Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu Luận: Cho Vay Kích Cầu Đối Với Các Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.41 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA NGÂN HÀNG
  




MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI





Tiểu luận:


CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY








GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH:
Lớp: Ngân hàng 4 ngày 1 – K17








TP.HCM, tháng 01/2009

CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CỦA NHTM Ở VN HIỆN NAY
Chương I: Lý luận chung về cho vay doanh nghiệp(DN):
I. Các vấn đề chung về cho vay DN:
1. Khái niệm:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
* Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
* Dựa vào thời hạn, có thể chia cho vay doanh nghiệp thành cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
- Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở
lên.
2. Nguyên tắc vay vốn:
- Việc vay vốn ngắn hạn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội
để ngân hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp
tín dụng liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân

thủ theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung, khách hàng vay vốn của ngân
hàng phải đảm bảo hai nguyên tắc:
* Sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
* Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng.
3. Điều kiện vay:
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải bảo đảm
các nguyên tắc như vừa nêu trên, nhưng thực tế không phải khách hàng nào cũng
có thể tuân thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc đảm bảo các
nguyên tắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi khách hàng thoả mãn một
số điều kiện vay nhất định. Theo quy chế cho vay khách hàng do Ngân hàng Nhà
nước ban hành, các điều kiện vay vốn khách hàng cần có bao gồm:
* Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
* Có mục đích vay vốn hợp pháp.
* Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
* Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
* Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ
và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, các điều kiện vay vốn trên đây chỉ là hướng dẫn chung cần thiết
cho các NHTM. Khi cụ thể hoá các điều kiện cho vay này, các NHTM có thể đặt ra
các điều kiện riêng của mình như:
- Có vốn tự có tham gia vào dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh( đối
với vay trung dài hạn: vốn tự có tham gia tối thiểu là 30%).
- Cáo tài sản bảo đảm hợp pháp cho khảon vay hoặc được bên thứ ba bảo
lãnh.
- Có trụ sở trên cùng địa bàn hoạt động với ngân hàng cho vay.

4. Mục đích vay vốn:
Các NHTM khi cho vay yêu cầu khách hàng phải có mục đích vay vốn hợp

pháp và cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận. Đa số NHTM đồng
ý cho khách hàng doanh nghiệp vay vốn để sử dụng vào các mục đích sau:
* Bổ sung vốn lưu động thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh,
cung ứng dịch vụ.
* Tài trợ vốn để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.
* Thanh toán tiền hàng trong nước theo hợp đồng mua bán.
* Thanh toán tiền nhập khẩu mua nguyên liệu, hàng hoá.
* Thực hiện các phương án mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, hiện đại
hoá sản xuất.
* Thực hiện dự án đi dời nhà máy vào khu công nghiệp, khu chế xuất, dự
án đầu tư xây dựng mới.
* Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản.
(Trừ các thanh toán và chi phí mà pháp luật cấm)
5. Hồ sơ vay vốn:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng một bộ hồ sơ
vay vốn bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều
kiện vay vốn.
Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp
pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng cần gửi cho tổ chức
tín dụng phù hợp với đặc điểm cụ thế của từng loại khách hàng, loại cho vay và
khoản vay. Thông thường bộ hồ sơ vay vốn gồm có:
* Giấy đề nghị vay vốn
* Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như
giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
* Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
* Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
* Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
Đối với cho vay bằng ngoại tệ: ngoài những tài liệu quy định như trên, khách
hàng phải gửi cho NHTM: Giấy phép hoặc hạn ngạch nhập khẩu(nêu có), hợp đồng

nhập khẩu hoặc uỷ thác nhập khẩu và tài liệu khác liên quan đến sử dụng vốn vay.
6. Thẩm định và quyết định cho vay:
Tổ chức tín dụng quy định cụ thế và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải
thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi
nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp
quyết định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng
văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Trường hợp quyết định cho vay, tổ
chức tín dụng và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng và thực hiện các khâu
tiếp theo của quy trình tín dụng.
Thẩm định và quyết định cho vay là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy
trình tín dụng.
7. Hợp đồng tín dụng:
Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành
hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích
sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình
thức bảo đảm, giá tr ị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thoả thuận.
8. Giới hạn cho vay:
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại bị giới hạn cho vay theo
quy định của Luật các Tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn. Các giới hạn tín
dụng khi chi vay ngắn hạn bao gồm:
* Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn
vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn
của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc khách hàng có
nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì ngân hàng có thể cho vay hợp vốn theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
* Trong trường hợp đặc biệt, ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới
hạn cho vay theo quy định vừa nêu khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối
với từng trường hợp cụ thể.

