Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Giúp hs trả lời đúng trọng tâm câu hỏi trong tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.34 KB, 10 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tôi còn nhớ rất rõ lúc tham gia lớp Đại học, thầy giáo của tôi có đề cập đến
mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ
năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
bậc học Trung học cơ sở.
Tôi thiết nghĩ là một giáo viên Tiểu học phải hiểu thật thấu đáo, hiểu thật kĩ
mục tiêu trên. Song song cùng một lúc giáo viên còn phải biết vận dụng linh hoạt
việc thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học dành cho từng lớp ở Tiểu học
do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành nói chung và thực hiện Chuẩn kiến thức, kỹ năng
môn Tiếng việt được soạn theo kế hoạch dạy học qui định tại văn bản chương trình
Giáo dục phổ thông – cấp Tiểu học nói riêng. Chính vì thế, trong việc giảng dạy theo
chuẩn bản thân tôi còn gặp nhiều khó khăn nhất định trong bộ môn Tiếng Việt nhất là
ở phân môn Tập Đọc. Vậy làm thế nào để giải quyết được khó khăn, vướng mắc
trong quá trình giảng dạy của mình. Phải làm sao để nâng cao chất lượng môn học,
phải làm thế nào để học sinh của mình được hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn
và thực hành nhiều hơn?
Đó là câu hỏi mà không ít giáo viên tâm huyết với nghề trăn trở, suy nghĩ và
luôn tìm kiếm giải pháp. Với ao ước làm sao cho các tiết dạy của mình nhẹ nhàng, tự
nhiên mà hiệu quả. Đặc biệt là đối với phân môn Tập Đọc (một môn học góp phần
không nhỏ trong việc cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản về văn hóa, xã
hội, con người, thế giới xung quanh). Một môn học giúp các em biết cách học: “Để
biết, để làm, để khẳng định mình và để cùng chung sống ”. Tôi đã tìm tòi, tổng hợp
và mạnh dạn chọn ra: “ Một số giải pháp nhằm giúp học sinh biết cách trả lời
đúng trọng tâm câu hỏi tìm hiểu bài ở phân môn Tập Đọc.”
II. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG:
Không riêng gì những tiết dạy Tập Đọc trên lớp mà qua các tiết dự giờ thao
giảng cụm, thao giảng trường, thao giảng tổ và những tiết dự giờ học tập các bạn
đồng nghiệp trong trường khi tôi được nghỉ do lớp học có tiết của giáo viên bộ môn.


Tôi đều nhận thấy rằng:
- Ở phần tìm hiểu bài, học sinh chỉ biết trả lời nhưng hiểu thì chưa cao tại vì
các em chưa biết lược bỏ những từ ngữ không liên quan đến trọng tâm câu hỏi, đôi
khi các em không biết trả lời.
- Các em thiếu tự tin, khả năng ứng xử chưa nhanh nhạy, còn nhiều lúng túng
trong khi phải động não suy nghĩ trả lời.
- Học sinh chưa thật sự hiểu văn bản, không rèn được kĩ năng đọc hiểu,
không rèn được kĩ năng trong giao tiếp.
- Mặc khác những lúc rỗi rãnh tôi cũng thường xuyên tham khảo thêm bộ
sách Tiếng Việt của Tiểu học để nắm bắt được nội dung, kiến thức từ lớp 1 đến lớp 5
để làm hành trang trong công tác giảng dạy của mình. Tôi nghĩ với hệ thống câu hỏi
trong sách giáo khoa ở phân môn Tập Đọc nếu như giáo viên dạy theo phương pháp
cũ hỏi – đáp thì khó lòng mà học sinh trả lời được câu hỏi theo sự hiểu của các em,
1
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
các em có thói quen sẽ đọc nguyên văn trong sách, các em không hề động não suy
nghĩ đó là cách hiểu máy móc dẫn đến các em không nắm chắc nội dung bài học.
Chính vì vậy, tôi đã xây dựng cho mình nội dung và những biện pháp tiến hành trong
giờ dạy Tập Đọc theo hướng dạy – học tích cực cụ thể như sau:
III. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH:
1/ Điều kiện để giờ học Tập Đọc theo hướng dạy – học tích cực đạt hiệu
quả ở bước tìm hiểu bài:
a/ Về phía giáo viên:
- Trước tiên tôi phải xác định được rõ ràng mục tiêu khi dạy phân môn Tập
Đọc. Đó là một phân môn có vị trí quan trọng trong bộ môn Tiếng Việt nói chung.
Giáo viên nên dạy cho học sinh dựa trên kinh nghiệm, quan tâm đến ý thích của học
sinh từ đó kích thích tư duy cho học sinh ( kĩ năng). Với cách dạy trên tạo cho các em
cách học rộng rãi, thoải mái, tự do để chiếm lĩnh được kiến thức về văn hóa, xã hội,
con người, tự nhiên ( kiến thức). Dẫn đến tiết dạy lấy học sinh làm trung tâm tức là
học sinh đã thể hiện được ý tưởng của mình theo hiểu biết cá nhân mà không rập

