là một trong những nhân
tố cơ bản làm tăng năng suất lao động. Trong những năm qua, nông nghiệp đã có
tốc độ phát triển khá cao khoảng 4,5%/năm, riêng lương thực bình quân 6%/năm.
Năm 1999, sản xuất lương thực đã tiếp tục tăng 4,63% so với năm 1998. Những
thành tựu đó không thể tách rời sự đóng góp tích cực và có hiệu quả của khoa học
công nghệ, song vẫn còn một số vấn đề chưa giải quyết được: phẩm cấp nông sản
hàng hoá và các sản phẩm khác của nông nghiệp chưa cao đã gây lo ngại bởi nó đã
làm giảm sức cạnh tranh của các loại hàng hoá này. Công nghệ bảo quản chế biến
sản phẩm còn kém phát triển, tổn thất sau thu hoạch còn cao.
Hoá học hoá nông nghiệp, một biểu hiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng có
quan hệ trực tiếp với quá trình thay đổi nội dung và tính chất của lao động nông
nghiệp và biến nó thành một dạng của lao động công nghiệp với việc tăng sử dụng
phân hoá học, thuốc trừ sâu, trừ cỏ đóng vai trò nhất định. Tuy nhiên, trong mô
hình VAC sản phẩm làm ra yêu cầu là sản phẩm sạch, an toàn vệ sinh nên việc sử
dụng các loại thuốc trên có thể là cần thiết trong một số trường hợp đặc biệt, song
cần tránh sử dụng nó một cách tràn lan.
Tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, thú y: kỹ thuật về giống, chăm sóc nuôi
dưỡng, công tác thú y an toàn. Chỉ tiêu quan trọng và tiền đề đối với việc ứng dụng
các phương pháp công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp đặc biệt là ngành chăn nuôi
là điện năng. Tăng việc sử dụng điện vào nông nghiệp mang tính cách mạng không
chỉ đối với việc tăng cơ giới hoá và tự động hoá mà còn đối với việc thay đổi tập
quán tác phong của dân cư đang sống ở nông thôn. Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật
biểu hiện bằng việc cơ giới hoá trong sản xuất, được tiến hành một cách có kết quả
trong ngành chăn nuôi. Các khâu vệ sinh chuồng trại và tắm rửa gia súc, phân phát
và chuẩn bị thức ăn đã được cơ giới hoá từ đó giải phóng sức lao động của con

người.
Việc đưa tiến bộ kỹ thuật vào nông nghiệp không những làm thay đổi tính chất
và nội dung của lao động mà còn dẫn đến việc giảm bớt đầu tư lao động chuyển lao
động của mình vào các hoạt động, các xí nghiệp, các ngành khác.
17
Sản phẩm nông nghiệp thường là các sản phẩm tươi sống, dễ hư hỏng và có
tính thời vụ cao nên số lượng thu mỗi lần thường lớn vì vậy việc đưa khoa học công
nghệ vào khâu bảo quản chế biến sau thu hoạch là hết sức cần thiết.
Trong tổ chức quản lý cần có các phương pháp, quy trình công nghệ về quản lý
lao động, quản lý vật tư tài sản, quản lý về tài chính, tổ chức vận hành hoạt động
của mô hình góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để có thể chuyển giao được những tiến bộ kỹ thuật cho nông dân cũng là vấn
đề gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu của chúng ta là kinh tế hộ nông dân phải phát triển
bền vững nghĩa là đảm bảo các nhu cầu hiện tại mà không làm mất khả năng đầu tư
cho các thế hệ tương lai. Vì vậy,việc lựa chọn loại hình tiến bộ kỹ thuật để chuyển
giao cho người nông dân phải giải quyết được câu hỏi nó có lợi về tài chính không?
Có phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở địa phương không? Cần đưa
những kỹ thuật đơn giản phát huy được vốn kiến thức qua kinh nghiệm bản thân
người dân không?
Người nông dân không muốn nâng cao giá trị của một loại cây trồng, vật nuôi
nào mà lại bắt các hoạt động sản xuất khác phải trả giá. Vì vậy, kỹ thuật mới phải
phù hợp với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở địa phương càng dễ dàng và càng
thể hiện được ưu điểm của chúng càng tốt. Một kỹ thuật mới nhằm mục đích nâng
cao hiệu quả sản xuất cần phải khắc phục được một hoặc một số yếu tố hạn chế
trong hệ thống canh tác ở địa phương.