* Việc xác định vốn tự có của các ngân hàng để làm căn cứ tính toán giới
hạn cho vay được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
9. Các phương thức cho vay:
Hiện nay trong cho vay đối với doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại có
thể thoả thuận với khách hàng về sử dụng loại phương thức cho vay. Tuỳ theo đặc
điểm chu chuyển vốn của khách hàng, ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận
lựa chọn phương thức cho vay thích hợp.
* Cho vay từng lần
* Cho vay theo hạn mức tín dụng
* Cho vay theo dự án đầu tư
* Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
* Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
* Cho vay hợp vốn
* Cho vay trả góp
* Cho vay theo hạn mức thấu chi
* Cho vay uỷ thác
II. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp:
1. Xác định nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động
và tài sản cố định. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn ngắn
hạn hoặc dài hạn để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Tuy nhiên, do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định rất lớnnên
thông thường doanh nghiệp khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài
sản lưu động. Do vậy, để đầu tư vào tài sản lưu động, doanh nghiệp thường phải sử
dụng nguồn vốn ngắn hạn.
Nhìn vào bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp, chúng ta có thể dễ dàng
nhận ra nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp thường sử dụng để tài trợ cho tài sản
lưu động gồm có:
* Các khoản nợ phải trả người bán;
* Các khoản ứng trước của người mua;

* Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước;
* Các khoản phải trả công nhân viên;
* Các khoản phải trả khác;
* Vay ngắn hạn từ ngân hàng.
Tóm lại: trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có nhu cầu tài trợ ngắn
hạn, thường xuyên hoặc thời vụ từ ngân hàng. Chính nhu cầu tài trợ này là cơ sở để
ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
2. Phương thức cho vay ngắn hạn:
Có nhiều phương thức cho vay như vừa trình bàỷơ phần trước, nhưng trong
cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, các NHTM thường thoả thuận với khách
hàng áp dụng một trong hai phương thức cho vay phổ biến hiện nay là:
* Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và NHTM thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng: NHTM và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
III. Cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp:
1. Mục đích của tín dụng trung và dài hạn:
Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 60 tháng.
Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở
lên.
Mục đích của cho vay trung và dài hạn là nhằm đầu từ vào tài sản cố định
của doanh nghiệp hoặc đầu tư vào các dự án đầu tư.
2. Thủ tục vay vốn trung và dài hạn: gọi chung là vay dài hạn
Để vay vốn của ngân hàng, khách hàng phải lập và nộp bộ hồ sơ vay vốn.
Nhìn chung hồ sơ vay vốn cũng tương tự như là hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ khác ở
chỗ khách hàng phải lập và nộp cho ngân hàng dự án đầu tư vốn dài hạn, thay vì
gửi cho ngân hàng phương án sản xuất kinh doanh hoặc kế hoạch vay vốn như khi
vay ngắn hạn.
Nhìn chung, một dự án đầu tư thường bao gồm các nội dung chính sau:
* Giới thiệu chung về khách hàng vay vốn và về dự án