khuôn ( thái độ).
- Để vận dụng được một cách linh hoạt trong giảng dạy đòi hỏi tôi phải thay
đổi nhận thức: Phân biệt được sự khác nhau giữa dạy - học tích cực và dạy - học thụ
động, có ý thức sẵn sàng thay đổi phương pháp, vận dụng phương pháp mới vào thực
tiễn dạy học.
Ví dụ: Bài “ Sông Hương”( Tiếng Việt 2/ tập 2)
Tôi cho học sinh nghe, xem băng ( hoặc giáo viên trực tiếp hát) bài hát: “
Huế - tình yêu của tôi” nhưng chỉ cho học sinh nghe phần đầu “ Đã đôi lần đến với
Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được,
nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”, sau đó giáo viên thu hút học sinh bằng cách đưa ra câu
hỏi: “Bài hát có câu “ vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được? Vậy cô đố các em điều gì
đã tạo nên vẻ đẹp ấy? “ Từ câu trả lời của học sinh, giáo viên dẫn dắt vào bài “ Sông
Hương”.
Ví dụ: Bài: “Dự báo thời tiết” ( Tiếng Việt 2/ tập 2) tôi sẽ giới thiệu với học
sinh một số biểu tượng thời tiết quen thuộc mà học sinh được xem hằng ngày trên tivi
chẳng hạn.
   
( Ngày nắng ) ( Mưa rào ) ( Có mưa ) ( Có giông )
Bởi vì tôi nghĩ, giới thiệu bài tạo tâm thế rất quan trọng trong việc giúp học
sinh chú ý, tập trung vào bài. Chỉ có nắm bắt bài ngay từ đầu học sinh mới hăng hái
tham gia xây dựng bài, còn nếu lúc đầu học sinh lơ đãng, không tập trung thì học
sinh sẽ rất khó hiểu bài. Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể chọn ra những cách
giới thiệu phù hợp.
Ngoài ra, bản thân tôi cần phải nắm chắc bài dạy, phải vững về chuyên môn,
có kiến thức bởi vì không có kiến thức thì dễ lúng túng khi hướng dẫn học sinh đi tìm
2
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
kiến thức, tìm hiểu nội dung bài đọc, lúng túng khi trả lời những câu hỏi của học
sinh.
Ví dụ: Bài “Sông Hương” ( Tiếng Việt 2/ Tập 2) có từ “ sắc độ, đặc ân” đây