Kỹ thuật dành cho người nông dân nghèo phải được dựa trên những gì mà họ
sẵn có khi các loại vật tư, nguyên liệu khác cần thiết phải dễ kiếm, có nguồn ổn
định, lâu dài, đáng tin cậy, giá cả phải chăng. Với những hộ giàu hơn, họ có phương
tiện vận chuyển, hiểu biết kỹ thuật tốt hơn, có mối quan hệ thân quen rộng rãi hơn
với các địa phương khác thì họ có thể tự đảm bảo được nhu cầu về vật tư và nguyên

liệu cần thiết đó.
Khoa học công nghệ được áp dụng phải đảm bảo sao cho những nguồn tiềm
năng đang khai thác không bị cạn kiệt. Đất nước, sự đa dạng di truyền của cây
trồng, những loại côn trùng có Ých phải được duy trì, nếu không những lợi Ých đạt
được chỉ là tạm thời.
18
Để thực hiện cơ giới hoá trong nông nghiệp, máy móc đưa vào không đắt tiền,
vận hành và bảo dưỡng đơn giản, hoạt động phù hợp với diện tích đất đai, địa hình
canh tác và loại đất. Kỹ thuật cơ giới hoá cần phải làm tăng nhu cầu về lao động thủ
công trong suốt mùa vụ để đảm bảo cuộc sống cho những người thiếu việc làm qua
việc sử dụng hiệu quả hơn và cho phép canh tác trên diện tích mới. Hiện nay,
phương tiện vận chuyển, chất lượng và số lượng nông sản của các hộ nông dân hạn
chế, không tiếp cận được với nhiều hình thức tiêu thụ nông sản nên trước khi áp
dụng khoa học công nghệ cần xem xét giá cả thị trường và những biến động của nó
để có thể sử dụng những loại cây trồng, con nuôi tạo sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường.
Hiệu quả của VAC rất lớn, năng suất của VAC rất cao, mô hình VAC rất đa
dạng và phong phú nhưng tới nay chưa có một mẫu VAC ổn định nào dành cho mọi
nhà, mọi vùng địa lý khác nhau áp dụng. Dựa vào địa lý và tập quán sản xuất nông
nghiệp của các địa phương chúng ta có các dạng mô hình VAC: VAC đồng bằng,
VAC trung du, VAC miền núi, VAC ven biển, Nhìn chung mô hình VAC được
xác định nhằm đảm bảo nguồn lợi tối ưu, hạn chế thấp nhất điều kiện bất lợi sử
dụng phế thải của cơ thể khác để tiết kiệm năng lượng, đầu tư Ýt, hiệu quả cao. Để
có thể tiến hành sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao cần bố trí VAC hợp lý,
chọn giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng địa phương.
Về thiết kế mô hình VAC: Sau khi chọn được địa điểm để có thể xây dựng
mô hình, chủ hộ phải tính xem vị trí đào ao, nơi xây dựng chuồng trại, đất làm vườn
sao cho có thể tận dụng được tốt nhất các yếu tố khí tượng (ánh sáng, nhiệt độ, độ
Èm) sử dụng hợp lý tiết kiệm các yếu tố đất đai, nguồn nước, hệ thống dẫn nước.
Đặc biệt có thể thuận lợi trong việc quản lý quá trình hoạt động của các yếu tố

vườn, ao, chuồng. Trong thiết kế xây dựng cần đảm bảo tận dụng tốt nhất mối quan
hệ giữa ba yếu tố VAC sao cho chúng hỗ trợ cho nhau thúc đẩy nhau phát triển để
toàn bộ hệ thống tồn tại và phát triển bền vững.
Lựa chọn các loại giống cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với đặc điểm của
các vùng sinh thái trên sơ sở phát huy ở mức tương đối cao năng suất kinh tế của
chúng. Hiện nay việc cung ứng giống cây, con chủ yếu là do tự nhiên, hộ cá thể
19
đảm nhận, chất lượng giống không đảm bảo và không được kiểm nghiệm gây ra tổn
thất khá lớn.