* Phân tích sự cần thiết phải đầu tư dự án
* Phân tích sự khả thi về mặt tài chính của dự án
* Phân tích các yếu tố kinh tế xã hội của dự án
Để thấy được sự khả thi về tài chính của dự án, khách hàng phải nêu bật được
những căn cứ như sau:
* Phân tích và đánh giá tình hình nhu cầu thị trường và giá cả tiêu thụ để làm
căn cứ dự báo doanh thu từ dự án.
* Phân tích và đánh giá tình hình thị trường và giá cả chi phí để làm căn cứ
dự báo chi phí đầu tư ban đầu và chi phí trong suốt quá trình hoạt động của dự án.
* Phân tích và dự báo dòng tiền ròng thu được từ dự án.
* Phân tích và dự báo chi phí huy động vốn cho dự án.
* Xác định các chỉ tiêu(NPV, IRR,PP) dùng để đánh giá và quyết định sự
khả thi về tài chính của dự án.
* Nếu dự án lớn và phức tạp cần có thêm các phân tích về rủi ro thực hiện dự
án như phân tích độ nhạy, phân tích tình huống và phân tích mô phỏng.
3. Thẩm định dự án đầu tư:
Trước khi xem xét và quyết định cho vay hay không, ngân hàng cần thẩm
định lại dự án đầu tư do khách hàng lập. Cần chú ý thẩm định ở đây là thẩm định
của nhân viên tín dụng đứng trên góc độ ngân hàng chứ không phải thẩm định trên
góc độ của doanh nghiệp. Việc thẩm định này cực kỳ quan trọng.
Một mặt, nó cung cấp thông tin cho lãnh đạo ngân hàng có thể quyết định
cho vay hay từ chối cho vay.
Mặt khác, nó giúp ngân hàng phân tích, tiên lượng và quản lý rủi ro tín dụng
sau khi cho vay.
4. Các phương thức cho vay trung và dài hạn:
Dựa vào mục tiêu vay, ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn dài hạn để
đầu tư mua sắm tài sản cố định như máy móc thiết bị hoặc cho khách hàng vay vốn
dài hạn đầu tư vào một dự án đầu tư. Cho nên về phương thức cho vay dài hạn có
thể là:
* Cho vay mua sắm máy móc thiết bị

* Cho vay đầu tư dự án

Chương II: Thực trạng cho vay và tình hình kinh tế của DN trong
năm 2008.
Hiện nay cả nước hiện có 349.309 doang nghiệp có đăng ký kinh doanh với
số vốn lên đến 1.389.000 tỷ đồng( tương đương 84,1 tỷ USD), trong đó có tới hơn
95% là các doanh nghiệp đã đóng góp khoảng 26% GDP, tạo ra trên 70% việc làm.
Ở các nước, doanh nghiệp là đối tượng khách hàng tiềm năng của các NHTM.
Song ở Việt Nam, doanh nghiệp rất thiếu vốn, nhưng chỉ có 32,38% tiếp cận được.
Vì thế, khu vực này đang gặp không ít khó khăn trong sản xuất – kinh doanh.
* Do ảnh hưởng của lạm phát: Trong suốt những tháng đầu năm 2008, lạm
phát liên tục tăng cao khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệpbị
đình trệ, do giá vật liệu, năng lượng, chi phí vận chuyển, chi phí nhân công, chi phí
vốn tăng mạnh. Thực tiễn này buộc Chính phủ phải áp dụng hàng loạt các giải pháp
kinh tế và hành chính để giảm đà tăng của chỉ số giá.
* Khó khăn khi tiếp cận vốn ngân hàng: Mặc dù trong 2 tháng 10 và
11/2008, dấu hiệu của lạm phát đã được kiềm chế, NHNN liên tục giảm lãi suất cơ
bản, điều chỉnh thời hạn trả nợ đối với những trường hợp gặp khó khăn do nguyên
nhân khách quan, thế nhưng DN vẫn khó khăn trong tiếp cận vốn. Theo ý kiến của
một số NHTM cổ phần, thì có đến 74,4% DN gặp khó khăn về thủ tục và tài sản
bảo đảm khi vay vốn, gần 30% gặp khó khăn về hạn mức và thẩm định
giá Không ít DN không thể vượt qua được những trở ngại này, nhưng để có vốn
để sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, họ đã phải vay vốn từ bên ngoài với
lãi suất cao hơn nhiều so với vay vốn từ các định chế tín dụng chính thức.
Gánh nặng “ kép” đè lên vai các doanh nghiệp: Khi lạm pháp tăng, để thực
thi chính sách thắc chặt tiền tệ nhằm giảm lạm phát, các NHTM thường sử dụng
song hành hai công cụ “ thắt chặt” đó là tăng lãi suất huy động nhằn hút tiền từ bên
ngoài về NH, và giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm hạn chế cung tiền. Như
vậy, hệ luỵ mà đối tượng DN phải gánh chịu cùng một lúc 2 khó khăn đó là: lãi
suất vay NH ngày một cao và khó tiếp cận với những khoản vay mới.

