Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.51 KB, 65 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa một luận điểm cơ bản chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định được thể hiện
trong văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng là "Tiếp tục sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh vững bước đi lên xã hội chủ nghĩa". Để
hoàn thành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa tiến tới một xã hội phát triển vững mạnh, toàn diện thì chúng ta không thể
không quan tâm đến nhân tố con người, vì con người được khẳng định, vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp phát triển. Tư tưởng "đặt con người
vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước" trở thành quan điểm
chỉ đạo định hướng xã hội phát triển vững bền. Trong nguồn nhân lực con
người thì trí thức là nguồn nhân lực cao, trực tiếp thực hiện công cuộc đổi mới
và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi nói đến vị trí vai
trò của trí thức thì không thể không nghiên cứu vị trí, vai trò của trí thức nữ
thành giáo dục đào tạo, bởi vì họ chính là một bộ phận của đội ngũ trí thức nói
chung và là một bộ phận của đội ngũ trí thức nói riêng.
Như chúng ta đều biết, từ xưa đến nay người phụ nữ Việt Nam luôn là
trung tâm, là linh hồn chủ đạo của gia đình và xã hội, đặc biệt họ có vai trò vô
cùng quan trọng trong công cuộc cách mạng XHCN. Trong xã hội trước phụ
nữ là trí thức rất hiếm nến không muốn nói là không có. Nhưng ở thời đại
ngày nay, nước ta đã xuất hiện đội ngũ cán bộ giáo viên nữ trong ngành giáo
dục đào tạo và họ chiếm số lượng lớn. Đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục đào
tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay. Một triết gia đã từng nói rằng:
1
Giáo dục một người đàn ông thì được một con người.
Giáo dục một người đàn bà thì được một gia đình.
Giáo dục một người thầy thì được cả xã hội.
Điều đó chứng tỏ rằng đội ngũ cán bộ giáo viên nữ ngành giáo dục -


đào tạo họ có vai trò hết sức đặc biệt - vai trò kép. Họ không chỉ là nguồn
nhân lực quan trọng của đất nước mà còn là trung tâm, là linh hồn chủ đạo của
gia đình. Họ giữ vai trò tổ chức cuộc sống, điều hòa mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình hòa thuận, ấm no, hạnh phúc. Đối với con cái người
phụ nữ là người thầy chỉ bảo dìu dắt trẻ nhỏ hình thành nhân cách từ những
ngày đầu chập chữ. Vĩ nhân cũng từ người phụ nữ mà ra, anh hùng cũng từ
người phụ nữ mà hình thành. Bởi vậy, "không có mặt trời hoa hồng không nở.
Không có người mẹ không có anh hùng" hay "trên thế giới có rất nhiều kỳ
quan nhưng kỳ quan tuyệt xảo nhất là trái tim của người mẹ"…
Không những thế cùng với nam giới, người trí thức nữ mà ngành giáo
dục đào tạo còn tham gia hầu hết các lĩnh vực hoạt động xã hội. Ở bất kỳ lĩnh
vực nào họ cũng tham gia tích cực và có những đóng góp vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên sự đóng góp của người phụ nữ ngành giáo dục đào tạo vẫn chưa
được quan tâm một cách đầy đủ nên số lượng còn ít và chất lượng chưa cao.
Thực tế cho thấy họ thật sự chưa có điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ
chuyên môn và trình độ nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Vì vậy, thực hiện xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ thì việc nghiên
cứu thực trạng của đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo là hết sức cần
thiết, nó cung cấp cho chúng ta thực tế vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp
đổi mới và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Cũng
từ đó để xác định một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vị trí, vai trò của họ
2
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thắng lợi thì nó sẽ góp phần thúc đẩy xây dựng phát triển tiến tới
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Với tất cả những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: "Đội ngũ trí thức nữ
ngành giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Hy vọng đề tài
này sẽ góp thêm một góc nhìn khiêm tốn đối với những con người rất đáng

trân trọng này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Dưới góc độ chính trị xã hội, khóa luận đi vào nghiên cứu một bộ phận
trong đội ngũ trí thức với tư cách là: một lực lượng chính trị xã hội; một bộ
phận của lực lượng lao động đồng thời là những người góp phần to lớn vào
việc đào tạo nguồn nhân lực.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên khóa luận cần tập trung giải quyết những
vấn đề như:
- Khái niệm trí thức, trí thức nữ, trí thức ngành giáo dục đào tạo.
- Vị trí vai trò của trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Thực trạng về vị trí, vao trò của nữ cán bộ giáo viên ở nước ta hiện
nay.
- Những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra đối với nữ
cán bộ giáo viên.
3
- Một số giải pháp chủ yếu nhằm giúp phụ nữ trí thức nữ ngành giáo
dục - đào tạo phát huy tốt vai trò của mình đối với công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề vị trí vai trò của đội ngũ trí thức và trí thức nữ đến nay đã có rất
nhiều đề tài nghiên cứu như:
- Phạm Tất dong: Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng (Nxb Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 1995).
- Phụ nữ Việt Nam và khoa học - Trung tâm nghiên cứu Đại học Quốc
gia Hà Nội.
- Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI - Hội liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam.

