Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

nghiên cứu về điều kiện phát triển du lịch của từng nướ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.35 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay du lịch là một ngành kinh tế đã, đang và sẽ phát triển. Điều kiện phát
triển du lịch đã trở thành một đề tài nghiên cứu hấp dẫn, lôi cuốn nhiều nhà nghiên
cứu trên toàn thế giới. Việc nghiên cứu về điều kiện phát triển du lịch của từng
nước là một công việc hết sức quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển du lịch của
mỗi nước. Chính vì thế mà không chỉ các nhà nghiên cứu du lịch quốc tế mà các
nhà du lịch Việt Nam đều rất quan tâm đến vấn đề này.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến
sự phát triển du lịch: Những điều kiện chung (điều kiện an ninh chính trị và an toàn
xã hội; điều kiện kinh tế; chính sách phát triển du lịch) và các điều kiện tự thân làm
nảy sinh nhu cầu du lịch (thời gian rỗi, khả năng tài chính của du khách tiềm năng;
trình độ dân trí); khả năng cung ứng nhu cầu du lịch (điều kiện tự nhiên và tài
nguyên du lịch thiên nhiên; điều kiện kinh tế và tài nguyên du lịch nhân văn; tình
hình và sự kiện đặc biệt; sự sẵn sàng đón tiếp) và sự hình thành điểm du lịch.
Mục đích nghiên cứu nhằm tìm ra các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
du lịch của đất nước. Từ việc nghiên cứu rõ ràng, tỉ mỉ, ta sẽ tìm ra cách đầu tư
thích đáng, hướng qui hoạch đúng đắn để phát triển du lịch nước nhà.
1
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUNG
1.1. Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội
An ninh chính trị phải đảm bảo hòa bình, ổn định để mở rộng cho các mối
quan hệ kinh tế, chính trị văn hóa giữa các dân tộc. Du lịch chỉ được phát triển
trong một bầu không khí hòa bình, trong tình hữu nghị giữa các dân tộc. Không khí
hòa bình trên thế giới ngày càng được cải thiện.
Về phương diện quốc gia có thể dẽ dàng nhận thấy, những đất nước ít xảy ra
các biến cố chính trị, quân sự như: Thụy Sỹ, Áo, Thụy Điển… đều là nơi hấp dẫn
và thu hút được một lượng đông đảo du khách. Khi có tình hình chính trị ổn định
và hòa bình thì sẽ cho du khách cảm giác an toàn và tính mạng được coi trọng. Tại
những nơi này du khách có thể đi lại tự do trong đất nước mà không lo sợ và không
cần sự chú ý đặc biệt nào. Những điểm du lịch mà tại đó không có sự phân biệt


chủng tộc, tôn giáo… du khách có thể gặp dân bản xứ, giao lưu và làm quen với
phong tục tập quán của địa phương, sẽ thu hút được nhiều du khách hơn những nơi
họ bị cô lập với dân sở tại. Do vậy nhờ du lịch mà các dân tộc hiểu biết lẫn nhau,
gần gữi nhau hơn và có khuynh hướng hòa bình hơn.
Du lịch đòi hỏi phải có an ninh đảm bảo để không chỉ giúp du khách có cảm
giác an toàn mà còn nhằm chống lại các hành động chống phá của một số người lợi
dụng hoạt động du lịch để truyền bá những tư tưởng phản động vào đất nước. Một
ví dụ cụ thể: năm 1993, tại Ba Bể, những kẻ chống phá đã lợi dụng việc đi du lịch
để truyền bá tư tưởng phản động vào người dân địa phương bằng cách rải truyền
đơn, băng đĩa… tại những nơi chúng đi qua.
Như vậy để có điều kiện tốt cho du lịch phát triển, bên cạnh những điều kiện
khách quan chúng ta cần có một nền chính trị ổn định và an toàn. Hơn nữa, an toàn
2
xã hội cũng là một điều kiện quan trọng để phát triển du lịch, bởi lẽ các hiện tượng
thiên tai, dịch bệnh… có ảnh hưởng rất lớn đến du lịch. Khi các cơ quan y tế phải
cách ly một vùng để ngăn chặn lây lan dịch bệnh thì vùng đó chắc chắn không thể
đón khách du lịch được. Muốn thu hút được du khách cũng như việc phát triển du
lịch, vùng đó phải có những biện pháp phòng tránh thích hợp.
