Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.65 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"ĐỔI MỚI CÁCH KT ĐG KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN CÔNG
NGHỆ BẬC THPT"
LỜI NÓI ĐẦU
Đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục phổ thông nói chung
và giáo dục THPT nói riêng là vấn đề được đặt ra và thực hiện từ nhiều năm nay . Để
thực hiện vấn đề này, đã có nhiều những hình thức và biện pháp dạy học được triển
khai như: dạy học nêu vấn đề, tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học…
Những biện pháp và hình thức đó, trong quá trình thực hiện, đã góp phần thúc đẩy đổi
mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên và chất lượng
học tập của học sinh. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học, bên cạnh
các biện pháp, hình thức dạy học như trên thì việc đổi mới KT - ĐG kết quả học tập
của học sinh là vô cùng quan trọng. KT - ĐG là một khâu không thể thiếu trong quá
trình dạy học. Đó là một yêu cầu khách quan đối với việc phát triển lí luận dạy học nói
chung cũng như phương pháp dạy học địa lí nói riêng. Đánh giá được xem là công cụ
quan trọng chủ yếu xác định năng lực nhận thức người học, điều chỉnh quá trình dạy
học. Đổi mới KT - ĐG sẽ tạo động lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, góp
phần nâng cao chất lượng, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Vậy, thế nào là đổi mới KT - ĐG ? KT - ĐG như thế nào để nâng cao hiệu quả
giảng dạy, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục? KT - ĐG trong môn Công nghệ bậc
THPT như thế nào để đảm bảo mục tiêu bộ môn? Đó là những câu hỏi lớn mà cá nhân
tôi cũng chưa có lời giải cụ thể. Nhưng, xuất phát từ thực tế giảng dạy, dưới đây, tôi
xin trình bày những kinh nghiệm của bản thân trong việc KT - ĐG kết quả học tập của
học sinh, theo cá nhân tôi, những biện pháp và hình thức kiểm tra như vậy đã có tác
dụng tích cực đến các hoạt động dạy học của giáo viên chất lượng học tập của học
sinh.
Những kinh nghiệm mà tôi trình bày sau đây chỉ mang tính chất cá nhân, do đó
sẽ khó tránh khỏi suy nghĩ chủ quan và chắc sẽ có nhiều điểm chưa phù hợp, vì vậy rất
mong nhận được sự góp ý của các đồng chí.


Xin chân thành cảm ơn!
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kiểm tra và đánh giá (KT - ĐG) là hai khâu trong một quy trình thống nhất
nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiểm tra là thu thập thông tin từ
riêng lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá là xác định mức
độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá kết quả học tập thực chất là việc
xem xét mức độ đạt được của hoạt động học của HS so với mục tiêu đề ra đối với từng
môn học, từng lớp học, cấp học. Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hoá thành các
chuẩn kiến thức, kĩ năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành KT - ĐG kết quả học tập
môn học, cần phải thiết kế thành những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về định
tính và định lượng kết quả học tập của HS.
Môn Công Nghệ là một môn học trong chương trình học bậc trung học phổ thông
(THPT), nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh phổ thông,
thực hiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như nguyện vọng của toàn xã hội trong
thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ.
Từ lâu Ngành Giáo dục quá chú ý đến đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH), nhưng ít chú ý đến khâu KT - ĐG, đây là vấn đề cốt lõi đã ảnh hưởng đến
hiệu quả của việc cải tiến đổi mới PPDH. KT - ĐG là một thành tố của quá trình sư
phạm, nó giúp quá trình sư phạm được thực hiện toàn vẹn có hiệu quả, vì thế
từ lâu các nhà lý luận đã xem KT - ĐG có vai trò như nội dung.
Xuất phát từ quan niệm chất lượng giáo dục phổ thông là sự phù hợp với mục tiêu
giáo dục phổ thông, quá trình sư phạm là một quá trình thống nhất toàn vẹn được cấu
trúc bởi các thành tố: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục,
người dạy, người học, KT - ĐG kết quả… Tôi cho rằng việc cải tiến đổi mới kiểm tra
KT - ĐG môn Công Nghệ có vai trò hết sức quan trọng đối với việc vận dụng quan
niệm dạy học mới “Dạy-học hướng tập trung vào người học”. Đổi mới PPDH nhưng
KT-ĐG không đổi mới đương nhiên sẽ hạn chế việc đổi mới PPDH. Chính cách KT -
ĐG của giáo viên làm thay đổi cách học của học sinh.
Từ thực trạng trên, để việc KT - ĐG đạt hiệu quả tốt hơn và để đáp ứng được mục

tiêu giáo dục, tạo nên sự công bằng trong đánh giá tôi đã mạnh dạn đưa ra đề tài:
‘‘Đổi mới cách KT - ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT ’’
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Ở bậc THPT, việc học môn Công nghệ là môn học có nhiều kiến thức mới mẻ và
mang tính chất khoa học. Đặc thù của môn học công nghệ là môn học khó truyền đạt
đối với giáo viên, khó làm đối với học sinh. Là môn học có rất nhiều kiến thức mới,
trừu tượng mang tính công nghiệp. Chính vì lý do đó mà phân phối chương trình của
Bộ giáo dục và đào tạo đã dành cho khối 12 là 35 tiết, khối 11 là 52 tiết.
Chính vì vậy việc đổi mới KT- ĐG là vấn đề cần thiết hiện nay. Vì nó đánh giá
được học sinh có thể hiểu và nhớ được những kiến thức cơ bản của môn học, chủ yếu
là nhớ ý nghĩa theo hệ thống kiến thức của chương trình. Đánh giá được việc áp dụng
kiến thức để giải quyết tình huống cụ thể, sự độc lập sáng tạo của học sinh. Đánh giá
được động cơ, hứng thú, thái độ học tập của học sinh.
3. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về dạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách, trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia bảo vệ tổ quốc”. Trong các trường THPT hiện
nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà còn dạy học như thế nào. Đổi
mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính chất đột phá để nâng cao
chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách
đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho
đến KT - ĐG kết quả dạy học. KT - ĐG có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất
lượng đào tạo. Kết quả của KT - ĐG là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động
học và quản lý giáo duc. Nếu KT - ĐG sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo
gây tác hại to lơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới KT - ĐG trở thành
nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. KT - ĐG đúng thực tế,
chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng

tạo trong học tập.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ năng
môn công nghệ” trong trường THPT bao gồm cả thầy và trò.
Về phía Thầy:
- Có kiến thức về phương pháp dạy học, phương pháp KT - ĐG. Đặc biệt là phải
nắm vững chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học.
- Có kiến thức sâu về chuyên ngành được đào tạo.
- Biết phối hợp các phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, cách
KT - ĐG sao cho phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau để có kết quả giáo
dục cao nhất.
Về phía trò:
- Tích cực chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, có khả năng tư duy sáng tạo
trong quá trình học tập.
- Có khả năng tư duy, tổng hợp kiến thức để nắm bắt được các kiến thức đã học
trong sách và kiến thức thu được ở ngoài đời sống thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài ‘‘Đổi mới cách KT - ĐG kết quả học tập môn Công
nghệ bậc THPT ’’ được xây dựng và thực hiện trong các giờ lên lớp, các bài kiểm tra
15 phút, 45phút và học kỳ tại trường THPT Hậu Lộc 2 từ năm học 2012 đến nay.
PhầnII. NỘI DUNG.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
1. Khái niệm kiểm tra đánh giá:
a. Khái niệm kiểm tra.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem xét
thực chất, thực tế. Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát xét lại
công việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Còn theo Trần
Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc
đánh giá.

Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với nghĩa
là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế để đánh giá
và nhận xét.
Trong giáo dục, kiểm tra có các hình thức như kiểm tra thường xuyên (kiểm tra
hàng ngày), kiểm tra định kì (kiểm tra hết chương, hết phần ) và kiểm tra tổng kết
(kiểm tra cuối học kì).
Kiểm tra là theo dõi, sự tác động của người kiểm tra đối với người học nhằm thu
được những thông tin cần thiết cho việc đánh giá.
Kiểm tra có 3 chức năng bộ phận liên kết, thống nhất, thâm nhập vào nhau và bổ
sung cho nhau đó là: đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh.
Về mặt lý luận dạy học, kiểm tra có vai trò liên hệ nghịch trong quá trình dạy
học. Kiểm tra biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá trình học
của trò để từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của cả thầy lẫn trò. Học
sinh sẽ học tốt hơn nếu thường xuyên được kiểm tra và được đánh giá một cách
nghiêm túc, công bằng với kỹ thuật cao và đạt kết quả tốt.
b. Khái niệm đánh giá
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả công
việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu,
tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng,
điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu qủa công việc. Theo Đại từ điển Tiếng Việt
của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét bình phẩm về giá trị. Theo từ điển Tiếng Việt
của Văn Tân thì đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị của một người hoặc một vật.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và xử lý
kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ vào mục
tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong giáo dục
tiếp theo. Cũng có thể nói rằng đánh giá là quá trình thu thập phân tích và giải thích
thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt đến của các mục tiêu giáo dục
về phía học sinh. Đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng hay định
tính.
Như vậy đánh giá là việc đưa ra những kết luận nhận định, phán xét về trình độ

học sinh. Muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh thì việc đầu tiên là phải kiểm
tra, soát xét lại toàn bộ công việc học tập của học sinh, sau đó tiến hành đo lường để
thu thập những thông tin cần thiết, cuối cùng là đưa ra một quyết định. Do vậy kiểm
tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau.
Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và đánh giá thông qua kết quả của kiểm
tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất là KT - ĐG.
Đánh giá kết quả học tập là quá trình đo lường mức độ đạt được của học sinh về
các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học. Mô tả một cách định tính và định
lượng: tính đầy đủ, tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững chắc của kiến thức, mối
liên hệ của kiến thức với đời sống, các khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời nói, bằng văn viết, bằng chính ngôn
ngữ chuyên môn của học sinh… và cả thái độ của học sinh trên cơ sở phân tích các
thông tin phản hồi từ việc quan sát, kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
được giao, đối chiếu với những chỉ tiêu, yêu cầu dự kiến, mong muốn đạt được của
môn học.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình phức tạp và công phu. Vì
vậy để việc đánh giá kết quả học tập đạt kết quả tốt thì quy trình đánh giá gồm những
công đoạn sau:
- Phân tích mục tiêu học tập thành các kiến thức, kỹ năng.
- Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kỹ năng dựa trên những
dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được.
- Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về các yêu
cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số.
- Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đề ra rồi đánh giá,
xem xét kết quả học tập của học sinh, mức độ thành công của phương pháp giảng dạy
của giáo viên… để từ đó có thể cải tiến, khắc phục nhược điểm.
- Trong đánh giá phải quán triệt nguyên tắc vừa sức, bám sát yêu cầu của
chương trình.
2. Mục đích, ý nghĩa, vai trò của KT - ĐG kết quả học tập của học sinh
a. Mục đích của việc KT-ĐG

Công khai hóa nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh và tập
thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra
sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập.Giúp cho giáo viên có cơ sở
thực tế để nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của mình, tự hoàn thiện hoạt động
dạy, phân đấu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Như vậy, KT - ĐG không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng,
điều chỉnh hoạt động của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định ra thực trạng và
điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
b. Ý nghĩa của việc KT - ĐG
KT - ĐG có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh, giáo viên và đặc biệt là
đối với cán bộ quản lí.
* Đối với học sinh:
- Việc KT - ĐG có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp thời những thông tin
"liên hệ ngược" giúp người học điều chỉnh hoạt động học.
- Về giáo dưỡng chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học đến mức độ
nào, còn thiếu sót nào cần bổ khuyết.
- Về mặt phát triển năng lực nhận thức giúp học sinh có điều kiện tiến hành các
hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến
thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến
thức để giải quyết các tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập, có ý chí
vươn lên đạt những kết quả cao hơn, cũng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng
cao ý thức tự giác, khắc phụ tính chủ quan tự mãn.
* Đối với giáo viên:
- Việc KT - ĐG học sinh cung cấp cho giáo viên những thông tin "liên hệ ngược
ngoài", qua đó rút kinh nghiệm, điều chỉnh lại mục tiêu, lựa chọn phương pháp và nội
dung trọng tâm trong quá trình giảng dạy.
- KT - ĐG kết hợp với việc theo dõi thường xuyên giúp cho giáo viên nắm được
một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình độ mỗi học sinh trong lớp, từ đó có
biện pháp cụ thể, thích hợp bồi dưỡng riêng cho từng nhóm học sinh, nâng cao chất