là từ khóa, từ có ý nghĩa khái quát nội dung của văn bản đọc. Đối với những từ này,
tôi có thể hướng dẫn giải thích chúng bằng cách đưa ra một giải nghĩa chung ( giải
nghĩa này có thể đã được nêu trong phần chú thích) rồi vận dụng, xâu kết các chi tiết
trong bài để chứng minh cho giải nghĩa ấy. Đó là vẻ đẹp độc đáo thơ mộng, luôn biến
đổi sắc màu vào mùa hè trên dòng sông Hương mà thiên nhiên đã ban tặng cho thành
phố Huế.
2/ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Theo tôi phương hướng giảng dạy Tập Đọc nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh phải đa dạng hóa các phương pháp và kĩ thuật dạy học cũng như
tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học nhằm tạo hứng thú học tập và phát huy tính tích
cực của học sinh.
Trong bước tìm hiểu bài, ngoài việc sử dụng câu hỏi sách giáo khoa theo
cách đàm thoại toàn lớp tôi nghĩ mình cần chuyển hệ thống ý cơ bản của bài được
định hướng trong các câu hỏi thành tình huống, bài tập trắc nghiệm, trò chơi hoặc
một số hình thức hoạt động khác. Làm được điều này đòi hỏi tôi phải vận dụng sự
hiểu biết về đặc điểm thể loại của văn bản đọc để nắm bắt cấu trúc bên trong của nội
dung cũng như đặc điểm ngôn ngữ của văn bản đọc, từ đó tìm ra logic dẫn dắt các em
đọc và tìm hiểu bài một cách phù hợp trên nền tảng nguyên tắc: “Dạy học luôn
hướng vào học sinh”.
2.1 Vẽ mạng câu chuyện- mạng sự kiện:
Vẽ mạng câu chuyện là tôi tạo ra một mạng từ và các nhóm từ liên kết với
nhau. Xây dựng mạng câu chuyện, trước tiên tôi phải hiểu rõ nó là một sơ đồ giúp
cho các em dễ nhìn thấy và tìm ra mối quan hệ giữa các từ ngữ và các nhóm từ trong
một bài tập đọc, phản ảnh sự diễn giải của học sinh.
Hay là mạng câu chuyện có thể tạo thành một ý tưởng, một khái niệm, một
chủ đề hay một câu chuyện, ….về các sự kiện có thật.
* Cách thực hiện: Tôi vận dụng sơ đồ mạng này có thể là trước hoặc sau khi
học sinh đọc xong bài đọc.
Ví dụ: Bài “Chuyện bốn mùa” ( Tiếng Việt 2/ tập 2), tôi sẽ thiết kế mạng như sau:
Qua sơ đồ mạng này, tôi sẽ giúp học sinh trả lời 2 câu hỏi trong sách giáo khoa

( theo nhóm )
1/ Em hãy cho biết mùa xuân có gì hay:
a/ Theo lời của nàng Đông
b/ Theo lời của bà Đất
2/ Mùa hạ, mùa thu, mùa đông có gì hay.
Theo tôi nghĩ nếu không có sơ đồ mạng này học sinh có thói quen trả lời
bằng cách đọc hết cả bài bởi vì phần trả lời cho 2 câu hỏi này xuyên suốt hết cả văn
bản đọc các em sẽ không biết chắc lọc từ, ý để trả lời. Với cách học như thế thì sẽ
không phát huy gì ở học sinh tạo cho các em lười suy nghĩ không biết trả lời theo sự
hiểu biết.
3
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
Ví dụ: Bài “Chim sơn ca và Bông cúc trắng” ( Tiếng Việt 2/ tập 2), tôi sẽ
thiết kế mạng sự kiện thế này:
Chim: hót véo von, bay lượn -> bị cầm tù, buồn thảm -> chết
Hoa: sung sướng, xinh xắn -> bị cắt cùng với đám cỏ buồn thương -> héo tàn
Với sơ đồ trên học sinh nhìn mạng sẽ kể lại được nội dung câu chuyện.
Theo tôi nghĩ, với việc sử dụng sơ đồ mạng trong bước tìm hiểu bài ít nhiều
gì giáo viên cũng đã rèn được cho học sinh kĩ năng sử dụng từ ngữ và ngữ pháp trong
giao tiếp nhằm giúp mỗi cá nhân học sinh phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt tổng
hợp về mặt kiến thức tiếng Việt và kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
* Khi vẽ mạng kể chuyện và mạng sự kiện thì tôi thống nhất riêng cho mình
những quy định sau:
- Vẽ mạng về sự kiện:
▪ Trước tiên tôi chọn ra những sự kiện chính rồi liên kết các sự kiện đó theo
trình tự thời gian, không gian.
▪ Từ đó học sinh nhìn mạng liên kết các sự kiện đã vẽ ở trên để nói lại nội
dung bài đọc.
- Vẽ mạng kể chuyện:
▪ Đầu tiên tôi chọn nhân vật chính trong câu chuyện để vẽ cách điệu.