Thứ nhất khi lãi suất huy động của NH tăng cao, đồng nghĩa với lãi suất cho
vay ra của NH đối với DN cũng tăng cao tương ứng. Như vậy, DN phải gánh thêm
một khoản chi phí “ khổng lồ” mà nhẽ ra nếu nền kinh tế ổ định, lạm phát thấp thì
DN không phải trả. Trong đó, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho SXKD cũng
đua nhau tăng giá do các doanh nghiệp cũng phải đi vay NH để nhập nguyên vật
liệu với lãi suất cao. Khi lãi suất vay cao, chi phí cấu thành trong hàng hoá đó cũng
tăng theo, làm giá thành nguyên vật liệu đội lên.
Thứ hai: khi doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động SXKD trong giai đoạn
này sẽ gặp phải rào cản kỹ thuật thứ hai đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng của hệ
thống ngân hàng. Vì vậy các DN, kể cả những DN làm ăn tốt cũng khó tiếp cận với
các khoản vay mới từ ngân hàng. Đặc biệt là các cá nhân và DN kinh doanh trong
lĩnh vực bất động sản và chứng khoán càng ít có cơ hội tiếp cận với nguồn tín dụng
ngân hàng, vì đây là 2 đối tượng nằm trong diện kiểm soát và khống chế cho vay
của các NHTM. Mặc dù trên thực tế, trong giai đoạn này, thị trường bất động sản
và chứng khoán đã quay về với giá trị thực, thuận lợi cho quá trình kinh doanh đầu
tư dài hạn nếu các doanh nghiệp được tiếp thêm vốn từ ngân hàng.
Thứ ba: Trong bối cảnh lạm phát, tỷ giá ngoại tệ thường thay đổi theo chiều
hướng bất lợicho các hoạt động nhập khẩu tức ngoại tệ tăng, dẫn đến nhiều doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn.
Tóm lại: đứng ở bất cứ góc độ nào của bất cứ loại hình doanh nghiệp nào
trong nền kinh tế, cũng cho thấy, đều bị tổn hại bởi lãi suất gây ra. Vì vậy, nếu các
doanh nghiệp cùng bắt tay với ngân hàng trong cuộc chiến chống lạm phát, giữ
nguyên tài khoản tiền gửi, ổn định lãi suất, ổn định giá cả hàng hoá, thì chắc chắc
các bên đều đỡ thiệt hại. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, việc nêu cao tinh thần
tiết kiệm là một trong những quốc sách hàng đầu, góp phần chống lạm phát một
cách hiệu quả nhất.





Chương III: Giải pháp và kiến nghị
1. Theo bạn nên áp dụng ở các ngành nào khi sử dụng cho vay kích
cầu:
Cần sử dụng có hiệu quả cao nhất gói giải pháp kích cầu đầu tư 1 tỷ đô la của
Chính phủ: dòng vốn đầu tư được bơm vào lĩnh vực xây dựng. Tiêu chí lựa chọn dự
án đầu tư phải vào những ngành nghề có sứ cầu, có khả năng hoàn trả được nguồn
vốn đầu tư như
- Xây dựng nhà, chung cư cao tầng giá rẻ cho người thu nhập thấp và trung
bình, chẳng hạn những căn hộ trong những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí
Minh coá giá khoảng 500 triệu đồng thì có nhu cầu rất lớn.
- Xây dựng các khu công nghiệp ở các vùng kinh tế trọng điểm.
- Xây dựng các nhà máy nước và hệ thống cung cấp tại các đô thị.
- Xây dựng các dự án làm cầu, làm đường có thu phí.