Riêng đối với vấn đề "Đội ngũ trí thức ngành giáo dục và đào tạo trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay" thì mới có một số
bài nghiên cứu như:
- Nguyễn Thị Mai Hồng: Suy nghĩ về đội ngũ trí thức nữ Đại học Sư
phạm Hà Nội trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay - vai trò, thực trạng và xu hướng phát triển (Tạp chí khoa học, số
56/2001).
- Đào Tố Uyên: Từ thực trạng đội ngũ giảng viên ở trường Đại học Sư
phạm Hà Nội suy nghĩ về việc đào tạo chuyên gia khoa học nữ ở thế kỉ XXI
(Trung tâm nghiên cứu phụ nữ Đại học Quốc gia Hà Nội).
Do có những điểm tương đồng cho nên người viết khóa luận cần thiết
phải tham khảo và sử dụng tài liệu này để bổ sung cho bài viết của mình co
kết quả hơn.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu vai trò của đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục
đào tạo trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phụ nữ ngành giáo dục đào tạo trên toàn quốc
trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận được nghiên cứu thực hiện trên cơ sở lsy luận và phương
pháp luận là quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Leenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận trực tiếp.
- Dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề
trí thức và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tra cứu, khảo cứu, phân tích những số liệu thống kê, tham khảo tài
liệu, các công trình nghiên cứu trước.
6. Ý nghĩ của khóa luận
a. Ý nghĩa lý luận

Góp một phần vào việc nghiên cứu vai trò của đội ngũ trí thức nữ ngành
giáo dục đào tạo nói chung.
Nâng cao nhận thức cho bản thân trong hoạt động thực tiễn sau này.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Đưa ra thực trạng và luận giải pháp chủ yếu để họ phát huy tốt vai trò
của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đó phục vụ tốt cho
công việc chuyên môn.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung chính của
khóa luận được chia làm 3 chương:
5
Chương 1: Vai trò của đội ngũ trí thức ngành Giáo dục và đào tạo trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng cơ cấu và chất lượng đội ngũ trí thức ngành giáo
dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NGÀNH GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của trí
thức, trí thức nữ
Lịch sử xã hội phát triển cùng với sự phát triển của các trí thức mà con
người đã tích lũy được trong quá trình lao động và đấu tranh. Sự phát triển
của trí thức đã góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, từng bước giải phóng con

người khỏi sự lệ thuộc vào tự nhiên cũng như sự chi phối của các lực lượng xã
hội. Trí thức làm cho con người trở nên tự do, tích cực và có khả năng làm chủ
tự nhiên, cải tạo tự nhiên, biến đbieensh để phục vụ cho lợi ích của con người.
Trong quá trình phát triển của xã hội, tầng lớp trí thức có một vị trí rất quan
trọng. Đội ngũ trí thức đã có đóng góp to lớn trong lĩnh vực sáng tạo của cải
vật chất và tinh thần, góp phần làm biến đổi thế giới, xây dựng và phát triển
nền văn minh nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Leenin đánh giá rất cao vai trò của trí thức trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi áp
bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, khẳng định vai trò không thể thiếu được của
trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
V.I. Leenin là một trong những lãnh tụ vĩ đại của phong trào Cộng sản
quố tế đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của trí thức trong công cuộc
xây dựng trên cơ sở nền khoa học kĩ thuật hiện đại, hơn nữa việc tổ chức và
7
quản lý xã hội theo một phương thức mới cũng đòi hỏi không chỉ nhiệt tình
cách mạng mà còn có tri thức khoa học. Như vậy để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội nhất thiết phải có đội ngũ trí thức cách mạng.
Từ việc khẳng định tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Leenin đã chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức từ giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cải tạo tầng lớp trí thức cũ theo
hướng xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng một đội ngũ trí thức mới thì Lênin đã
chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục mở rộng nhiều loại hình đào tạo
nhằm vừa nâng cao trình độ học vấn và giáo dục mở rộng nhiều loại hình đào
tạo nhằm vừa nâng cao trình độ học vấn và trình độ văn hóa cho tất cả những
người lao động, vừa nhanh chóng hình thành một đội ngũ trí thức mới đủ sức
đáp ứng những yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với đội
ngũ trí thức mà tầng lớp trí thức đã có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó là một trong ba bộ phận hợp thành của

khối liên minh trí thức để giải phóng dân tộc. Mặt khác đội ngũ trí thức đã
ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm và có nhiều chính sách quy định
quyền lợi và nghĩa vụ của trí thức. Do đó đội ngũ trí thức tăng lên về số lượng
và mạnh lên về chất lượng. Nói cách khác là vị trí, vai trò của trí thức ngày
càng được xây dựng quan tâm đánh giá cao.
Do vị trí, vai trò của trí thức đã được quan tâm và phát triển nên thành
phần của đội ngũ trí thức cũng thêm đa dạng, không chỉ có trí thức là nam giới
mà có cả trí thức là nữ giới. Trong cm xã hội chủ nghĩa phụ nữ đóng vai trò vô
cùng quan trọng, họ cũng như nam giới có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa ch. Để hoạt động của họ mang lại kết quả cao thì phải dạy cho
họ kiến thức, giáo dục trình độ chuyên môn cho họ, nâng cao trình độ nhận
8
thức, trình độ học vấn cho họ thì mới phát huy tiềm năng vốn có của đội ngũ
phụ nữ. Vì vậy mà ngay từ thời Mác - AWnghen còn sống, các ông luôn vận
động và hướng cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội
và chỉ khi có trình độ học càng nhiều vào các hoạt động xã hội và chỉ khi có
trình độ học vấn thì họ mới có khả năng làm tốt công việc của xã hội.
Để phụ nữ có vị trí, vai trò đặc biệt trong gia đình và trong xã hội, nhất
là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thì trước hết giải phóng phụ nữ về mặt
gánh nặng gia đình để họ có điều kiện tham gia vào các hoạt động xã hội. Mặt
khác phải thực hiện được chính sách bình đẳng nam - nữ để họ thoát khỏi tư
tưởng trọng nam khinh nữ từ bao đời nay. Ănghen cho rằng: "Chừng nào mà
phữ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất xã hội và còn bị bó hẹp
trong công việc riêng từ gia đình thì chừng đó phụ nữ chưa thể giải phóng và
cũng chưa thể hiện có sự bình đẳng giữa nam và nữ" [19; 58].
Vị trí vai trò của phụ nữ đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn cm xã hội
chủ nghĩa. Lênin đã khẳng định rằng: "Nếu một phần lớn phụ nữ lao động không
tham gia một cách tích cực thì không thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa được"
[16; 22]. Lênin đã nhận thấy vai trò to lớn của phụ nữ đối với sự nghiệp cm xã
hội chủ nghĩa nhờ tính chắc chắn và sự giác ngộ của mình.