▪ Tiếp đến viết các từ miêu tả nhân vật
▪ Sau đó vẽ mối quan hệ của các nhân vật chính có trong câu chuyện.
2.2 Mạng miêu tả nhân vật:
Tôi sử dụng mạng miêu tả nhân vật trong bước tìm hiểu bài, giúp các em tìm
được những từ miêu tả nhân vật trong bài, giúp các em nhìn thấy một cách trực quan
các đặc điểm của nhân vật, giúp các em hình dung mối quan hệ giữa tính cách, đặc
điểm, thái độ của nhân vật đó một cách dễ dàng, giúp các em trả lời đúng trọng tâm
câu hỏi.
* Cách thực hiện: Tôi có thể cho học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân.
Học sinh có thể vẽ hay phác họa nhân vật. Sau đó, học sinh sẽ viết từ ngữ hoặc câu
miêu tả nhân vật đó ngay bên cạnh hình vừa vẽ.
Ví dụ: Nếu tôi cho học sinh thảo luận với nhau về những nhân vật trong câu
chuyện và muốn làm rõ tính cách của nhân vật này thì tôi sẽ hướng dẫn cho các em
có thể vận dụng vào các tựa đề sau:
NHÂN VẬT TỐT NHÂN VẬT XẤU
A B
A, B là tên của nhân vật hoặc là hình ảnh của nhân vật.
Vận dụng sơ đồ này vào câu chuyện: “ Quả tim khỉ” (Tiếng việt 2/ tập 2)
4
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
2.3 Mạng sơ đồ cây:
Ví dụ: Bài “Sầu riêng” ( Tiếng Việt 4/ tập 2)
Với sơ đồ trên sẽ giúp học sinh trả lời được câu hỏi: Dựa vào bài văn, hãy
miêu tả những nét đặc sắc của:
a/ Hoa sầu riêng
b/ Quả sầu riêng
c/ Dáng cây sầu riêng
Nhìn vào sơ đồ học sinh phải động não suy nghĩ trả lời bằng cách lược bỏ
những từ ngữ không liên quan đến câu hỏi tránh được thói quen đọc nguyên văn một
đoạn hay cả bài. Tôi xem đây là bước tìm từ ngữ, rồi liên kết ý nghĩa các từ để nắm

bắt ý chính của bài trong hoạt động đọc hiểu là cơ sở chuyển hóa thành kĩ năng tìm
hiểu đề, tìm ý và dàn ý trong hoạt động làm văn. Làm được điều này tức là tôi đã chú
ý đến quá trình dạy tích hợp giữa các kiến thức và kĩ năng ngôn ngữ trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của bộ môn tiếng Việt.
Ví dụ: Bài “ Cây đa quê hương” ( Tiếng Việt 2/ Tập 2)
Tôi đưa ra sơ đồ, giúp học sinh tìm hiểu về các bộ phận của cây đa (thân,
cành, ngọn, rễ) được tả bằng những hình ảnh nào?
Nhìn vào sơ đồ buộc các em phải động não suy nghĩ bằng cách lược bỏ
những từ ngữ không liên quan đến câu hỏi tránh được thói quen đọc nguyên văn một
đoạn trong sách giáo khoa ( Cành cây lớn hơn cột đình … như ai đang cười đang
nói)
2.4 Minh họa đơn giản:
Ví dụ: Nếu được dạy lớp 2, khi dạy bài “Sông Hương” (Tiếng Việt 2/ tập 2),
sau bước học sinh đọc nối tiếp câu thì tôi cho các em tô màu bức tranh minh họa
trong sách giáo khoa trang 72 theo nhóm 4 hoặc nhóm 6. Sau khi học sinh tô màu
hoàn thành bức tranh tôi cho các em tìm hiểu 2 câu hỏi đầu tiên trong sách giáo khoa
trang 73.
1/ Tìm những từ chỉ các màu xanh khác nhau của sông Hương.
2/ Vào mùa hè và vào những đêm trăng, sông Hương đổi màu như thế nào?
Ví dụ: Bài “ Cửa Tùng”( Tiếng Việt 3/ tập 1)
Tôi cũng có thể vận dụng hình thức tổ chức dạy học như bài Sông Hương.
Tôi cho các em tô màu bức tranh theo nhóm 4 hoặc nhóm 6, sau đó giúp học sinh tìm
hiểu hai câu hỏi trong bài.
1/ Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải có gì đẹp?
2/ Sắc màu nước biển Cửa Tùng có gì đặc biệt?
Tôi cũng lưu ý với mình một điều không sử dụng tranh trong phần giới thiệu
bài. Nhằm để khơi gợi sự tò mò, sáng tạo cũng như cuốn các em vào dòng suy nghĩ
5
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
tìm hiểu nội dung bài học bằng những gì các em đã quan sát được, suy nghĩ được và