Đối với nước ta cần phải tăng cường, mở rộng mối quan hệ hợp tác với các
nước trên thế giới tạo ra mối quan hệ hợp tác lâu dài dựa trên tình hữu nghị, giữ
vững bầu không khí hòa bình ta hiện có.
1.2. Điều kiện kinh tế
Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát
triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho
sự ra đời và phát triển ngành kinh tế du lịch. Sự phát triển của du lịch có thể kéo
theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, nhưng bên cạnh đó bản thân du lịch
cũng lệ thuộc vào các ngành này về nhiều mặt: nông nghiệp, công nghiệp, giao
thông vận tải…
1.2.1.Ngành nông nghiệp và công nghiệp
a.Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm

Trong các ngành kinh tế, sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp thực
phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch. Ngành du lịch hàng năm tiêu thụ một
khối lượng rất lớn lương thực và thực phẩm. Thực phẩm tươi sống (thịt lợn, gà,
bò…; lúa, mì, ngô, khoai…) của nông nghiệp cũng như đã qua chế biến sẵn của
công nghiệp (đường, bơ, sữa,…; đồ hộp, rượu, bia, thuốc lá…) là mặt hàng không
thể thiếu của trong việc phục vụ cung ứng các bữa ăn cho du khách.
b.Công nghiệp nhẹ
3
Nếu như ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm phục vụ nhu cầu ăn,
uống hàng ngày của du khách thì công nghiệp nhẹ đảm bảo những tiện nghi sinh
hoạt hàng ngày đối với hoạt động lưu trú của du khách. Với nhiệm vụ chính cung
cấp vật tư cho du lịch, các ngành công nghiệp nhẹ khác nhau như: dệt, thủy tinh,
sành sứ, đồ gỗ và mỹ nghệ… mỗi năm cung cấp hàng trăm ngàn sản phẩm phục vụ
trang trí, sử dụng trong các khách sạn, nhà hàng, cơ sở lưu trú …(khăn trải, ga
giường, thảm, tủ,…) cũng như làm quà lưu niệm (nón, tranh, đồ gốm…) dành cho
du khách. Do vậy muốn phát triển du lịch, các ngành sản xuất có quan hệ mật thiết
đến du lịch không chỉ đáp ứng yêu cầu tối thiểu về khối lượng hàng hóa, mà phải
đảm bảo cung cấp vật tư hàng hóa có chất lượng cao, đảm bảo có thẩm mỹ và
chủng loại phong phú, đa dạng.
Như vậy, căn cứ vào điều kiện nông nghiệp và công nghiệp vốn có của địa
phương ta có thể thấy một đất nước chỉ phát triển một cách vững vàng khi và chỉ
khi nước đó tự sản xuất ra được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch.
1.2.2.Giao thông vận tải
Giao thông vận tải là một yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế của một
đất nước. Đứng trên lĩnh vực du lịch, giao thông vận tải là cầu nối giữa nhà cung
cấp dịch vụ, điểm đến du lịch và du khách. Từ khi ra đời tới nay cùng sự phát triển
của nền kinh tế, giao thông vận tải đã có nhiều bước tiến quan trọng về chất cũng
như lượng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của du lịch:
Về mặt số lượng:
- Số lượng các phương tiện vận chuyển tăng chứng tỏ khả năng vận chuyển

du khách.
4
- Số lượng loại hình phương tiện vận chuyển gia tăng sẽ làm cho hoạt động
du lịch trở nên tiện lợi và mềm dẻo, có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu của du
khách.
- Số lượng hành khách được vận chuyển tăng.
- Mạng lưới giao thông phát triển rộng khắp.