Muốn phát huy được vị trí, vai trò của mình thì đòi hỏi người phụ nữ
phải có tri thức, vì tri thức rất quan trọng cho sự phát triển xã hội, tham gia
hoạt động trong xã hội thì tri thức không thể thiếu được.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, cả thế giới đã
đang và sẽ bước vào xây dựng nền kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức có chủ thể
là người lao động trí thức. Sáng tạo khoa học kĩ thuật trở thành động lực tăng
trưởng kinh tế. Người có năng lực sáng tạo trở thành tài sản quý giá nhất. Do
đó người trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, đặc biệt là đội ngũ trí thức
9
nữ ngành giáo dục đào tạo càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết vì họ là
những người trực tiếp đào tạo ra những con người có tri thức, có khả năng
sáng tạo ra của cải vật chất làm giàu cho xã hội. Thực tế cho thấy trí thức nữ
nói chung và trí thức nữ ngành giáo dục nói riêng đã và đang là động lực của
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Như vậy, những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập
đến vai trò của đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo một cách trực tiếp
mà mới đề cập đến vai trò của trí thức, trí thức nữ và vai trò của người phụ nữ
nói chung. Tư tưởng giải phóng người phụ nữ là tư tưởng cốt lõi là thước đo
đánh giá sự phát triển của xã hội. Những quan điểm của các ông chính là cơ
sở, là tiền đề để chúng ta nghiên cứu vị trí vai trò của đội ngũ trí thức nữ
ngành giáo dục đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa.
1. 1. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về, vị trí vai trò
của đội ngũ trí thức nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một thiên tài, một nhân cách văn hóa lớn.
Người rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng trí thức cho đất nước. Người
viết: “Vì lợi ích 10 năm phải trồng cây. Vì lợi trăm năm phải trồng người”. Hồ
Chí Minh hiểu rất rõ rằng: Tri thức không chỉ là sản phẩm, là kết quả của sự
tiến bộ xã hội, tri thức con là động lực vô cùng to lớn góp phần thúc đẩy tiến
bộ xã hội.
Dân tộc Việt Nam rất coi trọng tri thức. Từ lâu ông cha ta đã coi việc

đào tạo và bồi dưỡng gắn bó với sử dụng nhân tài và đó là việc quan trọng đầu
tiên phải làm vì nó quyết định sự tồn vong hưng thịnh của một giang sơn xã
tắc. Vì, “hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước
mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy”. Vậy nên, các đấng
10
thánh đế, minh vương không ai không coi trọng việc bồi dưỡng nhân tài, tin
dùng kẻ sĩ, vun đắp nguyên khí là việc nên làm trước tiên.
Truyền thống coi trọng trí thức được thừa kế từ đời này sang đời khác,
từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó là một nét đẹp của truyền thống văn hóa
Việt Nam, bởi lẽ trí thức Việt Nam đã góp phần xứng đáng sức lực, trí tuệ và
tính mạng vào cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, trí thức Việt Nam đã góp phần đắc lực vào việc phát
triển khoa học quân sự, chế tạo, cải tiến vũ khí cũng như phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội… trong sự nghiệp xây dựng đất nước trí thức Việt Nam thật sự
là thành viên không thể thiếu được. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Kiến thiết cần
có nhân tài” cần có tri thức, những nhà khoa học, kĩ thuật giỏi, những nhà văn,
nghệ sĩ có tài để phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng
suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
Rõ ràng là bất luận trong hoàn cảnh chiến tranh hay hòa bình đều cần
đến các chuyên gia – những nhà trí thức. Sự liên minh chặt chẽ giữa trí thức
với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã góp phần to lớn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, trở thành nền tảng của cách
mạng Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi tri thức là một
“động lực” của cách mạng. Trong các văn kiện đầu tiên của Đảng ta đã đặt
vần đề: phải hết sức liên lạc với trí thức lôi kéo về hàng ngũ của giai cấp công
nhân và giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động tiến hành cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo, đảng luôn coi trọng việc giác
ngộ trí thức, khởi động ở họ tinh thần yêu nước và tiềm năng cách mạng, giáo
dục lý tưởng cách mạng, tập hợp họ vào hàng ngũ cách mạng, làm cho họ thực