lượng học tập chung cho cả lớp.
* Đối với cán bộ quản lí giáo dục:
Cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục những thông tin về thực trạng dạy và học
trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn được những lệch lạc,
khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
c. Vai trò của KT - ĐG trong dạy học hiện nay
Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà còn
dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính
chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi
phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương pháp dạy học cho đến KT - ĐG kết quả dạy học. KT - ĐG có vai trò rất to lớn
đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của KT - ĐG là cơ sở để điều chỉnh
hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo dục. Nếu KT - ĐG sai dẫn đến nhận
định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to lơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực.
Vậy đổi mới KT - ĐG trở thành nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội
ngày nay. KT - ĐG đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin,
hăng say học tập, nâng cao năng lực sáng tạo của bản thân trong học tập.
3. Chức năng của KT - ĐG:
Kiểm tra gồm 3 chức năng bộ phận liên kết thống nhất với nhau đó là: đánh giá,
phát hiện lệch lạc và điều chỉnh.
Nhờ đánh giá sẽ phát hiện ra cả những mặt tốt lẫn mặt chưa tốt trong trình độ đạt
tới của học sinh, trên cơ sở đó tìm hiểu kỹ nguyên nhân của những lệch lạc, về phía
dạy cũng như phía học, hoặc có thể từ khách quan. Phát hiện ra lệch lạc, tìm ra nguyên
nhân của lệch lạc là rất quan trọng. Vì sự thành đạt trong kết quả là điều đã dự kiến
trong mục tiêu, còn những lệch lạc thường bị bỏ qua, mà nếu sửa chữa loại trừ chúng
thì chất lượng sẽ được tốt lên.Từ đánh giá và phát hiện lệch lạc giáo viên điều chỉnh,
uốn nắn, loại trừ những lệch lạc đó, tháo gỡ những khó khăn trở ngại, thúc đẩy chất
lượng dạy học lên rất nhiều.
4. Bản chất của KT - ĐG.
Trong dạy học, KT - ĐG là một vấn đề hết sức phức tạp, nếu không cẩn thận dễ

dẫn đến sai lầm. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học nhất thiết phải đổi mới, cải cách
KT - ĐG, sử dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, có độ tin cậy cao, bên cạnh đó còn có
công cụ KT - ĐG cho học sinh để họ tự đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức của bản
thân mình, từ đó điều chỉnh uốn nắn việc học tập của bản thân.
Như vậy, việc KT - ĐG của người dạy phải khuyến khíchvà thúc đẩy được sự tự
KT - ĐG của người học. Hai mặt này phải thống nhất biện chứng với nhau. KT - ĐG
phải có tác dụng làm cho học sinh thi đua học tốt với chính mình chứ không phải để
ganh đua với người khác.
5. Các tiêu chuẩn về nhận thức áp dụng cho bài KT - ĐG.

Có 6 tiêu chuẩn về quá trình nhận thức được áp dụng cho KT - ĐG: đó là các
mức độ nhận thức đi từ thấp đến cao của hoạt động tư duy.
- Biết (còn gọi là nhớ lại):đây là khả năng thấp nhất trong lĩnh vực kiến thức.
- Hiểu: là kỹ năng học sinh hiểu được vấn đề họ biết, có khả năng áp dụng những kiến
thức đã biết vào việc giải quyết những vấn đề mới.
- Ứng dụng: là khả năng vận dụng các kiến thức quy luật, khái niệm, định luật…
nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể. Học sinh có khả năng tư duy tốt sẽ vận dụng
kiến thức tốt.
- Phân tích: là khả năng tách ra từng phần để nghiên cứu, để tìm hiểu rõ đối tượng hay
hiện tượng. Phân tích còn là sự phân biệt các dấu hiệu, các đặc tính riêng biệt của đối
tượng hay hiện tượng đó theo một hệ thống nhất định.
- Tổng hợp: Là kỹ năng kết hợp các yếu tố riêng biệt để rút ra những cái chung, các
bản chất nhất của đối tượng hay hiện tượng, tức là những dấu hiệu trong một tổng thể
phân tích và tổng hợp có sự liên kết mật thiết với nhau là hai mặt của một quá trình tư
duy thống nhất, nó có tác dụng quan trọng trong việc lĩnh hội các khái niệm khoa học.
- Đánh giá: Có thể coi là mức độ cao nhất của sự phát triển các kỹ năng về trí tuệ.
Dựa trên sự hiểu biết những phân tích và tổng hợp để rút ra kết luận đúng nhất, chính
xác nhất, xem xét kết luận này có ưu nhược điểm gì, có vai trò ra sao, tiến hành áp
dụng nó thế nào. Đó chính là kỹ năng mà có thể đề xuất việc nhận định chất lượng học
tập của học sinh.

6. Quy trình của việc KT - ĐG.
Về cơ bản quy trình này gồm 5 bước:
Bước 1: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu về nội dung KT - ĐG và tiêu chí KT - ĐG (KT
-ĐG cái gì? cho điểm số thế nào?) tương ứng với hệ thống mục tiêu dạy học đã được
cụ thể hoá đến chi tiết.
Bước 2: Thiết kế công cụ KT - ĐG (hay lựa chọn hình thức KT - ĐG) và kế hoạch sử
dụng chúng, tuỳ theo mục đích KT - ĐG mà có thể lựa chọn các dạng kiểm tra (kiểm
tra sơ bộ, kiểm tra thường ngày, kiểm tra định kỳ và kiểm tra tổng kết); hoặc các hình
thức kiểm tra (kiểm tra miệng, viết 15', 45', học kỳ).
Bước 3: Thu nhập số liệu KT - ĐG: theo đáp án, bảng đặc trưng, giáo viên chấm bài
kiểm tra, thống kê điểm kiểm tra.
Bước 4: Xử lý số liệu
Bước 5: Hình thành hệ thống kết luận về việc KT - ĐG và đưa ra những đề xuất điều
chỉnh quá trình dạy học.
7. Những yêu cầu và nguyên tắc để KT - ĐG kết quả học tập của học sinh
a. Những yêu cầu sư phạm cần tuân thủ khi KT - ĐG kết quả học tập của học
sinh
Khi KT - ĐG cần phải tuân thủ những yêu cầu sau:
- KT - ĐG phải xuất phát từ mục tiêu dạy học.
- Công cụ KT - ĐG phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định.
- KT - ĐG phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công khai.
- KT - ĐG phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ KT - ĐG.
b. Những nguyên tắc để KT-ĐG kết quả học tập của học sinh
Để KT - ĐG kết quả học tập cần dựa vào những nguyên tắc mang tính tổng quát
và cụ thể.
Những nguyên tắc mang tính tổng quát:
- KT - ĐG là quá trình tiến hành, có hệ thống để xác định phạm vi đạt được của
các mục tiêu đề ra. Vậy, phải xác định rõ mục tiêu KT - ĐG là gì.
- Khi KT - ĐG phải chọn mục tiêu KT - ĐG rõ ràng, các mục tiêu phải được
biểu hiện dưới dạng những điều có thể quan sát được.