Điều đó giúp cho du khách tiếp cận với điểm du lịch một cách dễ dàng, hoạt
động du lịch trở nên tiện lợi và mềm dẻo trong việc đáp ứng nhu cầu của du khách
Về mặt chất lượng:
- Tốc độ vận chuyển tăng cho phép tiết kiệm thời gian đi lại và cho phép kéo
dài thời gian ở lại nơi du lịch. Với các phương tiện có tốc độ vận chuyển cao, du
khách có thể đến được những nơi xa xôi.
- Đảm bảo an toàn trong vận chuyển sẽ thu hút được nhiều người tham gia
hoạt động du lịch.
- Đảm bảo tiện nghi trong quá trình vận chuyển, du khách sẽ thấy an tâm và
thoải mái hơn vì sức khỏe được bảo đảm.
- Giảm giá thành của chuyến đi để nhiều tầng lớp nhân dân có thể sử dụng
được phương tiện vận chuyển. Thu hút được nhiều người tham gia vào hoạt động
du lịch.
Tiến bộ của vận chuyển hành khách còn thể hiện trong sự phối hợp các loại
phương tiện vận chuyển. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của du lịch.
Sự phối hợp đó có 2 mức độ: mức độ quốc gia và mức độ quốc tế. Cả 2 mức độ
đều có vai trò quan trọng trong vận chuyển hành khách du lịch. Việc tổ chức vận
tải phối hợp tốt cho phép rút ngắn thời gian chờ đợi tại các điểm giữa tuyến, tạo
5
điều kiện thuận lợi khi phải đổi phương tiện vận chuyển và làm vừa lòng du khách
đi du lịch… Ví dụ: Du khách từ Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh muốn đến Đà
Lạt có thể mua vé liên vận được chuyển tiếp lên ô tô sau khi xuống tàu ở ga xe lửa
Phan Rang

1.3.Chính sách phát triển du lịch
Bất cứ một nơi nào trên thế giới dưới hình thức này hay hình thức khác đều
tồn tại một bộ máy quản lý xã hội nhất định. Có thể nói bộ máy này có vai trò
quyết định đến các hoạt động của cả cộng đồng và hoạt động du lịch cũng không
nằm ngoài quy luật chung đó. Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch
phong phú, mức sống của người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương
không hỗ trợ cho các hoạt động du lịch thì hoạt động này cũng không thể phát triển
được.
Những điều kiện chung để phát triển du lịch nếu trên tác động một cách độc
lập trên sự phát triển của du lịch. Các điều kiện ảnh hưởng đến du lịch tách rời
nhau, do vậy nếu thiếu một trong những điều kiện ấy sự phát triển của du lịch có thể
bị trì trệ, giảm sút hoặc hoàn toàn bị ngừng hẳn. Sự có mặt của tất cả những điều
kiện ấy đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ THÂN LÀM NẢY SINH NHU CẦU DU
LỊCH
Các nhân tố tự thân chính làm cho nhu cầu du lịch tăng trưởng là thời gian
rỗi, thu nhập, trình độ dân trí.
2.1.Thời gian rỗi
6
2.1.1. Vai trò của thời gian rỗi trong việc phát triển du lịch
-Thời gian dỗi có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển du lịch.
Công chúng chỉ bắt đầu đi du lịch khi họ được hưởng nhiều ngày nghỉ lễ và những
ngày nghỉ ăn lương.
Cụ thể: Ở Hoa Kì (1968) đã thông qua pháp luật ấn định 4 dịp lễ toàn Liên
bang hàng năm. Mỗi dịp nghỉ được định vào một ngày thứ Hai để có một kì nghỉ
cuối tuần 3 ngày. Tại Tây Ban Nha và Pháp có rất nhiều kỳ nghỉ, khoảng 12- 13 dịp
nghỉ mỗi năm. Ở nước ta từ 02/10/1999 mọi viên chức nhà nước bắt đầu được
hưởng chế độ nghỉ cuối tuần 2 ngày.