sự là “ động lực” quan trọng của cách mạng.
11
Như vậy trong cách mạng giải phóng dân tộc Đảng Cộng Sản Việt Nam
và Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò cách mạng của đội ngũ trí thức. Vì vậy
mà đã phát huy được sức mạnh to lớn của trí thức trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Trong cơ cấu của đội ngũ trí thức, nếu xét theo cơ cấu về giới thì nữ trí
thức cũng như nam trí thức đều có vị trí và vai trò rất quan trọng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trí thức nữ thì không dễ dàng có ngay địa vị và
vai trò của mình như nam giới. Phụ nữ phấn đấu để trở thành trí thức và có địa
vị, vai trò như nam giới là cả quá trình đầy khó khăn vất vả, nó là kết quả của
sự nỗ lực lớn lao. Bởi vì phụ nữ trên thế giới cũng như phụ nữ Việt Nam, họ
luôn là người chịu nhiều khổ cực và bất công, họ bị áp bức bóc lột và bị đánh
đập tàn nhẫn bởi bọn thực dân phong kiến.
Chúng ta cũng thấy rằng, chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm khi đấu tranh
cho quyền độc lập của dân tộc đã đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc
của người phụ nữ các nước thuộc địa. Vì Người cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ
nhục” của phụ nữ mà Người đã ý thức hơn về vai trò, vị trí người phụ nữ.
Người cho rằng phụ nữ chính là một nửa thành công của cách mạng. Nên
trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (viết năm 1927) Người đã khẳng định: “
Việt Nam cách mệnh phải có nữ giới tham gia mới thành công, mà nữ giới
muốn cách mệnh thì phải theo quốc tế chỉ bảo”.
Từ chỗ thấu hiểu và đánh giá đúng vị trí, vai trò to lớn của người phụ
nữ mà Người đã quan niệm về giải phóng phụ nữ, đó là phải giải thoát họ khỏi
ách nô lệ, khỏi chế độ thực dân phong kiến trong thời kì cách mạng dân tộc,
dân chủ mà còn xóa bỏ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” từ gia đình ra xã hội, là
tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát huy tài năng sức lực của mình và phát
triển đất nước.
12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “trọng nam khinh nữ” là thói

quen mấy nghìn năm để lại vì thế nó ăn sâu vào đầu óc mọi người, mọi gia
đình, mọi tầng lớp. Bởi vậy cuộc đấu tranh chống phân biệt đối xử với phụ nữ
là một cuộc đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn để xóa bỏ được những tư
tưởng lạc hậu, bảo thủ còn tồn tại dai dẳng trong xã hội ta.
Xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ chính là giải phóng cho người phụ
nữ khỏi tư tưởng tự ti, rụt rè, không tin tưởng ở khả năng của mình, không
giám đấu tranh cho quyền lợi của mình. Giành quyền bình đẳng chống phân
biệt đối xử với phụ nữ không thể trông chờ ai làm hộ chính mình mà chính chị
em phụ nữ phải vươn lên tự giải phóng. Phụ nữ phải đấu tranh tự cường, tự lập
để giữ quyền lợi của mình.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ là mục tiêu của phụ nữ Việt
Nam, nhưng lực lượng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó trước hết là người phụ
nữ. Thực tế gần 60 năm qua chứng minh, khi tư tưởng, tình cảm của người
phụ nữ được thức tỉnh, họ sẽ không còn thụ động, tiêu cực mà giám nghĩ,
giám nói, giám làm, phát huy tài năng sáng tạo của mình đóng góp cho xã hội.
Sự giác ngộ cách mạng tự ý thức về thân phận nô lệ và địa vị thấp kém họ còn
gánh chịu là những yếu tố cơ bản kích thích họ đứng lên làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân mình.
Hồ Chí Minh đã nói: về phần mình chị em phụ nữ không nên ngồi chờ
Đảng và chính phủ ra chỉ thị giải phóng cho mình mà phải tự mình, phải tự
cường, phải đấu tranh.
Thực tế cho thấy chỉ khi phụ nữ đã hoàn toàn được giải phóng thì đội
ngũ trí thức nữ mới phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do tư tưởng trọng
nam khinh nữ của thời kì phong kiến mà đội ngũ trí thức nữ không được hình
thành và phát triển. Trong suốt 10 thế kỉ, nếu tính từ khoa thi đầu tiên của
13
triều Lí ( năm 1075) đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn ( năm 1919), các
triều đại phong kiến nước ta đã tuyển chọn được 2. 898 hiền tài. Nhưng trong
số đó lại không có một phụ nữ nào mà hiền tài lại toàn là nam giới. Đặc biệt ở
thế kỉ 16 có bà Nguyễn Thị Duệ đã giả trai thi đỗ tiến sĩ, nhưng sau khi bị phát