thực hành được.
Ví dụ: Bài “Bà Cháu” ( Tiếng Việt 2/ tập 1), tôi có thể cho các em tự vẽ theo
nhóm bằng trí tưởng tượng của các em hình ảnh ứng với từng phần của câu chuyện.
Tôi đưa ra biện pháp này là giúp học sinh khắc sâu ấn tượng bài đọc thông
qua việc tô màu bức tranh minh họa bài đọc hoặc là cho các em vẽ minh họa lại các
chi tiết, sự kiện hay nhân vật trong bài. Từ đó các em nắm được nội dung bài có thể
trả lời được các câu hỏi ở phần tìm hiểu bài cũng như kể lại được câu chuyện theo sự
hiểu biết của các em mà trước đó các em đã thể hiện bằng ngôn ngữ hình ảnh. Từ
ngôn ngữ hình ảnh sẽ dễ dàng giúp các em tái hiện bằng ngôn ngữ nói. Với giải pháp
này sẽ giúp các em phát triển về ngôn ngữ của học sinh đồng thời cũng là sự phát
triển về trí tuệ, về tư duy, về tâm hôn và tình cảm, và về nhiều giá trị tinh thần khác
nữa.
2.5 Sử dụng bài tập trắc nghiệm:
2.5.1 Bài tập lựa chọn:
Ví dụ: Bài “ Những người bạn tốt” ( Tiếng Việt 5/ tập 1)
Để giải quyết câu hỏi số 4 trong sách giáo khoa: Em có suy nghĩ gì về cách
đối xử của đám thủy thủ và của đàn cá heo đối với nghệ sĩ A- ri – ôn.
Đây là dạng câu hỏi tự luận buộc học sinh phải suy nghĩ trả lời hơn nữa nội
dung trả lời không có trong bài đọc do đó theo tôi để giúp học sinh trả lời tốt, đúng
trọng tâm, tránh trường hợp học sinh trả lời lang mang dài dòng không đúng chủ
đích. Tôi suy nghĩ, mình nên xây dựng một hệ thống bài tập để định hướng cho các
em nhằm giúp các em giải quyết các tình huống có vấn đề hoặc nắm kiến thức bài
học và thực hiện các mục tiêu của bài học.
Tôi có thể cho học sinh làm bài tập như sau:
Hãy khoanh tròn (hoặc chọn) ý em cho là đúng nhất:
a. Cá heo thông minh, tình nghĩa.
b. Đám thủy thủ tham lam, độc ác còn cá heo là loài vật nhưng thông minh.
c. Đám thủy thủ tuy là người nhưng vô cùng tham lam, không biết trân trọng
tài năng.
d. Cá heo thông minh biết giúp người. Đám thủy thủ rất độc ác.