Hé kinh doanh theo mô hình VAC là chủ thể kinh tế nên cần phải tổ chức và
quản lý như thế nào để nó có hiệu quả kinh tế cao. Bất cứ một thành công nào cũng
không thể “tự thân vận động” mà được vì còn nằm trong một quỹ đạo lớn nữa. Do
đó, trong việc quản lý mô hình sản xuất VAC cần thực hiện mở rộng hợp tác với
các gia đình làm VAC khác để học hỏi kinh nghiệm. Trong những điều kiện khó
khăn chung phục vụ cho sản xuất kinh doanh, các hộ này có thể kết hợp cùng xây
dựng. Đặc biệt là vấn đề thị trường có thể cùng kết hợp với nhau để tạo ra một thị
trường cung cấp nông sản lớn, tập trung để việc bán hàng dễ hơn. Bên cạnh đó, việc
quản lý các nguồn lực trong bản thân hộ là rất quan trọng nó quyết định sự thành
bại của hộ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
* Đối với hộ sản xuất theo mô hình VAC
Tài nguyên trước hết là đất và không gian của nó. Đất là tài nguyên vô giá của
sự sống nên ông cha ta đã khái quát “tấc đất, tấc vàng” và khuyên chúng ta “Ai ơi
đừng bỏ ruộng hoang”. Các nhà quản lý, các chủ hộ VAC cần xem xét vị trí của đất
từ nơi sản xuất đến thị trường tiêu thụ, đặc biệt với mô hình VAC phải xem diện
tích đất đó có nước để chủ động tưới tiêu không? Xem đất có phân tán, rải rác,
manh món hay không? Từ đó có biện pháp chuyển đổi đất hợp lý. Trong quá trình
sử dụng còn có biện pháp bảo vệ, cải tạo và bồi dưỡng đất để nâng cao độ phì của
đất và sử dụng có hiệu quả.
Kế đến là nước: Việc đào ao, giữ nước kết hợp với nuôi cá là một kinh nghiệm
được coi là có giá trị kinh tế cao. Việc quản lý nguồn nước phải đảm bảo nguồn

nước đủ, hợp vệ sinh để tắm cho gia súc, rửa chuồng trại.
Tiếp theo là việc quản lý và sử dụng tốt nguồn tài nguyên khí hậu. Thời tiết,
khí hậu có ý nghĩa rất lớn đối với cây trồng, vật nuôi. Những thay đổi về độ Èm, độ
nóng, mưa gió, bão lũ, có ảnh hưởng lớn đối với sản xuất nông - ngư nghiệp. Để
quản lý khí hậu cần điều tiết các luồng nước, hơi nóng bằng cách trồng cây bóng
mát. VAC đã đáp ứng tốt yêu cầu này. Để thực hiện quản lý tốt tài nguyên trong hé
VAC cần chú ý tìm hiểu xem nguồn tài nguyên trong hộ có những thuận lợi và khó
khăn gì? Tìm hiểu đối tượng sản xuất nông nghiệp của hộ gắn vớiđất nước và thời
20
tiết khí hậu nh thế nào? Đánh giá đúng giá trị của những tài nguyên đó và kinh
nghiệm sử dụng có hiệu quả tài nguyên đó. Từ đó hộ sẽ lựa chọn cơ cấu cây trồng,
vật nuôi phù hợp để tận dụng được những tiềm năng về tài nguyên của mình nhằm
thu được năng suất cây trồng, vật nuôi cao.
* Quản lý lao động và thù lao của lao động
Trong mô hình VAC thực hiện sản xuất hàng hoá, ngoài việc sử dụng lao
động vốn có của gia đình, hộ còn thuê thêm một số lao động làm việc cả năm hoặc
từng thời vụ. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng lao động và thù lao lao động có vai trò
quan trọng đảm bảo lợi Ých kinh tế của mỗi người. Quản lý, sử dụng lao động còn
thể hiện ở việc có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lao động có thể có (kể cả lao động dư thừa) nhằm đảm bảo nâng cao năng suất lao
động.
* Quản lý vốn
Đặc thù của nông nghiệp và các ngành kinh tế nông thôn là vốn đầu tư vào
nông nghiệp thường mang lại hiệu quả thấp, rủi ro cao nên hạn chế trong việc thu
hút vốn đầu tư từ bên ngoài, huy động trong nội bộ người dân cũng rất hạn chế vì
họ có thu nhập thấp, không có vốn dư thừa. Nh vậy, vấn đề vốn để phát triển sản
xuất là có hạn. Do đó, cần có biện pháp quản lý sử dụng vốn hợp lý có hiệu quả cao.