hiện đã bị tước bỏ học vị. Đó là mặt hạn chế của thời kì phong kiến, nó làm
cho phụ nữ không thể phát huy được vị trí, vai trò của mình. Nó làm mất đi
tính năng động, trí sáng tạo vốn có của người phụ nữ Việt Nam.
Đến thời kì Pháp thuộc cùng với chính sách khai thác thuộc địa, chính
sách chia để trị, thực dân Pháp đã thi hành chính sách ngu dân, kìm hãm sự
phát triển của dân tộc ta để dễ bề thống trị, áp bức. Tuyệt đại bộ phận dân ta
mù chữ, đặc biệt là đối với phụ nữ có tới 97% mù chữ. Thực dân Pháp chỉ tạo
ra một số trí thức và viên chức ít ỏi phục vụ cho bộ máy cai trị của chúng mà
thôi.
Từ khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất thì đội
ngũ trí thức nước ta không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt và có
những đống góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng XHCN. Trước thời kì đổi
mới cả nước có 400 000 người trí thức thì đến nay đã có 930 000 người trí
thức trong số đó có 120 000 người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ, chiếm tỉ lệ
12%, ở các viện nghiên cứu, các trường đại học, tỉ lệ này là 14%, nhưng trong
những con số đó thì trí thức nữ vẫn còn quá ít.
Tính đến năm 1992 nước ta có 239. 375 nữ tốt nghiệp đại học và cao
đẳng ( chiếm 33% số người tốt nghiệp), trong đó có 754 phó tiến sĩ, 23 tiến sĩ,
119 phó giáo sư công tác hầu hết trong các ngành giáo dục, y tế. Đến 1996 cả
nước có 28 nữ là giáo sư, 28 nữ tiến sĩ, 1026 nữ là phó tiến sĩ và 342. 000 nữ
có trình độ đại học, cao đẳng.
14
Như vậy chỉ trong vòng 4 năm từ năm 1992 đến năm 1996, đội ngũ trí
thức nữ đã tăng lên khá nhanh. Số lượng tốt nghiệp đại học và cao đẳng tăng
102. 625 người. Năm 1992 vẫn chưa có nữ giáo sư, đến năm 1996 đã có 28 nữ
giáo sư, nữ phó giáo sư tăng 90 người, nữ tiến sĩ tăng năm người, nữ phó tiến
sĩ tăng 273 người tạo nên một đội ngũ khá đông đảo trong giới nữ, sự tăng lên
của trí thức trong đó có trí thức nữ đã góp phần rất to lớn trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ta hiện nay.
Đội ngũ trí thức nữ nước ta ngày một tăng lên về số lượng, lớn lên về

chất lượng, đã thể hiện chính sách của Đảng và nhà nước ta là rất đúng đắn
trong vấn đề giải phóng phụ nữ. Vấn đề phụ nữ đã được đưa vào Hiến pháp
năm 1946, 1960, 1986 và 1992 của nước Việt Nam với những điều khoản cụ
thể tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho mọi quyền và nghĩa vụ hoạt động của phụ
nữ trên mọi lĩnh vực. Nó còn được đưa vào các bộ luật, các luật như bộ luật
hình sự (năm 1986), Bộ luật dân sự (năm 1994), luật hôn nhân và gia đình
( năm 1996), luật lao động (năm 1994)…Đã có nhiều điều khoản quy định các
quyền và bảo vệ quyền lao động, quyền sống, quyền hạnh phúc của phụ nữ
trong cộng đồng.
Nhờ đó mà phụ nữ có điều kiện để khẳng định mình, để lấy lại địa vị
của mình trong gia đình và trong xã hội đã bao đời nay bị mất. Đặc biệt là
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay vị trí vai trò
của người trí thức nữ nói chung và trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo nói
riêng hết sức to lớn, nó thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong những năm đổi mới đất nước trí thức nữ Việt Nam, đặc biệt là nữ
cán bộ giáo viên ngành giáo dục đào tạo tuy có nhiều cơ hội để phát triển
nhưng cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách. Nhưng được sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, hơn nữa lại kế thừa truyền thống yêu nước,
15
anh hùng, bất khuất, trung hậu đảm đang, truyền thống cần cù lao động, trí
thông minh sáng tạo của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử mà đội ngũ trí thức
nói chung và trí thức nữ ngành giáo dục nước ta hiện nay đã vươn lên vượt
qua khó khăn, thử thách góp phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước. Cũng qua đó mà họ khẳng định được vị thế vai trò của
mình đối với sự phát triển của xã hội.
Trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo là một bộ phận của đội ngũ trí thức
cả nước đang hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, họ chiếm một tỉ lệ
không nhỏ trong tổng số trí thức nữ nói chung. Cùng với sự phát triển của đất
nước họ đã vươn lên cả về số lượng và chất lượng.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa hoạc – công nghệ đang diễn ra nhanh

chóng, có tác động mạnh mẽ và toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặt ra yêu cầu rất cao đối với sự phát triển của khoa học công nghệ giáo
dục và đào tạo, cũng như với đội ngũ trí thức nhà giáo nói chung, trí thức nữ
ngành giáo dục đào tạo nói riêng.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi “giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu” là khâu đột phá để bước vào thời kì mới.
Trong sự nghiệp chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nước, đội
ngũ trí thức ngành giáo dục đào tạo đã phát triển mạnh mẽ về số lượng, có
chuyển biến tích cực về chất lượng. Song, trước yêu cầu ngày càng cao về
chất lượng nguồn nhân lực cho thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, cũng như sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ của thế kỉ
XXI, thì trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo đã, đang và sẽ phát huy hơn nữa
những tiềm năng to lớn của mình về cả số lượng và chất lượng mới có thể đáp
ứng những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn.
16
Như vậy trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay, trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo đang là trung tâm của sự phát triển. Vì
vậy mà việc nghiên cứu, tìm hiểu và quan tâm hơn nữa đến vị trí, vai trò của
đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo là hết sức cần thiết. Để trên cơ sở
đó chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp với trí thức nữ ngành giáo
dục đào tạo để tạo điều kiện cho họ vươn lên đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
tri thức thế kỉ XXI.
1. 1. 3. Các khái niệm về trí thức, trí thức nữ, trí thức nữ ngành giáo dục
đào tạo
a. Trí thức
Khái niệm “trí thức” được dùng ở nhiều nước trên thế giới và có nguồn
gốc từ tiếng Latinh: Intelligentina (intelligentina) có nghĩa là thông minh, có
trí tuệ, có hiểu biết, có suy nghĩ). Khái niệm này trở nên thông dụng từ những
năm nửa sau thế kỉ XIX, để chỉ người có học thức học vấn cao chuyên lao
động trí óc. Tuy nhiên từng giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của nhân loại,