Ví dụ: Bài “ Lượm” ( Tiếng Việt 2/ tập 2)
Đánh dấu chéo vào một lí do mà em chọn.
Em yêu chú bé liên lạc vì:
- Chú có cái mũ ca lô và biết huýt sáo.
- Chú có vẻ bề ngoài rất đáng yêu và dũng cảm.
- Chú rất nhanh nhẹn, hoạt bát.
* Cách thực hiện: Cho học sinh làm miệng hoặc làm trên phiếu học tập.
2.5.2 Bài tập tình huống vận dụng:
Khi tôi xem đến quyển sách Tiếng Việt 2/ tập 1 có rất nhiều bài Tập Đọc với
nội dung lạ nhưng rất gần gũi với học sinh.
6
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
Ví dụ: Bài “ Mục lục sách” đây là bài tập đọc nhưng mục tiêu của bài là giúp
học sinh lớp 2 thực hành là chính tập cho các em tra mục lục sách.
Theo tôi những câu hỏi trong sách giáo khoa quá dễ đối với học sinh, nên tôi
đã chuyển những câu hỏi này thành những tình huống sinh động mà học sinh vẫn
phải vận dụng những điều các em đã hiểu về bài đọc để xử lí tình huống.
Tình huống thay thế cho câu hỏi số 2 và số 3 trong sách giáo khoa trang 44
như sau:
- Có một bạn nói với em truyện “ Người học trò cũ” rất hấp dẫn, em sẽ mở
sách trang nào để đọc truyện?( Trang 52)
- Bạn em nghe nói truyện “ Mùa quả cọ” của một tác giả rất hay viết truyện
cho thiếu nhi, nhưng bạn không biết đó là tác giả nào. Em hãy giúp bạn biết với. (Tác
giả Phùng Quán).
Khi thiết kế hệ thống bài tập, tôi đặc biệt chú ý đến tính logic, chặt chẽ, phù
hợp với logic nội dung bài dạy, với những mục tiêu rèn kĩ năng ngôn ngữ và khơi gợi
quá trình truy cập tích cực kinh nghiệm ở các em.
2.6 Sử dụng trò chơi:
Tôi thiết nghĩ, việc sử dụng các trò chơi trong học tập là cách giải trí có nội
dung và mục đích học tập, đồng thời rèn luyện kĩ năng, kiểm tra tri thức của học sinh.

Đặc biệt, tôi rất lưu ý khi sáng tạo ra các trò chơi học tập, tôi phải dựa vào
kiến thức, kĩ năng giao tiếp cần rèn luyện cho học sinh để xây dựng thành trò chơi
mà tôi có thể vận dụng vào dạy học Tập Đọc.
2.6.1 Lật ô số - đoán hình nền
Ví dụ: Khi dạy bài “ Trung thu độc lập (Tiếng Việt 4/ tập 1)
Ô số trên có 4 câu hỏi
1/ Trăng trung thu độc lập có gì đẹp?
2/ Anh chiến sĩ tưởng tượng đất nước trong những đêm trăng tương lai ra
sao? Vẻ đẹp đó có gì khác so với đêm Trung thu độc lập?
3/ Cuộc sống hiện nay có những gì giống với mong ước của anh chiến sĩ năm
xưa?
4/ Em mơ ước đất nước ta mai sau sẽ phát triển như thế nào?
* Tôi đưa ra hình thức tìm hiểu bài được lồng ghép trong trò chơi. Các ô số
chính là những câu hỏi giúp học sinh tìm hiểu bài. Khi học sinh trả lời được hết các
câu hỏi tức là lật được hết các ô số cũng chính là lúc học sinh đã tìm hiểu xong bài
học mà luôn có cảm giác vui thích vì mong chờ được nhìn thấy và đoán hình nền.
Hình nền cũng chính là hình ảnh minh họa nội dung bài đọc và do vậy học sinh hiểu
bài và khắc sâu bài học rất tốt.
+ Tôi chọn hình nền là hình ảnh phù hợp với nội dung bài học.
+ Tùy vào số lượng câu hỏi mà tôi tạo ra các ô số tương ứng để che hình nền.
2.6.2 Đố tôi là ai:
Với trò chơi này tôi nghĩ sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn và củng cố kiến thức
về đặc điểm những nhân vật các em học trong bài.
Ví dụ: Bài “ Vè chim” ( Tiếng Việt 2/ tập 2)
7
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
Tôi sẽ tổ chức cho các em chơi trò chơi theo nhóm.
Nhóm 1 đố nhóm 2 : Tôi hay chạy lon xon, đố bạn tôi là ai?”. Nhóm 2 trả lời.
Nếu trả lời đúng tiếp tục đố lại nhóm 1 “ Tôi hay nghịch hay tếu, đố bạn tôi là ai? ”,
… Cứ như vậy, hai đội đố nhau để khắc sâu hình ảnh trong bài.