- Khi KT - ĐG giáo viên phải biết nó là phương tiện để di đến mục đích, chứ bản
thân không phải là mục đích. Mục đích KT - ĐG là để có nhưng quyết định đúng đắn,
tối ưu nhất cho quá trình dạy học.
- KT - ĐG bao giờ cũng gắn với việc học tập của học sinh, nghĩa là trước tiên
phải chú ý đến việc học tập của học sinh. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập của
học sinh, cuối cùng mới KT - ĐG bằng điểm số.
- KT - ĐG bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai
sót của mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trao đổi thêm
kiến thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát
hiện ra những sai sót trong quá trình dạy và KT - ĐG của mình để thay đổi cách dạy
sao cho phù hợp với học sinh.
- Trong KT - ĐG nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau nhằm
tăng độ tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình KT - ĐG.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để KT - ĐG giúp học sinh
định hướng khi trả lời.
- Phải dựa trên những cơ sở của phương phá dạy học mà xem xét kết quả của
một câu trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết
định về mặt sư phạm.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu hỏi
yêu cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.
- Phương pháp và cách thức tiến hành KT-ĐG phải diễn ra trong hoàn cảnh thoải
mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một cách
chắc chắn được.
B. CÁC PHUƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
I. KT - ĐG bằng phương pháp quan sát
1. Bản chất
Phương pháp quan sát là phương pháp trong đó GV tổ chức cho HS sử dụng các

giác quan để tri giác có mục đích đối với các đôí tượng trong tự nhiên và xã hội mà
không có sự can thiệp vào các quá trình diễn biến của các hiện tượng hoặc sự vật đó.
2. Quy trình thực hiện
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát
Tuỳ theo nội dung học tập, GV sẽ chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ
HS và điều kiện địa phương.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát.
Trong quá trình quan sát không phải lúc nào học sinh cũng rút ra được những
đặc điểm của đối tượng. Vì vậy, với mỗi đối tượng, GV cần xác định mục đích của
việc quan sát.
Bước 3: Tổ chức và hướng dẫn HS quan sát.
- Có thể tổ chức cho HS quan sát cá nhân, quan sát theo nhóm hoặc cả lớp. Điều
đó phụ thuộc vào số đồ dùng chuẩn bị được và năng lực quản lý của GV.
- Sử dụng những câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh:
+ Quan sát tổng thể rồi mới đi đến bộ phận, chi tiết.
+ Quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong.
+ So sánh với các đối tượng cùng loại (mà các em đã biết) để tìm ra những đặc
điểm giống nhau và khác nhau.
Bước 4: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả quan sát được về đối tượng.
3. Ưu điểm:
- HS được sử dụng phối hợp nhiều giác quan để tri giác sự vật, hiện tượng, hình
thành được các biểu tượng, khái niệm cụ thể về hiện tượng
- Tạo hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tò mò khám phá
khoa học.
- Phát triển tư duy và nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
4. Hạn chế
Không phải lúc nào cũng tìm được đối tượng quan sát phù hợp với nội dung học
tập.
5. Một số lưu ý
- Đối với môn Công nghệ đối tượng quan sát của HS không chỉ là tranh ảnh, mẫu

vật, mô hình mà còn là các đoạn phim, các dụng cụ thực tế trong sinh hoạt hàng ngày
trong tự nhiên và xã hội…Vì vậy GV có thể tổ chức cho HS quan sát ở trong lớp hay
ngoài thực tế hay có thể đi tới các xí nghiệp, nhà máy. GV nên sử dụng đối tượng quan
sát như là nguồn thi thức để tổ chức cho HS tiến hành các hoạt động học tập, từng
bước phát hiện ra kiến thức mới.
II. KT - ĐG bằng phương pháp vấn đáp
1. Bản chất
Phương pháp vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp, trong đó giáo viên đặt ra
những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và cả giáo viên, qua
đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhân thức, người ta phân biệt 3 hình thức vấn đáp
sau:
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lơì dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đó là hình thức được dùng khi cần đặt
mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức
vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một vấn đề nào đó,
GV lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để HS dễ hiểu, dễ nhớ.
Hình thức này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn.
- Vấn đáp gợi mở (hay còn gọi là vấn đáp tìm tòi): GV dùng một hệ thống câu hỏi
được sắp xếp hợp lý để dẫn dắt HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy
luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.
Trong quá trình dạy học, GV có thể sử dụng cả 3 hình thức, tuy nhiên cần khuyến
khích GV sử dụng hình thức vấn đáp tìm tòi.
2. Quy trình thực hiện
Ở bậc học THPT, GV thường tổ chức hoạt động của HS trong phương pháp vấn đáp
theo các bước sau:
- Bước 1: GV đặt câu hỏi nhỏ, riêng rẽ.
- Bước 2: GV chỉ định từng HS trả lời hoặc để học sinh tự nguyện trả lời (mỗi học
sinh trả lời một câu hỏi và trước mỗi câu hỏi nên để thời gian cho HS suy nghĩ câu trả lời)

- Bước 3: GV tổng hợp ý kiến và nêu ra kết luận dựa trên những câu trả lời đúng
của HS
3. Ưu điểm
- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS
- Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.
- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
4. Hạn chế
Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp đàm
thoại thì mang một số hạn chế sau:
- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.
- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các thành
viên của lớp với nhau.
5. Một số lưu ý
- Giáo viên cần chuẩn bị thật tốt hệ thống câu hỏi. Các câu hỏi có liên quan chặt
chẽ với nhau, câu hỏi trước là tiền đề cho câu hỏi sau, câu hỏi sau là sự kế tục và phát
triển kết quả của câu hỏi trước. Mỗi câu hỏi là một cái “nút” của từng bộ phận mà HS cần
lần lượt tháo gỡ thì mới được kết quả cuối cùng.
- Để tăng thêm hiệu quả của việc sử dụng phương pháp vấn đáp, GV cần tổ chức
đối thoại theo nhiều chiều: GV  HS, HS HS; và HS GV.
III. KT - ĐG bằng phương pháp viết.
1. Phương pháp trắc nghiệm tự luận
a. Khái niệm.
Trắc nghiệm tự luận là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc sử dụng
công cụ đo lường là các câu hỏi. Thông thường một bài thi thường có 1 đến 5 câu hỏi,
học sinh phải trả lời dưới dạng một bài viết trong một khoảng thời gian định trước,
đây là phương pháp thông dụng nhất hiện nay
Bài trắc nhiệm tự luận cần bao gồm cả nội dung định tính lẫn định lượng, có như
thế khi làm bài học sinh mới thể hiện hết những hiểu biết của mình về vấn đề đã học
cũng như khả năng vận dụng hiểu biết đó vào những tình huống khác nhau.
Khi chọn nội dung kiểm tra giáo viên cần chú ý đến trình độ chung của học sinh