- Khi người lao động càng có nhiều thời gian rỗi, ngành du lịch càng có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Mọi người sử dụng thời gian rỗi để thư

giãn, nâng tầm hiểu biết, tăng cường sức khỏe.
- Để tăng tính hiệu quả trong việc khai thác tối đa thời gian rỗi của người
dân, du lịch có thể kết hợp với nhiều ngành khác để tạo ra nhiều loại hình du lịch
hấp dẫn: du lịch mua sắm, du lịch thăm thân… Trên cơ sở thay đổi cơ cấu giữa
thời gian làm việc, thời gian ngoài giờ làm việc và thời gian dỗi.
Như vậy có thể khẳng định được rằng khi có thêm thời gian rỗi, mọi người
sẽ có thêm nhiều sự lựa chọn thích hợp cho mình., trong đó có du lịch là sự lựa
chọn hàng đầu. Tóm lại, thời gian rỗi là điều kiện tất yếu cần thiết phải có để con
người tham gia vào hoạt động du lịch.
2.1.2. Những điều kiện cụ thể
7
- Tăng thời gian rỗi cho người lao động bằng cách tăng số lượng ngày nghỉ
và kéo dài kì nghỉ.
- Cần nghiên cứu đầy đủ, kĩ lưỡng cơ cấu thời gian ngoài giờ làm việc so
cho thời gian rỗi có thể chiếm đến mức tối đa; có thể bằng cách giảm thời gian mua
hàng, thời gian làm việc nhà để có thể tăng thời gian cho việc du lịch.
- Tổ chức và quản lí tốt mạng lưới phục vụ cộng đồng, giao thông, y tế…
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lấy máy móc làm công cụ sản xuất chủ
yếu nhằm tạo thêm thời gian rỗi cho người lao động.
- Hoạt động du lịch định hướng cho con người sử dụng thời gian rỗi vào các
hoạt động mang lại lợi ích nâng cao hiểu biết hoặc nâng cao thể lực, tránh việc
dùng thời gian rỗi vào các hoạt động tiêu cực. Nhờ vừa giúp phát triển ngành du
lịch vừa tránh được các tệ nạn xã hội.
2.1.3.Ví dụ
Ở nước ta hiện nay có 6 dịp nghỉ lễ trên toàn quốc là: Tết dương lịch, Tết
Nguyên Đán, Giỗ Tổ Hùng Vương, giải phóng miền Nam 30/4, ngày Quốc tế Lao
động và ngày Quốc khánh.
Như vậy người dân đã có thêm nhiều thời gian rỗi để lựa chọn đi du lịch.
Với xu hướng tăng số ngày nghỉ, người dân càng có thể đi du lịch nhiều nơi.
2.2.Khả năng tài chính của du khách tiềm năng

Nói đến các nhân tố tự thân làm cho nhu cầu du lịch tăng trưởng thì ngoài
thời gian rỗi, thu nhập của người dân cũng rất quan trọng. Ngày nay, kinh tế ngày
một phát triển, năng suất lao động ngày càng cao và mức sống của con người ngày
càng được cải thiện. Do vậy họ có khả năng thanh toán cho nhu cầu về du lịch
8
trong và ngoài nước. Có tài nguyên du lịch nhiều chưa hẳn đã phát triển du lịch
nếu nền kinh tế của của đất nước còn lạc hậu và du khách nước ấy không có khả
năng du lịch ra nước ngoài.
Khi rời nơi lưu trú thường xuyên để đi du lịch, khách du lịch luôn là người
tiêu dùng nhiều loại dịch vụ và hàng hóa. Để có thể đi du lịch và tiêu dùng du lịch,
họ phải có phương tiện vật chất đầy đủ. Đó là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu
du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán, vì đi du lịch họ phải trả
thêm tiền tàu xe, trả thêm tiền nhà và xu hướng con người đi du lịch là tiêu nhiều
tiền. Khác với khi ở nhà, họ chỉ cần chi tiêu cho những khoản cần thiết: như ăn
uống, mua sắm đơn thuần… Tuy nhiên, khi đi du lịch họ thường phải chi tiêu cho
nhiều khoản nảy sinh dẫn đến mức tiêu dùng tăng vọt. Thu nhập của người dân là
chỉ tiêu quan trọng và là điều kiện vật chất để họ có thể tham gia hoạt động du lịch.