2.6.3 Những mảnh giấy nhỏ của tôi:
Tôi sẽ cho học sinh chuẩn bị một xấp giấy nhỏ, kích cỡ khoảng
8 x 8 cm. Chỉ là những mảnh giấy nhỏ nhưng nó sẽ rất hữu ích trong việc giúp học
sinh thi đua trình bày những ý kiến, suy nghĩ của riêng mình. Các em sẽ được viết ra
những điều mà các em suy nghĩ, tránh tình trạng các em chỉ nghe bạn khác trả lời rồi
không chịu suy nghĩ. Sau đó tôi sẽ thu lại những mảnh giấy này để hiểu thêm về học
sinh của mình vì trong một tiết học do thời gian hạn chế nên không thể hỏi được hết
tất cả học sinh trong lớp.
Ví dụ : Bài “ Kéo co” ( Tiếng Việt 4/ tập 1)
Học sinh có thể viết vào mảnh giấy trò chơi dân gian mà em yêu thích. Sau đó
các em thi đua trao đổi sở thích của mình với các bạn trong lớp. Từ đó, tôi có thể dễ
dàng giáo dục học sinh những trò chơi nguy hiểm cần tránh và những trò chơi lành
mạnh. Qua đó, tôi đã giúp cho các em phần nào chuẩn bị trước cho bài mở rộng vốn
từ: Đồ chơi – trò chơi ở phân môn Luyện từ và câu.
Tôi nghĩ, dạy tiếng Việt các bạn nên dạy theo hướng tích hợp bởi vì nội dung
các bài dạy của các phân môn tiếng Việt trong một tuần đều có liên quan đến nhau.
Hay nói rộng hơn kiến thức tiếng Việt của các lớp cấp Tiểu học đều xâu chuỗi hệ
thống với nhau.
Nếu ta làm tốt được điều này tức là ta đã giúp được các em tìm hiểu bài theo
sự hiểu biết không áp đặt thô bạo mà để các em tự sản sinh ra kiến thức. Từ đó các
em có thể sử dụng tiếng Việt hiệu quả vào các môn học khác.
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Quả thực với suy nghĩ và khi vận dụng một số giải pháp trên cùng với việc sử
dụng các phương pháp mới ( động não, đàm thoại, thực hành, nhóm, … ) vào bài
dạy ở các lớp 2,3,4,5 ( thực tế tôi chỉ vận dụng các giải pháp trên vào dạy các bài Tập
Đọc ở lớp 4 còn ở lớp 2,3,5 tôi tự xây dựng riêng cách dạy cho mình). Nhưng tôi rất
tự tin nếu đưa những giải pháp ấy vào thực tế giảng dạy cho các lớp 2,3,5 nữa thì
chắc hẳn sẽ giúp học sinh suy nghĩ, động não suốt quá trình tìm hiểu bài mà không ỷ
lại vào bạn, không thụ động khi tìm hiểu bài, tạo mối quan hệ thân thiết giữa thầy và
trò nhằm phát huy cao độ tính tích cực học tập của học sinh.

Thực tế trên lớp rõ ràng tôi thấy được một điều: Các em luôn chờ đón giờ học
Tập Đọc; dù mệt ( vì phải đầu tư vào đồ dùng dạy học, nghiên cứu kiến thức, …)
nhiều nhưng tôi cảm thấy phấn chấn hơn, thấy tay nghề của bản thân mình cứng cáp
và vững vàng hơn, tự tin hơn.
- Kiến thức học sinh nắm được từ bài học chắc hơn, đặc biệt là trong bước tìm
hiểu bài học sinh đã biết vận dụng ngôn ngữ khi thì nói, khi thì viết, khi thì đọc to,
khi thì đọc thầm, một cách linh hoạt để trả lời các câu hỏi theo ý cơ bản trọng tâm
có hệ thống.
8
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
- Năng lực tư duy của học sinh dần phát triển, tăng cường tính hứng thú và sự
tự tin của học sinh vì các em cảm nhận được sự đóng góp quan trọng của mình mỗi
khi các em tìm ra tri thức mới.
V/ HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG PHỔ BIẾN:
Rõ ràng với quan điểm “ giờ dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả”, tôi tin chắc
rằng các giải pháp trên khả năng phổ biến rất cao. Nhưng đòi hỏi giáo viên phải đủ tự
tin để tổ chức các hoạt động lên lớp một cách hợp lí, khoa học, có khả năng ứng xử
sư phạm linh hoạt. Muốn vậy không có con đường nào khác là sự tự thân rèn luyện
nhất là trong việc đầu tư, nghiên cứu thiết kế soạn giảng một cách nghiêm túc làm
sao trên mỗi trang giáo án đậm nét tình cảm nghề nghiệp giúp các em thấy được cái
hay, cái đẹp của lời văn nghĩa là giúp các em hiểu và yêu mến cái hay, cái đẹp của
ngôn từ Việt Nam. Tác động đến nhu cầu suy nghĩ, thể hiện, bộc lộ trao đổi. Sự
chuẩn bị chu đáo, đầy đủ và kĩ lưỡng chắc chắn sẽ đem lại sự hứng thú say mê tự tin
trong công việc giảng dạy của người giáo viên yêu nghề mến trẻ. Sẽ ghi lại dấu ấn
lao động của một người thầy có lương tâm trách nhiệm đầy nhiệt huyết với nghề. Với
những yếu tố trên sẽ giúp tôi đủ sức và đủ bản lĩnh tổ chức tiết dạy, giúp học sinh
biết cách trả lời đúng trọng tâm câu hỏi tìm hiểu bài một cách nhẹ nhàng, tự nhiên có
chủ đích.
Trong những lần họp tổ chuyên môn bàn về phương pháp giảng dạy để nâng
cao chất lượng hoặc qua các tiết thao giảng tổ tôi luôn đưa ra các giải pháp này để chị