của mỗi quốc gia và dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, mà có nhiều
định nghĩa khác nhau về trí thức. Trong cuốn từ điển triết học đã giải thích
“Trí thức là tập đoàn xã hội gồm những người lao động trí óc. Giới trí thức
bao gồm: kĩ sư, kĩ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, thầy giáo và là người làm
công tác khoa học và là một bộ phận viên chức”. [37; 15]. Lênin khi nói về trí
thức, đại diện người đã khái quát: “ Trí thức là tất cả những người có học thức
đại diện cho những người tự do nói chung, đại diện cho những người lao động
trí óc khác với lao động chân tay”[15; ]
Nhìn chung trong nhiều định nghĩa cho thấy trí thức có một số đặc
trưng cơ bản sau: là một tầng lớp xã hội, lao động trí óc phức tạp, có học vấn
17
và chuyên môn cao, tạo ra những tri thức tuyên truyền và ứng dụng khoa học
thúc đẩy nhanh sự phát triển của xã hội.
Trí thức là người lao động trí óc, nhưng không phải người lao động trí
óc nào cũng đều là trí thức. Bởi vì, lao động trí óc là khái niệm bao gồm tất cả
các mức độ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Những người lao động trí óc
giản đơn mang tính chất thừa hành, chưa phải là trí thức. Chỉ những người nào
lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn cao, cần thiết cho
lĩnh vực lao động ấy, mới có khả năng trở thành trí thức. Nhưng trình độ học
vấn mới là điều kiện cần chứ chưa đủ để trở thành trí thức. Vì có nhiều người
có trình độ học vấn cao đẳng, đại học hoặc cao hơn nữa nhưng vì nhiều lí do
nào đó họ lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp. Vì vậy muốn trở
thành trí thức còn phải có một điều kiện nữa có ý nghĩa quyết định đó là lao
động sáng tạo.
Lao động sáng tạo của trí thức sẽ đưa lại nội dung khoa học mới, tiến
bộ, hữu ích, truyền đạt lại nó trong xã hội và ứng dụng vào thực tiễn để nâng
cao chất lượng hoạt động xã hội tương ứng. Lao động sáng tạo của trí thức
còn có khả năng phức tạp của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa. Đặc trưng
lao động sáng tạo ấy của trí thức là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt tầng
lớp này với các nhóm xã hội khác.

Những người lao động trong nhóm xã hội “ viên chức” có không ít
người có trình độ học vấn cao đẳng, đại học, sau đại học. Nếu những người có
trình độ học vấn cao ấy chỉ dùng những trí thức khoa học của mình nhằm làm
tốt hơn nhiệm vụ hành chính mang tính chất thừa hành, thì họ hoàn toàn nằm
trong nhóm xã hội viên chức. Nhưng nếu trong số họ, ngoài công việc viên
chức của mình ra, còn tham gia lao động sáng tạo ( nghiên cứu khoa học,
giảng dạy, tổng kết lí luận, nghiên cứu ứng dụng khoa học) thì đó chính là
18
biểu hiện của xu hướng “viên chức trí hóa” là sự xích lại gần nhau giữa các bộ
phận lao động trong xã hội hiện đại.
Trên thực tế, có một số người không có bằng cấp cao, nhưng nhờ vào
chịu khó học hỏi trong sách báo, trong thực tiễn lao động, có thông minh và
tài năng đặc biệt, nên đã có những phát minh khoa học, những tác phẩm văn
học nghệ thuật có giá trị lớn. Những người đó xứng đáng là những trí thức
thực thụ.
b. Trí thức nữ
Trí thức nữ là thành phần trong đội ngũ trí thức. Bản chất hoạt động lao
động của trí thức nữ cũng là bản chất của hoạt động lao động trí thức: lao
động trí tuệ, lao động sáng tạo. Trí thức nữ là đội ngũ những người làm công
tác văn hóa, nghệ thuật, khoa học, quản lí, giảng day. Cũng như nam trí thức
họ phải làm tốt trách nhiệm, nghĩa vụ và hưởng quyền lợi của một cán bộ nhà
nước.
c. Trí thức nữ trong ngành giáo dục đào tạo
Là một bộ phận trong đội ngũ trí thức nữ nói chung và là một bộ phận
trong đội ngũ trí thức trong ngành giáo dục, đào tạo nói riêng, gọi là nhà giáo.
Họ là những người làm nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, quản lí, lãnh
đạo trong nhà trường hoặc trong các cơ sở giáo dục khác.
Họ là những người có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt, đạt trình độ
chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp; lí lịch bản thân rõ ràng… Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non,

giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục
đại học và sau đại học gọi là giảng viên, giáo sư, phó giáo sư là các chức danh
của nhà giáo đang giảng dạy, đào tạo đại học và sau đại học. [14;]
19
Trước cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, sự có mặt của phụ nữ trong
giới trí thức là rất hiếm. Chỉ có một số chị em hoạt động trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hóa với số lượng không nhiều. Nhờ có công cuộc giải
phóng phụ nữ và chính sách nam nữ bình đẳng đã đem lại một số nét mới
trong cơ cấu đội ngũ trí thức. Đó là sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng
cán bộ nghiên cứu nữ, học sinh sinh viên và cán bộ giảng dạy, giáo viên nữ
trong các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và phổ thông. Theo số liệu thống kê, tính đến nay trí thức nữ ngành
giáo dục đào tạo chiếm 70% toàn bộ giáo viên trong ngành. Điều đó nói lên
một phần năng lực của chị em, một phần thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước để đảm bảo quyền bình đẳng nam – nữ trong phân công lao động xã
hội. Nhưng con số đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của đội ngũ
nữ giáo viên ngành giáo dục đào tạo, họ vẫn còn nhiều mặt hạn chế chưa phát
huy hết khả năng của mình.
Từ những khái niệm nêu trên ta thấy rằng trí thức nữ ngành giáo dục
đào tạo là một bộ phận của trí thức nữ nói chung và là một bộ phận quan trọng
của đội ngũ trí thức nữ nói riêng. Do vậy trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo có
mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với đội ngũ trí thức và trí thức nữ.
Họ đều là những người lao động trí óc phức tạp và sản phẩm họ làm ra mang
tính sáng tạo.
1. 2. VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NỮ NGÀNH GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẤT NƯỚC
Phụ nữ ngành giáo dục đào tạo là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam
với lao động mang nét đặc thù của một nghề nghiệp mà xã hội tôn vinh từ bao
đời nay với tên gọi quen thuộc là “nhà giáo”, bản thân tên gọi đã mang dấu ấn

20
về giới. Không phải chỉ ở nước ta mà ngay cả thế giới cũng rất coi trọng nghề
giáo. Ở nước ta với truyền thống “tôn sư trọng đạo” thì người thầy có vai trò
quan trọng và được tôn thờ, nó là một truyền thống văn hóa đẹp đẽ của người
Việt Nam, những câu châm ngôn nổi tiếng như: “Muốn sang thì bắc cầu kiều,
muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự
vi sư, bán tự vi sư”, “Muốn làm thầy hay phải dạy sự học”, “học mười dạy
một”, “Xem lũ trò hay biết thầy dạy giỏi”, “thầy nào trò nấy” đã nói lên điều
đó. Từ đó chúng ta dễ dàng nhận thấy người phụ nữ ngành giáo dục có vai trò
hết sức quan trọng.
Với tư cách là một người phụ nữ, mỗi nữ cán bộ giáo viên ngành giáo
dục đào tạo đều gánh trên vai mình hai trọng trách: trọng trách của trí thức
XHCN Việt Nam và trọng trách của người phụ nữ Việt Nam trong gia đình và
xã hội. Với tư cách là một trí thức, cùng với nam giới, họ chính là nguồn nhân
lực mà Đảng và nhà nước đã khẳng định là “động lực” trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, họ cũng là một lực lượng tham
gia vào sự nghiệp “trồng người” mà xã hội đã phong tặng cho cái tên vừa
mang tính hiện tượng, vừa mang tính nghề nghiệp đặc thù và cũng vừa ngọt
ngào, trân trọng: “Người kĩ sư tâm hồn”, là người xây dựng nguồn nhân lực
trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Như vậy có thể nói rằng nữ cán bộ ngành giáo dục đào tạo có vai trò rất
đặc biệt, vai trò kép. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay, vai trò đó được thể hiện như sau:
1. 2. 1. Những yêu cầu đặt ra trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đối với đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục nước ta hiện nay
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đòi hỏi nhiều công sức
đóng góp của toàn xã hội, đòi hỏi cao hơn bao giờ hết tiềm năng, sức sáng tạo,
21
nghị lực của mọi tầng lớp xã hội. Sự tham gia ngày càng nhiều của phụ nữ
trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội và trong công tác lãnh đạo quản lí là

xu thế tất yếu, đồng thời cũng mở ra triển vọng và cơ hội mới để phụ nữ phát
triển tài năng và trí tuệ.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước đòi hỏi người lao
động không chỉ có sức khỏe mà điều quan trọng là cần có tri thức, kĩ năng,
trình độ học vấn, chuyên môn kĩ thuật. Nói cách khác nguồn nhân lực phải có
chất lượng cao. Nguồn nhân lực đó như hội nghị trung ương khóa VIII đã chỉ
ra: “ Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt
đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn
liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại”.
Để làm được việc đó bên cạnh chính sách giáo dục của Nhà nước thì
phải kể đến vai trò của trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang cần có
những chuyên gia giỏi về kinh tế, quản trị, chính trị, giáo dục, văn hóa, y tế,
những nhà quản lí có đầu óc thực tế. Đồng thời còn đông đảo những người lao
động có tay nghề thành thạo, có lương tâm nghề nghiệp có trình độ học vấn và
năng lực để đối phó kịp thời với những biến động trong sản xuất và hoạt động
nghề nghiệp.
Đất nước cũng không thể thiếu được các nhà hoạt động nghệ thuật, văn
nghệ sĩ xuất sắc đáp ứng yêu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân ta, cũng
như cuộc sống nội tâm về tình cảm tư tưởng của họ, bảo toàn và phát triển
những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam.
22
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
người phụ nữ ngành giáo dục đào tạo phải thực hiện tốt vai trò của mình đối
với giáo dục để tạo ra những nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước. Vì giáo
dục là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế và xã hội. Nên
đầu tư cho giáo dục sẽ tích lũy vốn, nhân lực là chìa khóa để duy trì sự tăng
trưởng và nâng cao thu nhập.