Với số lượng vốn Ýt, kỹ thuật lạc hậu vì vậy cần chọn giống cây con phù hợp với
điều kiện kinh doanh của hộ để đem lại hiệu quả chẳng hạn sử dụng cách thức lấy
ngắn nuôi dài.

3. Cách thức tiến hành xây dựng mô hình VAC và một số điển hình
tiên tiến
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, ở nông thôn nước ta có những thay
đổi rõ rệt. Nhìn chung đời sống người dân từng bước được nâng cao. Song vẫn còn
nhiều khó khăn, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng cho sản xuất, vốn đầu tư, kĩ thuật tiến
bộ áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó ở nông thôn còn nhiều tiềm năng
chưa được khai thác triệt để nh: đất đai, diện tích mặt nước, chuồng trại chăn nuôi,
tỷ lệ thời gian lao động chưa sử dụng
Nhận biết được tiềm năng đó, một số hộ bằng sự hiểu biết và thức sự muốn
làm giàu từ nông nghiệp, họ đã tiến hành sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp và
21
thu được thành công với cách làm chung là: tạo vốn ban đầu, cải tạo và thiết kế ao,
chuồng; cơ cấu sản xuất.
- Tạo vốn ban đầu:
Các chủ hộ xuất thân từ nhiều tầng lớp, nhiều thành phần (nông dân, bộ đội,
những người đã nghỉ hưu, giáo viên ) phần lớn họ là những người nghèo. Khi được
vay vốn họ thường làm cách “lấy ngắn nuôi dài”, trước hết họ sản xuất những thứ
bỏ Ýt vốn mà thu lợi nhanh, khi có chút Ýt tích luỹ mới mở rộng và đa dạng hoá
sản xuất.
Ngoài vốn tự có (không nhiều), các nguồn khác là: Tín dụng của Nhà nước,
của ngân hàng nông nghiệp; tiền ứng trước của công ty, liên hiệp xí nghiệp; tín
dụng của các chương trình trong nước và ngoài nước, sự trợ giúp của gia đình, làng
xóm, tổ chức phụ nữ. Có các hình thức vay gọi là quay vòng: Người không có tài
sản thế chấp có thể dùng tín chấp do một đoàn thể nhân dân đứng ra bảo đảm (hội
nông dân, hội phụ nữ, hội làm vườn).
- Cải tạo và thiết kế vườn, ao, chuồng trại:
Đảm bảo mỗi thành phần trong hệ thống thực hiện nhiều chức năng. Cần chọn
các loài cây, con thích hợp cho hệ thống để đáp ứng yêu cầu đa chức năng của
chúng. Các yếu tố nhà ở, chuồng trại, vườn cây, ao cá được sắp xếp hợp lý phù hợp
với điều kiện tự nhiên và điều kiện sản xuất cụ thể mỗi yếu tố có thể vận hành tốt.

Cần cải tạo từ vườn tạp nhưng không nên độc canh cây trồng hay vật nuôi mà thực
hiện đa canh đi đôi với thâm canh tạo ra nguồn sản phẩm phong phó, Ýt rủi ro về cả
năng suất và giá cả cho người sản xuất. Tính đa dạng thường liên quan chặt chẽ với
tính bền vững của hệ thống. Hệ đa canh VAC sử dụng tài nguyên tại chỗ cùng với
phế phẩm của hệ thống để quay lại cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, cho
đất, hạn chế dịch bệnh, từ đó hạn chế được việc sử dụng thuốc trừ sâu và phân hoá
học do đó tạo nên sự bền vững cho hệ thống và giảm ô nhiễm môi trường.
Có thể bố trí ao nuôi cạnh vườn rau để lấy nước tưới vườn thuận tiện, rau thừa
có thể cung cấp cho ao nuôi. Chuồng nuôi xây dựng gần ao để tận dụng những thức
ăn thừa ở chuồng nuôi làm thức ăn cho ao.
- Cơ cấu sản xuất.
22
Trồng trọt: tuỳ điều kiện đất đai và cơ cấu cây trồng mà bố trí cho phù hợp.
Những cây trong vườn có nhiều Ých dụng: vừa là rau quả, vừa là cây thuốc, vừa là
cây thực phẩm, cây phân xanh, cây thức ăn cho chăn nuôi gia súc, nuôi cá.