em trong tổ trao đổi, nghiên cứu vận dụng vào tiết dạy sao cho phù hợp với đặc thù
học sinh lớp mình.
Tôi rất vui khi nghe các cô trong tổ nói lại rằng:
…… “mấy ảnh” học “dzui” khi nghe em cho vẽ mạng sơ đồ nhân vật
……… “anh nào” cũng thi nhau vẽ cho nhanh để xung phong trả lời.
Học như vậy học sinh nó thích lắm chị à, vừa học vừa chơi em nào mà được
em thu mảnh giấy nhỏ là khoái lắm vỗ tay, bắt tay nhau hô to “yeh”, mai cô cho chơi
nữa nha cô!
Và cũng có lần tận tai tôi nghe thấy các em đang nói chuyện với nhau trước
hành lang lớp học khi tôi ngồi trong lớp chấm bài “ Tui” thích học Tập Đọc mà được
vẽ, được chơi mới đã. Có em nói “ làm bài tập cũng thích nữa ha!”. Bạn ghét nhất là
mấy câu hỏi nghĩ mãi mà chẳng biết trả lời khó như tinh, ….
Vậy là những giải pháp của tôi ít nhiều gì cũng lôi cuốn các em vào tiết học
Tập Đọc, giúp các em bớt căng thẳng trong khi tìm hiểu bài, các em hiểu bài một
cách thoải mái không “ gò ép”, ……
Với những lời tâm sự, những cử chỉ hành động xuất phát từ việc hiểu bài, ham
thích học của các em cũng là nguồn động lực thôi thúc tôi và các bạn hãy cố gắng
suy nghĩ và tìm ra các hình thức tổ chức dạy học mới nhằm hướng tới mục đích nâng
cao hiệu quả giảng dạy.
Các thầy cô giáo Tiểu học ơi! Hãy dang rộng vòng tay để đón chào những
mầm non tương lai của đất nước đang đón chờ sự trợ giúp nhiệt tình và đầy sáng tạo
của các thầy cô.
Các bậc phụ huynh và xã hội luôn luôn đặt niềm tin vào các thầy cô giáo Tiểu
học, những người tiên phong trong công tác trồng người, gieo mầm sống và ủ ấp
9
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hoàng Hà
mầm sống cho đời. Chính vì thế, chúng ta phải làm sao để đáp lại lòng tin yêu, sự
kính trọng và tình yêu thương mà xã hội đã giành cho mình. Con đường duy nhất mà
chúng ta cần lựa chọn “ Siêng suy nghĩ thì sẽ có sáng kiến” thể hiện “ Sáng kiến”
bằng chính “ Cái tâm” của người giáo viên tận tụy, nhiệt tình, tâm huyết với nghề

trong môi trường giáo dục thân thiện.
Phú Trinh, ngày 14 tháng 04 năm 2010
Người viết
Nguyễn Thị Hoàng Hà

10

×