trong lớp và thời gian cần thiết để hoàn thành bài làm. Không nên chỉ chọn một đề bài,
mà cần chọn nhiều đầu bài có nội dung tương đương nhau nhưng hỏi về nhiều khía
cạnh khác nhau.
b. Ưu điểm
- Có thể đo được nhiều trình độ nhận thức theo hệ thống phân loại B.Bloom, đặc
biệt là ở trình độ tổng hợp. Không những kiểm tra được kiến thức học sinh mà còn
kiểm tra được kỹ năng kỹ xảo về giải bài tập, thực hiện các phép tính, vẽ đồ thị, chứng
minh các công thức.
- Có thể kiểm tra đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự hiểu biết những
ý niệm sở thích và diễn đạt tư tưởng.
- Hình thành cho học sinh thói quen suy diễn, khái quát, phát huy tính độc lập
sáng tạo
- Việc chuẩn bị câu hỏi rễ hơn, ít tốn kém hơn so với trắc nghiệm khách quan.
c. Nhược điểm
- Độ tin cậy thấp do số lượng câu hỏi hạn chế và việc chọn mẫu câu hỏi thiếu
tính chất tiêu biểu, độ tin cậy còn bị giảm đi vì phụ thuộc vào tính chất chủ quan, trình
độ của người chấm.
- Độ giá trị thấp do phụ thuộc vào yếu tố chủ quan khi chấm bài. Cùng một bài
thi cùng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác nhau hoặc hai người chấm độc
lập thì điểm số hầu như khác nhau.
- Việc chấm điểm khó chính xác so với trắc nghiệm khách quan.
2. Phương pháp trắc nghiệm khách quan
a. Khái niệm.
Trắc nghiệm khách quan (objective test), là một cụm từ đã xuất hiện trên thế giới
hàng trăm năm nay, theo các nhà nghiên cứu cũng như những nhà thực tiễn thường gọi
cụm từ này để chỉ hình thức tổ chức kiểm tra hoặc hình thức tổ chức thi cử, bằng cách
cho thí sinh lựa chọn và đánh dấu lên các mẫu tự để trả lời các câu hỏi trực tiếp hoặc
gián tiếp của đề thi.
Trắc nghiệm có thể hiểu như là một hoạt động kiểm tra và đo lường
kiến thức cũng như năng lực của các đối tượng nào đó, nhằm mục đích xác định. Đề

thi trắc nghiệm thường gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu hỏi nêu ra một vấn đề cùng với
những thông tin cần thiết, sao cho thí sinh phải trả lời vắn tắt cho từng câu là trắc
nghiệm khách quan (TNKQ).
Kiểu câu hỏi TNKQ phổ biến là câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn (multiple choise
questions - gọi tắt là MCQ). MCQ có 2 phần: phần đầu gọi là phần dẫn (hay câu dẫn),
nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi; phần sau là các
phương án dành cho học sinh lựa chọn để trả lời (thông thường phần trả lời của mỗi
câu hỏi , có 4 lựa chọn A, B, C, D). Học sinh trả lời chỉ được quyền chọn một câu
đúng nhất. Các câu hỏi đồng nhất về hình thức và điểm số, điều này thuận lợi cho việc
chấm và tính điểm bằng máy. Thời gian làm một bài kiểm tra chỉ trong 45 phút với
khoảng 40 đến 50 câu trắc nghiệm. Đề thi trắc nghiệm gồm nhiều câu hỏi, được lấy ra
ngẫu nhiên, theo những yêu cầu nhất định từ ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm. Ngân
hàng này được "xây dựng" quanh năm, do đó có thể gia công những câu trắc nghiệm
có độ chính xác cao và có thể xác định các đặc trưng của câu hỏi như độ khó, độ dễ
trước khi làm đề. Bài thi trắc nghiệm được chấm tự động trên máy quét quang
học, nên thí sinh được phát đề thi in sẵn, được phát một phiếu trả lời trắc nghiệm.
Khi trả lời cho câu hỏi trắc nghiệm nào thì học sinh chọn phương án đúng nhất (A
hoặc B, C, D) và phải làm động tác "tô đen" - tức là dùng bút chì đen loại mềm (2B,
6B) tô kín ô tròn tương ứng với một trong các chữ cái. Tô kín cả ô thật đậm để máy
chấm có thể ghi nhận được. Trong trường hợp tô nhầm hoặc muốn thay đổi câu trả lời,
học sinh phải dùng tẩy xóa thật sạch ô cũ và tô kín các ô khác (nếu tẩy không sạch
máy tính sẽ xem như có 2 ô được tô đen, câu đó sẽ không được chấm điểm). Nếu học
sinh trả lời ngay trên đề thi hoặc giấy nháp thì coi như không hợp lệ, toàn bộ bài làm
sẽ không được chấm.
b. Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan
- Phạm vi kiến thức và kĩ năng rộng hơn nhiều so với tự luận. Thi tự luận, mỗi
câu hỏi, bài tập có thể rơi vào một vấn đề nào đó. Đề bài có tổng hợp đi chăng nữa vẫn
có xác suất trúng “tủ”. Tuy nhiên, với mỗi đề thi TNKQ có khoảng 40 đến 50 câu hỏi
có thể phủ kín phạm vi kiến thức của một môn học .Vì vậy thi bằng TNKQ, học sinh
không thể học “tủ” mà phải học toàn diện.

- Tiết kiệm thời gian : tiết kiệm thời gian coi thi vì thời gian làm bài trắc nghiệm
phải ngắn, tiết kiệm được thời gian chấm bài rất nhiều.
- Có tính tiện ích : Có thể sử dụng các phương tiện hiện đại trong chấm bài
và phân tích kết quả kiểm tra của HS (nếu bài thi trắc nghiệm được thiết kế trên máy
tính). Chấm bài nhanh, chính xác, khách quan, dễ cho điểm, đáng tin cậy.
- Sự may rủi hầu như không có: Vì một đề thi trắc nghiệm trải rộng gần toàn bộ
chương trình. Việc chọn ngẫu nhiên cũng có xác suất đúng được 25%. Nhưng tần suất
trả lời đúng đạt tối đa của xác suất này cũng chỉ là khoảng 25% câu hỏi
c. Nhược điểm của trắc nghiệm khách quan
- Tốn rất nhiều thời gian ở khâu chuẩn bị, soạn đề
- Khuyến khích đoán mò: thí sinh vẫn có thể suy đoán nếu không nắm bài đầy
đủ
- Dễ quay cóp lúc làm bài : vì đáp án chỉ là a, b, c, d nên rất dễ đọc kết quả cho
nhau nên đòi hỏi khâu coi thi phải chặc chẽ, nghiêm túc
- Khó khăn trong việc soạn nội dung đề trắc nghiệm: Người soạn TNKQ thường
chủ quan, vì cho rằng TNKQ soạn dễ. Kết quả là: bộ câu hỏi thường rời rạc, chuyên
biệt, không bao quát, thường không quan tâm đúng mức đến các kĩ năng phân tích và
tổng hợp.
d. Các hình thức của câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Về hình thức của câu hỏi trắc nghiệm khách quan: Hiện nay có khoảng 5 dạng
câu
hỏi trắc nghiệm khách quan thường được sử dụng để soạn thảo câu hỏi cho các đề
kiểm tra và đề thi trong các trường phổ thông; đó là Câu trả lời ngắn, câu trả lời đúng
sai, Câu hỏi tương thích, Câu hỏi lựa chọn đa phương án, Câu hỏi gốc là
dạng câu hỏi tổng quát …
* Dạng câu trả lời ngắn
* Yêu cầu: Trả lời một câu hỏi hoặc điền thêm vào một câu cho đúng nghĩa bằng
một từ, một nhóm từ, một ký hiệu, một công thức…
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng

- Học sinh không thể đoán mò
* Nhược điểm
- Chỉ được dùng để kiểm tra trình độ mức độ nhận biết, hiểu.
- Đôi khi khó đánh giá chính xác nội dung trả lời
* Những điểm cần lưu ý:
- Nội dung của phần trả lời càng cô đọng càng tốt
- Nên dùng câu hỏi trực tiếp hơn là câu điền khuyết
- Chú ý về yêu cầu của đơn vị tính trong câu trả lời bằng số có thứ nguyên
- Khoảng trống dành cho các câu trả lời nên bằng nhau để tránh sự đoán mò
* Ví dụ: Hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống sao cho phù hợp.
Mạch điện tử là ………… mắc phối hợp giữa các linh kiện ………… để thực hiện
một chức năng nào đó trong kĩ thuật điện tử
* Dạng câu hỏi đúng - sai
* Yêu cầu: Chọn một trong hai phương án: Đúng – Sai, Phải – Không phải,
Đồng ý – Không đồng ý.
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng
- Có thể ra nhiều câu một lúc vì ít tốn thời gian cho mỗi câu, vì vậy nội dung bao
phủ chương trình rộng hơn.
* Nhược điểm
- Thường chỉ được dùng để kiểm tra mức độ nhận biết, hiểu.
- Tỷ lệ đoán mò đúng cao.
* Những điều cần lưu ý:
- Tránh dùng câu phủ định nhiều lần.
- Lưu ý đến tính chặt chẽ khi dùng câu gồm hai mệnh đề có liên hệ nhân - quả.
* Ví dụ: Em hãy tích vào đáp án.
- Điện trở là linh kiện bán dẫn Đúng Sai
- Lắp tụ hoá cần phải mắc đúng cực Đúng Sai
* Dạng câu hỏi tương thích
* Yêu cầu: Lựa chọn sự tương đương hoặc sự phù hợp cho mỗi cặp thông tin từ

2 cột đối xứng.
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng
- Có thể hạn chế sự đoán mò bằng cách tăng lượng thông tin trong bảng chọn.
* Nhược điểm
- Chủ yếu dùng để kiểm tra nhận biết
- Thông tin có tính dàn trải, không nhấn mạnh được những điều quan trọng.
* Ví dụ: Hãy nối ý cột bên trái sao cho phù hợp với cột bên phải
Triac Có 1 lớp tiếp giáp P - N
Tirixto Có 2 lớp tiếp giáp P - N
Tranzito Có 3 lớp tiếp giáp P - N
Điốt Có 4 lớp tiếp giáp P - N
* Dạng câu hỏi lựa chọn đa phương án
* Yêu cầu: Lựa chọn một phương án trả lời đúng hoặc đúng nhất trong các
phương án đã chọn.
* Ưu điểm
- Có thể sử dụng để kiểm tra các kỹ năng kiến thức bậc cao.
- Hạn chế được khả năng đoán mò của học sinh.
- Đánh giá chính xác kiến thức, kỹ năng của học sinh.
* Nhược điểm
- Khó biên soạn các câu dùng để đánh giá các kỹ năng đánh giá nhận thức bậc cao
hơn.
- Vì có nhiều phương án được chọn nên khó xây dựng hệ thống câu hỏi có chất
lượng cao.
- Tồn tại tỷ lệ đoán mò phụ thuộc vào tỷ lệ phương án được cho.
* Những điểm cần lưu ý:
- Không nên đưa nhiều ý khác nhau trong cùng 1 phương án
- Cần cẩn thận khi đưa vào phương án “tất cả câu trên đều đúng” hoặc “tất cả câu
trên đều sai”.
* Ví dụ: Mạch nào không phải là mạch điện tử điều khiển

A. Mạch tạo xung C. Báo hiệu và bảo vệ điện
áp
B. Tín hiệu giao thông D. ĐK bảng điện tử
* Dạng câu hỏi gốc
Là dạng câu hỏi tổng quát, có thể lắp ghép với các nội dung cụ thể nhằm đưa ra
các câu hỏi trắc nghiệm hoàn chỉnh.
Một số dạng câu hỏi gốc: chi làm 2 nhóm
+ Nhóm 1: Hiểu biết khái niệm
- Chọn định nghĩa đúng cho khái niệm…
- …………… có nghĩa là
- Khái niệm đồng nghĩa với………là
- Sự khác nhau giữa ……. và…… là
- Sự giống nhau giữa…… và …….là
+ Nhóm 2: hiểu biết nguyên lý, định luật
- Nguyên lý chi phối hiện tượng……. là
- Nguyên nhân của hiện tượng … là
Qua việc tham khảo ý kiến của một số cán bộ lãnh đạo, giáo viên các trường phổ
thông và học sinh cũng đồng tình cho rằng kiểm tra đánh giá dưới hình thức trắc
nghiệm khách quan có nhiều ưu điểm hơn tự luận. Có thể tóm tắt các ý kiến đó như
sau:
- Tiết kiệm hơn và tốn ít thời gian làm bài của học sinh cũng như thời gian chấm
điểm của giáo viên.
- Năng lực của thí sinh được đánh giá chính xác, khách quan, công bằng hơn do
đề thi có nhiều câu hỏi, có thể rải khắp nội dung môn học, cho phép kiểm tra một cách
có hệ thống và toàn diện kiến thức và kỹ năng ở nhiều cấp độ và đặc biệt là tránh được
việc học tủ, dạy tủ. Khi tiến hành thi trắc nghiệm giáo viên sẽ kiểm tra học sinh được
hiều vấn đề, bên cạnh đó lại giảm áp lực cho công việc chấm bài thi.
II. THỰC TRẠNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN CÔNG NGHỆ Ở
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2 .
Qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu thêm ở đồng nghiệp về KT - ĐG tại trường