Chăn nuôi: Với ao nuôi có qui hoạch sử dụng hiệu quả nguồn nước, chú trọng
bảo vệ môi trường nước, chống gây ô nhiễm, cải tạo thuỷ vực, tăng nguồn dinh
dưỡng cho các thuỷ sinh nhằm nâng cao năng suất sinh học của thuỷ vực, tạo điều
kiện tốt cho việc thâm canh tăng năng suất các sinh vật nuôi trồng. Bước đầu do
chưa có kinh nghiệm, chưa có vốn và điều kiện nuôi nên nuôi các loại ngắn ngày,
dễ nuôi. Với chuồng nuôi: tuỳ điều kiện thời tiết khí hậu của vùng mà chọn các loại
con nuôi thích hợp, bên cạnh đó còn tuỳ thuộc vào điều kiện về thức ăn, phòng
bệnh mà có giống con dễ nuôi có năng suất cao.
Từ cách làm chung đó mỗi gia đình có cách huy động và sử dụng riêng phù
hợp với điều kiện của gia đình mình để đạt hiệu quả tốt nhất.
Một số điển hình làm VAC giỏi:
* Mô hình của ông Huỳnh Kim Vinh 60 tuổi, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu
Thành, tỉnh Cần Thơ.
Gia đình ông có 2 vợ chồng, 6 con gồm 4 con trai và 2 con gái đã trưởng
thành.

Tổng diện tích đất của gia đình là 13 công ở vị trí thuận lợi, mặt tiền giáp sông
Ba Láng, mặt hậu giáp đường quốc lộ. Trước chỉ làm lúa 1 vụ ông đã quyết định lập
vườn 8 công chỉ để 5 công làm ruộng.
- Làm vườn:
Vườn ông lập có bờ bao ngăn chủ động nước tưới tiêu, có bờ chắn gió vào
mùa gió nam thổi mạnh. Từ khi mới thành lập đến năm 1992, ông bố trí 2 công
trồng ổi, nửa công trồng đu đủ, 5 công trồng cam quýt.
Trồng ổi và đu đủ ngoài thu nhập đủ chi phí trong gia đình, ông mua được
máy bón phân cho cam, quýt. Đến năm thứ 3, cam đã bắt đầu được thu hoạch cứ
mỗi cây cho 100 - 130 kg quả. Các năm sau, cây xuống rất nhanh vì kỹ thuật chưa
cao, phân bón không đầy đủ.
Khi Nhà nước khuyến khích trồng ca cao và nhận thấy mô hình ca cao + dừa
+ tiêu + chuối là mô hình thích hợp, ông mạnh dạn chuyển sang trồng các loại cây
23
này và hiện nay thực tế vườn của ông gồm: 8 công ca cao xen dừa, 5 công cam
quýt. Ông học hỏi để tự chiết ghép cây trồng cho vườn nhà và giờ đây có dư để bán.
Hiện tại mức thu nhập của gia đình ông: Ca cao 30 triệu, dừa 3 - 4 triệu.
Cây ca cao mặc dù thu nhập không thật cao nhưng rất ổn định và khai thác lâu
năm, năng suất cao (2,5 tấn/ha) Ýt sâu bệnh. Trong vườn không phải phun thuốc trừ
sâu, nên dưới ao, trên bờ vẫn nuôi được cá, ong mật, gà.
- Ao: Do điều kiện vườn chủ động được nước, nên ông đã nuôi cá ở tất cả các
mương vườn chủ yếu là cá bống tượng, đủ cả các thịt để ăn trong gia đình ngoài ra
còn cá bán thu lợi trên 1 triệu đồng.
- Chăn nuôi:
Heo, gà: Lúc nào cũng có heo và gà nhưng Ýt nhiều tuỳ thuộc vào giá cả từng
năm.
Nuôi dê: 4 dê sữa, nuôi con cho 200 - 300 lít sữa/năm, bán được 4.000 lít dê
con nuôi bán thịt, hàng năm tiền bán sữa + thịt khoảng 4 triệu đồng.
Nuôi trăn: 1 con trăn nái, mỗi năm đẻ Ýt nhất được 15 - 16 con bán được 600
- 700 ngàn đồng.

Nuôi ong mật: Dùng giống ong mật nội địa, thùng ong cho 10 lít mật. Nuôi 15
thùng, mỗi năm thu trên 4 triệu đồng.