Bác Hồ - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc ta, nhà văn hóa lớn của thế
giới, cũng đã khẳng định “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có những con người
xã hội chủ nghĩa”. Đảng ta cũng đã coi việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, cùng với
khoa học và công nghệ, “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Vì rằng “
Giáo dục là động lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội” và
coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Phát triển giáo dục là nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì lẽ đó các nữ giáo viên là lực lượng chủ yếu
gánh vác sự nghiệp giáo dục vẻ vang đó.
Mục tiêu tổng quát của giáo dục đào tạo là nâng cao dân trí, tạo nền
tảng học vấn và trình độ nghề nghiệp tối thiểu cần thiết cho mọi công dân,
đồng thời phải phát triển giáo dục ở các vùng còn khó khăn, tạo điều kiện giúp
con em người dân tộc thiểu số, những gia đình nghèo có điều kiện học tập.
Đó là những yêu cầu chung đối với tất cả các thành viên trong xã hội.
Đối với đội ngũ trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo thì đòi hỏi của công nghiệp
hóa hiện đại hóa là phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và trình
độ nghiệp vụ của mình. Hơn nữa trí thức nữ cũng cần phải có kiến thức lí luận
chính trị cơ bản, cả phẩm chất và năng lực, cả đức và tài. Nói chung phải là
những con người phát triển, vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
23
Thực tế cho thấy đội ngũ nữ cán bộ giáo viên còn rất hạn chế, chưa phát
huy được vai trò, sức mạnh của mình. Để theo kịp với sự phát triển của khu
vực và các nước trên thế giới thì phụ nữ phải không ngừng nâng cao trình độ
học vấn của mình để tham gia vào các ngành nghề có khoa học kĩ thuật hiện
đại. Đồng thời phải không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, giác
ngộ chính trị đối với Đảng và Nhà nước. Vì như thế mới có thể tuyên truyền
chủ trương chính sách của Đảng vào toàn dân một cách đúng đắn và khoa học.
Chỉ khi trí thức nữ ngành giáo dục – đào tạo có trình độ chính trị và học
vấn được nâng cao thì họ mới trở thành nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện sự

nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần phải phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà trong sự nghiệp giáo dục thì đội
ngũ trí thức nữ góp phần chủ yếu để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Muốn đạt kết quả cao trong giáo dục thì phải tiếp tục thực
hiện các chủ trương đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đào tạo, củng cố các
trường công, chuyển một số sang trường bán công, tiếp tục đầu tư xây dựng hệ
thống trung tâm chất lượng cao và xây dựng các trường chuyên lớp chọn, có
chính sách mở các trường dân lập, trường dạy nghề, tiếp tục mở các trung tâm
đào tạo, các trường đại học để đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Khuyến khích các
hình thức tự học, học tại chức song phải đảm bảo chất lượng. Mở rộng dạy và
học ngoại ngữ, tin học, hạn chế tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giữa chừng – có
biện pháp hữu hiệu để củng cố nâng chất lượng giáo dục trong vùng đồng bào
dân tộc.
Bên cạnh đó cũng cần tăng cường xây dựng cơ sở vật chất trường lớp,
trang thiết bị phụ cho dạy và học. Củng cố xây dựng đội ngũ thầy cô giáo, bồi
24
dưỡng nâng cao kiến thức trình độ chuyên môn, khả năng hướng dẫn thực
hành và phẩm chất đạo đức người giáo viên. Đảm bảo đủ số lượng và chất
lượng thầy cô giáo ở mỗi cấp học. Có chính sách khuyến khích các thầy cô
giáo đến công tác ở vùng sâu, vùng xa và các địa bàn khó khăn.
Thực hiện chủ trương trên, trí thức các nhà giáo mới đưa sự nghiệp giáo
dục phát triển, mới có thể góp phần chủ yếu vào đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy do đội ngũ nam trí thức ngành giáo dục phát triển sớm
nhưng lại có số lượng ít hơn đội ngũ giáo viên nữ. Vì vậy phụ nữ nói chung và
phụ nữ trí thức ngành giáo dục - đào tạo nói riêng là phải không ngừng nâng
cao hơn nữa trình độ học vấn của mình góp phần xây dựng thành công XHCN.
Cùng với việc nâng cao trình độ học vấn cho nữ giáo viên cũng cần thấy

rằng chất lượng lao động trí thức nữ chưa cao là do cơ cấu thiếu đồng bộ, phân
bố không đồng đều giữa các ngành, các địa phương còn nhiều bất hợp lí trong
chế độ đào tạo, sử dụng đãi ngộ đối với họ.
Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu đối với
trí thức nữ nói chung và trí thức nữ ngành giáo dục nói riêng là phải không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, để thông qua những
hoạt động chuyên môn ấy góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước. Vai trò của trí thức nữ ngành giáo dục đào tạo
trong phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa thật nặng nề
nhưng cũng thật vẻ vang.
1. 2. 2. Vị trí vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
a. Đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung
25

×