THPT Hậu Lộc 2 cho thấy cách KT - ĐG kết qủa học tập của học sinh trước đây
thường do giáo viên thực hiện. Cách đặt câu hỏi, ra đề kiểm tra thường chú ý đến khả
năng ghi nhớ và tái hiện kiến thức của học sinh.
Cách KT - ĐG bộc lộ những hạn chế nhất định như: các bài kiểm tra không thể
hiện được tất cả nội dung kiến thức mà các học sinh được học ở trường, bài kiểm tra
chỉ kiểm tra được những kiến thức mà học sinh ghi nhớ từ sách giáo khoa, không kiểm
tra được những kiến thức quan trọng khác. Kết quả KT - ĐG chưa chính xác với kết
quả học tập của học sinh trong cả quá trình. Việc cho điểm không thống nhất giữa giáo
viên trong cùng một tổ chuyên môn, một trường và giữa các trường còn khá phổ biến
Những bất cập với hệ thống KT - ĐG ở nhà trường phổ thông hiện nay:
Hệ thống KT - ĐG học sinh trong nhà trường bao gồm việc xác định chuẩn mực KT -
ĐG, người KT - ĐG và phương thức KT - ĐG
* Chuẩn KT - ĐG học sinh
Mục tiêu đào tạo nhà trường đề ra là giáo dục toàn diện thể hiện qua các tiêu chí
Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao động. Học sinh trong nhà trường phổ thông được KT - ĐG
“theo những chuẩn” sau:
- Về Đức, học sinh được KT - ĐG thông qua giáo viên chủ nhiệm có tham khảo
giáo viên bộ môn và tổ chức Đoàn định kỳ hàng năm và học kỳ.
- Về Trí, học sinh được giáo viên bộ môn KT - ĐG qua điểm số đạt được ở các
môn học. Đây là nội dung KT - ĐG được nhà trường, gia đình và xã hội quan tâm
nhiều nhất với hệ thống KT - ĐG quy mô nhất trong các tiêu chí.
- Về Thể chất, học sinh chỉ mới được giáo viên thể dục KT - ĐG qua giờ học bộ
môn, chưa được KT - ĐG thể chất học sinh một cách toàn diện.
- Về Mỹ học, học sinh hầu như chưa được KT-ĐG, hay nói đúng hơn là chỉ được
KT-ĐG qua hai môn Nhạc, Họa (nếu có giáo viên giảng dạy).
- Về Lao động hướng nghiệp, đây là nội dung quan trọng trong quá trình đào tạo
của nhà trường mới. Việc KT - ĐG học sinh ở lãnh vực này, chỉ được giáo viên phụ
trách ghi nhận thông qua môn Nghề phổ thông.
Với chuẩn KT - ĐG vừa nêu, ta thấy phần nào sự thiếu hoàn chỉnh của hệ thống
tiêu chí đánh giá quá trình đào tạo so với mục tiêu giáo dục toàn diện của

nhà trường.
Đánh giá kết quả quá trình dạy và học chủ yếu bằng các môn thi, bằng điểm số.
Những khía cạnh khác như: nhân văn, thẩm mỹ và thể lực trong nhà trường chưa có
những tiêu chí KT - ĐG chuẩn mực (chủ yếu là KT - ĐG định tính).
* Người KT - ĐG học sinh: Trong nhà trường hiện nay Người KT - ĐG học
sinh là giáo viên giáo viên bộ môn
Trong công tác đánh giá học sinh, hầu hết giáo viên đã làm việc hết sức
trách nhiệm, tương đối đảm bảo các yêu cầu đề ra của nhà trường. Tuy vậy, giáo viên
vẫn còn những bất cập rất cơ bản như sau:
- Nhận thức về hoạt động KT-ĐG còn khá đơn giản cả về mục tiêu yêu cầu cũng
như về quy trình, điều kiện và kỹ năng KT - ĐG
- Kỹ năng KT - ĐG của giáo viên thường dựa vào thói quen kinh nghiệm, dễ bị
cảm tính chủ quan chi phối qua các mặt đạo đức, thể dục, âm nhạc, mỹ thuật, lao động

* Phương thức KT-ĐG học sinh: Trong nhà trường hiện nay Phương thức KT-
ĐG học sinh được thiết lập qua hai hoạt động cơ bản là KT - ĐG thường xuyên hàng
ngày, ghi nhận ở hệ thống sổ bộ như sổ điểm, sổ điểm danh, sổ chủ nhiệm và KT - ĐG
định kỳ qua bài kiểm tra học kỳ, cuối năm.
Đánh giá thường xuyên thường thực hiện qua kiểm tra bài cũ bằng cách phát vấn
hay kiểm tra viết 15 phút, 1 tiết. Ở đây, có giáo viên sử dụng các hình thức thảo luận,
thuyết trình hoặc giao việc, tổ chức thực hành cho học sinh, có điểm thưởng cho
những học sinh tham gia thực hiện tốt trong các giờ thực hành.
Định kỳ, nhà trường phổ thông hiện nay phổ biến vẫn còn áp dụng hình thức
đánh
giá 2 lần mỗi năm, được gọi là kiểm tra học kỳ. Điểm kiểm tra học kỳ được tính
chung với điểm đánh giá thường xuyên trong năm để công nhận việc hoàn tất
chương trình của học sinh, quyết định học sinh được lên lớp hay không
Phương thức KT - ĐG phổ biến qua các kỳ thi và kiểm tra nói trên là làm bài
viết dưới hình thức tự luận. Một số cấp học, bậc học bắt đầu đưa hình thức trắc nghiệm
khách quan vào kiểm tra và thi cử từ khi bắt đầu thực hiện đổi mới nội dung