Và khi thu nhập của người dân tăng thì sự tiêu dùng du lịch cũng tăng theo, đồng
thời có sự theo đổi về cơ cấu của tiêu dùng du lịch.
Theo con số thống kê tương đối của Tập đoàn Visa khu vực Châu Á- Thái
Bình Dương về chi tiêu của khách du lịch đến Việt Nam qua thẻ Visa cho thấy,
những tháng cuối năm 2005 là 1,4 nghìn tỷ đồng (khoảng 90,6 triệu USD) đã tăng
28% so với cùng kỳ năm trước đó. Trong đó, chi tiêu nhiều nhất là các du khách
đến từ Mỹ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và Pháp, chiếm 58% tổng lượng chi tiêu qua
thẻ. Du khách đến Việt Nam sử dụng thẻ Visa chủ yếu để chi tiêu cho chỗ ở 29%,
mua sắm 16%, đi lại 11%, ăn uống 7% và các hoạt động thể thao giải trí 4%.
Theo một số liệu của Bộ thương mại, trung bình một khách du lịch quốc tế
thuộc diện giàu có đến Việt Nam mức chi tiêu cũng chỉ khoảng 300- 700USD,
mức chi tiêu bình quân cho tất cả khách du lịch là 100 - 150 USD/người/ngày lưu
9

trú). Quá ít ỏi so với Thái Lan chi tiêu từ 1.200 USD- 1.500 USD; tại Singapore
khoảng từ 1.500 USD- 2.000 USD; ở các nước EU là 4.000- 5.000 USD.
Trong nước thì khác hẳn, điều tra của Tổng cục thống kê (GSO) cho thấy chi
tiêu của khách du lịch trong nước tăng mạnh, mức chi tiêu bình quân chung của
một lượt - khách du lịch trong nước (đối với khách tự sắp xếp đi) năm 2005. Trong
cơ cấu các khoản chi tiêu của du khách, khoản chi cho phương tiện đi lại chiếm lớn
nhất, chiếm gần một phần ba (năm 2005 là 32%) trong tổng số các khoản chi tiêu;
tiếp đến là chi cho cơ sở lưu trú để nghỉ ngời chiếm gần một phần tư (năm 2003 là
23%, 2005 là 21,8%), thứ ba là chi cho ăn uống và chi mua sắm hàng hoá, quà
tặng, quà lưu niệm, cả hai lần điều tra đều gần bằng nhau và mỗi khoản chiếm
khoảng 15%. Các khoản chi tham quan, chi cho nhu cầu văn hoá, thể thao, vui
chơi, giải trí; chi cho y tế, săm sóc sức khoẻ đều chiếm rất nhỏ trong tổng các
khoản chi. Kết quả điều tra cũng cho thấy các khoản chi về đi lại, ăn uống và dịch
vụ y tế chăm sóc sức khoẻ là những khoản chi tiêu tăng mạnh nhất; điều này cũng
phù hợp với chỉ số tăng giá của các nhóm hàng hoá và dịch vụ này trong thời gian
này.
Một điều thú vị trong việc chi tiêu của du khách sau khi điều tra đó là : Các
khoản chi tiêu của khách du lịch là phụ nữ nhiều hơn so với nam giới, chủ yếu là
tiền mua sắm hàng hoá, chi cho tham quan, cho y tế, chăm sóc sức khoẻ, sắc đẹp
và thuê phòng nghỉ; ngược lại, các khoản chi tiêu của du khách nam giới nhiều hơn
phụ nữ là các khoản chi ăn, uống, đi lại, vui chơi giải trí.
So sánh mức chi tiêu của du khách mỗi ngày tại mội địa phương, Hà Nội,
Lạng Sơn, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Thuận, Tp.HCM và Kiên Giang là những
địa phương có mức chi tiêu của du khách cao nhất. Kết quả điều tra năm 2005 bình
quân một ngày - khách từ 500 đến 638,8 nghìn đồng/khách.