Năm 1993, tổng thu 48.700.000 đồng trừ chi phí còn lãi 38.700.000 đồng.
Là thành viên của hội làm vườn, ông đã thành lập được một chi hội làm vườn
ở Êp, hàng tháng họp định kì để trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin kỹ thuật.
Đã liên hệ được với tỉnh hội nhận được trợ vốn 4 triệu cho 10 hộ nghèo nuôi cá trê
vàng trong mương vườn, trong vòng 5 tháng mỗi hộ có lời được 500 - 600 ngàn
đồng, vận động tổ Hội làm cây giống để trồng và bán cho xung quanh với phẩm
chất tốt.
* Mô hình của ông Trần Thanh Giang xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình.
Ông là thương binh 4/4, sức khỏe hạn chế khi rời quân ngũ về địa phương.
Gia đình có 1 sào ao, trước đây chỉ nuôi cá thịt. Ông thấy trong xã không có gia
24
đình nào nuôi cá giống. Nhu cầu của nhân dân tiêu thụ nhiều, ông quyết định nuôi
cá giống.
Năm 1989, kết toán một năm nuôi cá có lãi, bên cạnh nhà có khu vũng thùng
đấu 5960 m
2
bá hoang của tập thể. Từ thu nhập của cá giống ông đầu tư xây dựng
bờ ao của nhà hoàn chỉnh.
Đến nay, đã xuất 190,7 kg cá giống các loại thu 4.340.000 đồng, số còn lại
dưới ao ước tính còn 10 kg cá các loại, trị giá 1.500.000 đồng. Tổng thu năm 1993
về cá là 5.840.000 đồng, chi phí các khoản là 1.684.000 đồng còn lãi 4.156.000
đồng. Số cá trên chủ yếu bán tại nhà, khi xuất cá các gia đình trong và ngoài xã đến
mua, nhiều gia đình mua chịu, ông vẫn xuất (hiện nay còn trên 1.000.000 đồng xã
viên nợ tiền cá).
Kết quả thu được nh vậy vì nhà có mua máy bơm nước chủ động tát và làm
kỹ thuật ươm nuôi tỷ lệ sống cao và nuôi nhiều lợn để có nguồn phân bón nuôi cá.
Thức ăn chăn nuôi cá chủ yếu là bột gạo ủ men, cám, phân lợn, ngoài ta còn có bèo

hoa dâu, bèo tấm, cám gây men.
Khi nông dân đến mua, ông đều hướng dẫn và hỏi thăm về ao của họ, nhiều
gia đình áp dụng phương thức chăn nuôi cá của ông đã có hiệu quả. Nhiều gia đình
trước đây ao bá hoang đến nay đã có cá bán được từ 200.000 đến 1.000.000 đồng.
Về chăn nuôi lợn, hàng năm ông nuôi từ 10 - 15 con. Nhà có 2 chuồng, một
chuồng bên ao để lấy phân nuôi cá, một chuồng xây thành 2 ngăn nuôi lợn nái và
lợn thịt, lấy phân bón lúa. Xuất chuồng năm 1993 được 685 kg lợn hơi. Hiện còn 5
con trong đó có 1 lợn nái, 4 lợn thịt mỗi con khoảng 60 kg. Ông thường nuôi kế lứa
mỗi lứa 3 - 5 con. Thức ăn hàng ngày cho lợn chủ yếu là cám + bột gạo ủ men + rau
xanh. Kết hợp cá biển, chượp mắm. Tổng thu 6 triệu trừ chi phí 4 triệu còn lãi 2
triệu. Ngoài ra còn nuôi vịt đẻ và hàng trăm con gà lớn nhỏ, ước tính trừ chi phí, thu
lãi mỗi năm 1 triệu đồng.
Nhà ông có 0,7 sào vườn trồng cam, vải thiều, chuối tiêu, chuối tây thu hàng
năm được 1 triệu đồng.
Từ các nguồn thu mấy năm gần đây, gia đình ông mua được 1 máy nổ 15 mã
lực, 1 bộ máy bơm nước để tát ao nuôi cá bột, người ra còn tát ao phục vụ xã viên
trong xã và bơm nước tưới cho lúa và mạ, với giá trị là 4,4 triệu đồng. Gia đình mua
25

×