2. Theo bạn lãi suất cho vay và thời gian cho vay cần xây dựng ntn
cho hợp lý:
Vào tháng 5-2008 trước cuộc đua tăng lãi suất của các NHTM, với mức lãi
suất tiền gửi bình quân 18%/năm, thậm chí có ngân hàng đưa ra mức lãi suất tiền
gửi 19%/năm.
Việc cân nhắc giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay là cần thiết. Lúc bấy
giờ lãi suất tiền gửi khá cao, điều này kích thích, thúc đẩy người dân gửi tiền vào
ngân hàng, điều này tạo một tiền lệ tốt cho cách tiêu dùng và tiết kiệm của người
dân sau này.
Tuy nhiên, việc lãi suất tiền gửi cao kéo theo lãi suất cho vay cao cũng rất ảnh
hưởng tới cá nhân và các doanh nghiệp. Các cá nhân muốn vay mượn với số vốn
nhỏ lẻ phục vụ cho những mục đích cá nhân, nhưng vì lãi sấut cao trong khi khả
năng sinh lời thấp tạo ra tâm lý lo ngại đối với các khảon vay có lãi suất cao. Đối
với doanh nghiệp cũng tương tự như vậy.
Nếu như vẫn tiếp tục giữ lãi suất ở mức cao như vậy sẽ dẫn đến tình trạng tăng
cung giảm cầu không thể tạo được sự tăng trưởng kinh tế lâu dài, đòi hỏi chính phủ

và NH Trung Ương cần có những biện pháp phù hợp và kịp thời với từng thời kỳ
phát triển của thị trường hiện nay.
Trên thực tế chúng ta biết trong đợt đua nhau về lãi suất huy động vừa rồi, các
ngân hàng với vai trò là trung gian tài chính đã không ngồi yên chấp nhận lãi suất
đầu ra thấp hầu hết các ngân hàng đã vận động thuyết phục và thậm chí èp khách
hàng nâng lãi suất cho các khoản vốn vay để giảm thiểu thiệt hại do chi phí d8ầu
vào tăng cao.
Với tình hình hiện nay, kể cả các ngân hàng tuyên bố hạ lãi suất thì vấn đề họ
thực sự giải ngân được là bao nhiêu, bao nhiêu doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi với
lãi suất này.
Ngân hàng nhà nước cần phải đưa ra chính sách nâng lãi suất trên cơ sở tỷ
trọng vốn thực sự được dùng vào những lĩnh vực đang được Chính phủ khuyến
khích như xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng.
Một mặt giữ nguyên lãi sấu cơ bản để tiếp tục kiềm chế lạm phát. Mặt khác,
việc tăng lãi suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc lên 8,5% sẽ hỗ trợ không nhỏ cho các
NHTM giảm chi phí đầu vào. Đây là cơ sở để các NHTM giảm lãi suất cho vay, hỗ
trợ các doanh nghiệp vượt qua tình cảnh khó khăn hiện tại.
Nếu các chính sách kinh tế vĩ mô có dự báo trước, kết hợp với quá trìnhthực
thi các chính sách tài khoá, chính sách tài chính công, chính sách tiền tệ và chính
sách tỷ giá một cách nhịp nhàng, đúng lúc, đúng nơi thì chắc chắc những thiệt hại
mà chúng ta phải gánh chịu hôm nay sẽ bớt đi rất nhiều.

3. Giải pháp cho năm 2009:
a. Giải pháp giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn:
Rõ ràng vấn đề khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng của doanh
nghiệpcần được nhìn từ nhiều góc độ, không chỉ từ 2 phía là doanh nghiệp và các
NHTM Vì vậy, các giải pháp đưa ra không chỉ là sự phối hợp đồng bộ, mà còn cần
sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước.
* Đối với cơ quan quản lý nhà nước: cần có cơ chế, chính sách rất cụ thể
đối với sự phát triển của hoại hình DN. Trườc mắt tháo gỡ những khó khăn cho DN