chương trình giáo dục phổ thông theo tinh thần NQ 40/2000/QH10 của Quốc hội.
1. Công cụ KT - ĐG
Môn Công Nghệ cũng như các môn học khác, chủ yếu dùng câu hỏi luận đề để
đo kết quả học tập của học sinh. Các câu hỏi thường sử dụng câu hỏi trong sách giáo
khoa sách giáo viên. Hệ thống câu hỏi yêu cầu chính là học sinh tái hiện lại kiến thức
đã học, phần học sinh vận dụng kiến thức, giải quyết tình huống…rất ít. Có thể nói
công cụ KT - ĐG này chỉ dựa vào trí nhớ của học sinh là chính.
2. Cách tổ chức kiểm tra
Trước khi kiểm tra các bài 15 phút, 1 tiết hay học kỳ, giáo viên cho trước một số
câu hỏi, nội dung ôn tập để học sinh chuẩn bị soạn phần trả lời rồi học thuộc lòng, đến
khi kiểm tra thì viết lại nguyên văn. Các bài tập cũng cho trước và giải mẫu cho học
sinh học thuộc bài giải. Nội dung đề kiểm tra không có gì nằm ngoài sự chuẩn bị của
học sinh.
3. Kết quả học tập
- Phần lớn học sinh đạt điểm trên trung bình, nhìn vào kết quả điểm số chúng ta
thấy kết quả rất khả quan, nhưng xét về chất lượng thật thì còn nhiều tồn tại đáng lo
ngại. Học sinh học thụ động, chưa tích cực tham gia xây dựng bài học, ít đào sâu suy
nghĩ tìm tòi, ít thắc mắc; chưa chú ý học thường xuyên, chỉ chờ đến khi có câu hỏi
kiểm tra mới lo học các câu hỏi ấy, chỉ học trả lời theo câu hỏi mà không học theo hệ
thống kiến thức trọng tâm. Học sinh rất mau quên những điều đã thuộc.
- Với những nội dung đã thuộc, khi kiểm tra học kỳ (Trường ra đề chung) chỉ có
thay đổi một chút ít, thì phần nhiều học sinh không làm được.
- Học sinh vẫn học bài theo lối học thuộc máy móc, ít chú ý thay đổi phương
pháp học.
III. QUÁ TRÌNH THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Ở TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2 TỪ NĂM 2012 ĐẾN NAY.
Từ năm học 2012 – 2013 đến nay tôi đã tiến hành thử nghiệm cách ‘‘Đổi mới
cách KT - ĐG kết quả học tập môn công nghệ bậc THPT” ở các lớp tôi giảng dạy và
tôi nhận thấy.
Để học sinh nắm vững kiến thức đã học. Sau mỗi bài học, mỗi chương tôi hướng

dẫn học sinh hệ thống lại các kiến thức trọng tâm cần hiểu và cần nhớ để làm kiểm tra.
Không cho trước các câu hỏi trong các giờ ôn tập như trước đây để học sinh
soạn đề cương và học theo câu hỏi.
Các đề kiểm tra có sự kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan. Tùy theo
nội dung kiến thức mà chọn lựa hình thức cho thích hợp. Nội dung đề gồm có
các phần sau đây.
- Câu trắc nghiệm khách quan.
- Câu hỏi dưới dạng đặt vấn đề có nhiều cách lý giải, hoặc chọn ra một vấn đề
đúng và giải thích; câu hỏi trả lời ngắn theo sự hiểu biết và suy luận.
- Bài tập vận dụng lý thuyết đã học (Chú trọng việc nắm cách giải, phương pháp
suy luận để giải, hạn chế việc học thuộc lòng bài mẫu). Vì thế bài tập trong đề kiểm tra
đều có thay đổi so với bài tập đã giải trên lớp.
Tinh thần chung là tôi đã cố gắng thông qua việc cải tiến KT - ĐG làm cho học
sinh cải tiến cách học, học một cách tích cực, chủ động và sáng tạo, mới có thể đạt
được điểm tối đa.Tôi đã thực hiện thử nghiệm ở khối lớp 11 và 12 trong năm học 2012
– 2013 và nhận thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt.
Lý do chọn đối tượng này là vì tôi đang trực tiếp giảng dạy thuận lợi cho việc
tiến hành thử nghiệm, đây là khối lớp mà tôi có quyền ra đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết
và học kỳ đồng thời trực tiếp chấm điểm.
IV. KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM
Qua một năm học thử nghiệm tôi đạt được kết quả khả quan, cụ thể là:
- Học sinh học tập tích cực chủ động hơn trước, hạn chế được cách học
thụ động, phát huy được độc lập suy nghĩ của học sinh (Qua kết quả quan sát trong tất
cả các giờ học của học sinh)
- Kết quả điều tra bằng phiếu hỏi toàn bộ học sinh lớp 12 tôi giảng dạy cho thấy
kết quả như sau:
+ 95.32% học sinh cho rằng đề kiểm tra câu hỏi chỉ cần hiểu bài có thể trả lời
được là phù hợp nhất, chỉ có 4.67% ý kiến cho rằng câu hỏi đòi hỏi phải thuộc bài là
phù hợp.
+ 76.31% học sinh đồng ý hình thức trắc nghiệm khách quan là phù hợp, 19.29%

học sinh chấp nhận đề kiểm tra có câu hỏi ngắn, chỉ có 4.38% học sinh chấp nhận câu
hỏi luận đề.
- Đối với các đề kiểm tra đã làm, có:
+ 92.15% học sinh KT - ĐG là tốt;
+ 7.84% không có ý kiến;
+ không có ý kiến nào KT - ĐG chưa tốt.
+ 70% học sinh nhìn nhận với cách kiểm tra mới làm cho bản thân có
hứng thú trong học tập và có tác động làm thay đổi cách học theo hướng mới.
+Thống kê kết quả điểm của các loại bài kiểm tra của học sinh đảm bảo phân hóa
được trình độ học sinh, đảm bảo được đường cong chuẩn.
Phần III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kiểu KT - ĐG học sinh môn Công nghệ bằng hình thức tự luận có nhiều hạn
chế như nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh. Để nâng cao chất lượng dạy học
môn học Công nghệ cần phải thay đổi cách kiểm tra đánh giá, cần có công cụ đánh giá
khách quan. Qua hơn một năm thử nghiệm, bước đầu tôi xin có một vài kết luận :
- Đề kiểm tra môn Công nghê. thích hợp nhất là câu hỏi đặt ra yêu cầu học sinh
hiểu bài và ghi nhớ ý nghĩa nội dung học.
- Hình thức trắc nghiệm kết hợp với câu hỏi ngắn là có nhiều ưu điểm.
- Công cụ đánh giá phải được thử nghiệm và hoàn thiện dần, tiến đến chuẩn hóa.
- Khi thay đổi cách KT - ĐG chắc chắn sẽ dẫn đến thay đổi cách dạy và cách
học. Vì vậy muốn đổi mới PPDH cần phải quan tâm đầu tư nghiên cứu đổi mới cách
KT - ĐG sao cho phù hợp.
Tôi nghĩ rằng trong trường THPT nên thưc hiện chuẩn hóa KT - ĐG kết quả
học tập môn Công nghệ cũng như các môn khác, làm sao đánh giá được chất
lượng thật sự của học sinh, chúng ta mới có thể tránh được tệ nạn gian dối, thiếu trung
thực trong kiểm tra đánh giá và hàng loạt các tiêu cực khác …là nguyên nhân quan
trọng làm cho chất lượng giáo dục chưa đảm bảo được yêu cầu đã diễn ra trong thời
gian qua.

×