đang chịu ảnh hưởng nặng nề của lạm phát, Chính phủ nên thiết lập Quỹ hỗ trợ DN
thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ này là hỗ trợ
cho doanh nghiệp thông qua lãi suất hoặc bảo lãnh. Không thể để các doanh nghiệp
do thiếu vốn mà hàng loạt đóng cửa, sẽ hệ luỵ đến cả nền kinh tế. Quỹ này sẽ được
điều hành theo nguyên tắc thị trường, nhằm bảo toàn và phát triển quỹ.
* Về phía các NHTM với thực tế là khá nhiều các DN do những hạn chế
nhất định đã không thể hoàn chỉnh các bộ hồ sơ vay vốn theo đúng qui định, các
NHTM có thể giúp DN từ khâu làm dự án, giám sát thực hiện, thậm chíphải hướng
dẫn, đào tạo cho DN. Đồng thời bản thân các ngân hàngcũng cần cải cách các thủ
tục cho vay theo hướng đơn giản hơn và tạo cơ hội cho các DN có triển vọng phát
triển được tiếp cận vốn.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng nên tạo ra một kênh để khuyến khíchcác DN
tiếp cận được dịcg vụ cho thuế tài chính- Một dịch vụ khá phù hợp với các DN mà
không cần thế chấp và thủ tục nhanh gọn.
* Về phía các doanh nghiệp: cần phải có nỗ lực hơn nữa để nâng cao nâng
lực, chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực
về vốn, công nghệ và con người. Đặc biệt là cần phải minh bạch vấn đề tài chính.
Minh bạch tài chính sẽ giúp sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Kinh nghiệm của một
số doanh nghiệp đã vay vốn thành công cho thấy, trước hết họ cần phải thuyết phục
được ngân hàng về hiệu quả của phương án một cách rõ ràng như: khó khăn và
thuận lợi của dự án, chi phí ban đầu, doanh thu, kế hoạch trả nợ.
Tóm lại:Doanh nghiệp và NH đều có hoàn cảnh và khó khăn riêng đòi hỏi cả
NH và DN đều phải vượt qua. Doanh nghiệp phải vươn lênđáp ứng được yêu cầu
của NH, NH cũng cần có đánh giá cụ thể, giúp DN hoàn thiện những thủ tục để hai
bên hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của cả ngân hàng và doanh
nghiệp. Chỉ khi đó DN mới tiếp cận được vốn NH và các NH mới khai thác được
thế mạnh của DN.

4. Kiến nghị
a. Tăng giá điện sẽ ảnh hưởng đến kích cầu: với đề án”Giá bán điện 2009-

2012 và cơ chế thực hiện giá điện theo thị trường” của Bộ công thương.
Những khó khăn về kinh tế hiện nay thì chưa nên tăng giá điện trong sáu
tháng đầu năm 2009. Khi mọi thứ đều suy giảm, tăng giá điệnkhông những tác
động tiêu cực đến sức mua chung của các hộ gia đình( đi ngược lại chủ trương
khích cầu) mà còn tăng gánh nặng cho nền kinh tế. Sau mỗi lần có điều chỉnh giá
của một số mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu, nước sạch thì giá cả có thể sẽ
dội lên ngoài mong đợi.
Để khắc phục tình trạnh này, nếu chỉ dựa vào lập luận tăng giá điện để tạo
sức ép tiết kiệm điện nhằm đạt tới cân đối cung cầu là chưa đầy đủ Cần phải có
những biện pháp căn bản từ phía cung trong đó một giải pháp hữu hiệu là tạo ra
môi trường cạnh tranh ngay trong khu vực sản xuất điện năng. Tất nhiên vị thế độc
quyền của ngành điện thì không thể giải quyết một sớm một chiều được. Như thế
vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, công luận và khách hàng của ngành điện
cần được tăng cường hơn. Nếu để ngành điện một mình một chợ thì sẽ có đủ lý do
để tăng giá điện.
Để nâng cao năng suất( phát triển theo chiều sâu) đồng thời mở mang sản
xuất( phát triển theo chiều rộng), cần thu hút thêm đầu tư vào ngành điện. Do đó
mục tiêu đúng đắn của ngành điện cũng như của Chính phủ là tăng động cơ đầu tư
vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự hấp dẫn đầu tư nằm ở lợi nhuận bền vững, chứ
không chỉ đơn thuần là khả năng liên tục tăng giá bán sản phẩm.
Để tăng lợi nhuận, một doanh nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều cách tiêu
biểu như:
* Tăng năng suất nhờ nâng cao hiệu quả sản xuất: tăng cường đổi mới công
nghệ, cải cách quản lý, tổ chức nhân sự.
* Mở rộng thị trường để thêm cơ hội tăng sản lượng.
* Điều chỉnh giá.
Trong những phương thức này, tăng giá thường được dùng trong các thị
trường độc quyền Do đó để hướng tới sự phát triển bền vững cho ngành điện, cần
đẩy nhanh quá trình cải tổ cấu trúc ngành theo hướng cải thiện tốt nhất năng suất.
Điều này sẽ đạt được hiệu quả thông qua đổi mới công nghệ và tăng tính cạnh

tranh.
a. Tạm thu thuế cá nhân: Khó kích cầu tiêu dùng
Xung quanh chủ trương giãn thuế thu nhập cá nhân(TNCN) từ tháng 1 đến
tháng 5-2009. Vụ phó vụ chính sách thuế khẳng định không phải là không thu thuế.
Người dân phải nộp thuế cá nhân hàng tháng nhưng số tiền này chưa nộp ngay vào
ngân sách để chờ quyết định cuối cùng của Quốc hội về thuế TNCN trong kỳ họp
tháng 5-2009. Việc đăng ký mã số thuế, khấu trừ thuế, tạm kê khai thuế vẫn thực
hiện bình thường. Tinh thần là đến tháng 5, Quốc hội sẽ trả lời về việc có thu hay
không hoặc miễn, giảm đối với các khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN.
Nếu chủ trương giãn nộp thuế mà vẫn phải thu thì còn gọi gì là kích cầu nữa.
“ Giãn nộp thuế nghĩa là chưa thu. Có thể vẫn tính thuế nhưng mà chưa thu rồi năm
tháng sau sẽ tính để thu một lần.Tương tự như là một khoản tiền mà nhà nước cho
những người nộp thuế” vay”. Còn nếu nói là giãn nộp mà vẫn tạm thu thì chủ
trương này sẽ mất hết ý nghĩa, không góp phần kích cầu tiêu dùng, đồng thời sẽ gây
bức xúc cho người dân khi mọi người đang phấn khởi là sẽ chưa phải nộp khoản
đóng góp này”.
Hiện nay, người dân đang thực sự khó khăn, khi được chút tiền thưởng tết
thì lại phải tạm nộp thuế. Doanh nhiệp không bán được hàng vì sức mua giảm trong
khi nhu cầu tiêu dùng rất lớn. Chính vì vậy, nhà nước cần quyết đoán việc giãn nộp
thuế TNCN càng sớm càng tốt để người dân có thêm tiền tiêu dùng, doanh nghiệp
có thể bán được hàng. Như thế mới góp phần thể hiện được mục đích tốt đẹp của
giải pháp kích cầu.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, nếu giãn nộp thuế TNCN thì mội tháng
ngân sách sẽ hụt 1.000 tỷ đồng. Vậy nếu giản nộp thực sự thì từ nay đến tháng 5,
chúng ta dành 5.000 tỷ cho dân vay tiêu dùng. Số tiền này không quá lớn so với
tổng thu ngân sách. Nhưng là một khoản không nhỏ để hỗ trợ thị trường tiêu dùng.
Số lương người được hưởng chính sách này sẽ góp phần kích thích thị trường tiêu
dùng một cách hiệu quả. Mặt khác, về mặt tinh thần, khi người dân khó khăn mà
nhà nước ra tay hỗ trợ kịp thời cũng thể hiện sự chia sẽ, động viên của nhà nước
với người dân.

b. Thông qua phương án sử dụng 17.000 tỷ đồng kích cầu đầu tư
Nguồn vốn kích cầu đầu tư này được sử dụng chủ yếu bằng hình thức bù lãi
suất khi doanh nghiệp vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh( các doanh
nghiệp vay vốn lưu động để nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu, vay kinh
doanh chứng khoán, tài chính, ngân hàng, vay vốn để trả nợ các hợp đồng tín dụng
khác không được hưởng chính sách ưu đãi này).
Theo đó, sẽ bù lãi suất 4% cho các khoản vay vốn lưu động theo tiêu chí nêu
trên trong năm 2009. Đối tượng được vay là các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế. Đầu mối cho vay là các ngân hàng thương mại VN, thời điểm thực
hiện bắt đầu ngay từ đầu năm 2009, thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa không quá 12
tháng.
Quyết định hỗ trợ các hộ nghèo với mức 200.000 đồng/người nhưng không
vượt quá 1 triệu đồng/hộ nghèo. Tổng mức kinh phí hỗ trợ các hộ nghèo dịp này
hơn 3.800 tỉ đồng.










TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại
Tác giả: TS Nguyễn Minh Kiều-Trường ĐHKT HCM
2. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
Các số năm 2008

3. http:// WWW.google.com.vn

×