10
Các địa phương có mức chi tiêu bình quân một ngày - khách từ 400 đến đến
dưới 500 nghìn đồng là Hải Phòng, Thừa Thiên-Huế, Bình Định, Lào cai, Quảng
Bình, Quảng Nam, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Cần Thơ và Cà Mau.
Các địa phương có mức chi tiêu bình quân một ngày - khách từ 300 đến dưới

400 nghìn đồng là Nghệ An, Đak Lak và An Giang; Điện Biên, Thanh Hoá, Quảng
Trị, Gia Lai, và Tây Ninh.
Thái Nguyên là địa phương có mức chi tiêu bình quân một ngày - khách thấp
nhất, chỉ 179,6 nghìn đồng.
Như vậy thu nhập của người dân là một vấn đề rất quan trọng để du khách có
một chuyến đi du lịch thật vui vẻ và có nhiều thú vị.
2.3.Trình độ dân trí
Sự phát triển của ngành du lịch cũng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn
hóa chung của nhân dân ở một nước. Cụ thể, nếu trình độ văn hóa của cộng đồng
cao thì nhu cầu đi du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt; số người đi du lịch
nhiều, lòng ham muốn làm quen với các nước xa gần cũng tăng và trong nhân dân
thói quen du lịch sẽ hình thành ngày càng rõ. Hơn nữa trình độ văn hóa của nhân
dân nước đó cao , thì khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo phục vụ khách du lịch
một cách văn minh và làm hài lòng khách khi đến đó.
Trình độ dân trí thể hiện bằng hành động, cách ứng xử cụ thể với môi trường
xung quanh, bằng thái độ đối với du khách của người địa phương, bằng cách cư xử
của du khách tại nơi du lịch….
Ví dụ: Ngày nay, Sầm Sơn đang dần trở thành một đô thị du lịch văn minh,
giàu đẹp, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao. Hàng năm,
có hàng vạn lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến với Sầm Sơn, góp phần tạo
11
nên sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã nói riêng và tỉnh
Thanh Hóa nói chung.
Và trong những năm qua, Sầm Sơn luôn là địa điểm có sức hút mạnh mẽ đối
với khách du lịch trong và ngoài nước, song thực trạng dịch vụ du lịch trên địa bàn
còn tồn tại một số vấn đề ở các lĩnh vực: Công tác quản lý, điều hành, tổ chức kinh
doanh dịch vụ, trật tự đô thị, văn minh du lịch, vệ sinh môi trường, sự xuống cấp
của cơ sở hạ tầng... Để khắc phục những tồn tại đó, yêu cầu đặt ra đối với Sầm Sơn
là phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng du lịch, dịch vụ, nâng cao
nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư trong tổ

chức hoạt động và phát triển bền vững du lịch Sầm Sơn.
Năm 2005 được xem là năm đột phá trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ
và môi trường văn hóa du lịch, hướng tới một Sầm Sơn Trật tự - Kỷ cương - Văn
minh du lịch. Với du khách, hiện tại Sầm Sơn đã có một diện mạo hoàn toàn mới-
một Thị xã du lịch biển văn minh, an toàn đối với du khách, cơ sở hạ tầng được
đầu tư nâng cấp; Môi trường du lịch được cải thiện một cách đáng kể, việc bài trừ
các tệ nạn xã hội được phát động trong toàn dân, văn hóa, văn minh được đề cao
trong hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Theo thống kê, tỷ lệ du khách quay trở lại Việt Nam không cao. Tâm lý của
người du lịch là luôn tìm tòi và khám phá những địa điểm mới. Tuy nhiên cũng cần
nhìn nhận thực tế là người dân của chúng ta vẫn chưa có ý thức trong việc bảo vệ
cảnh quan, gìn giữ và phát triển văn hóa du lịch. Vấn đề này cần khắc phục trong
thời gian tới, hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam phải được nhân dân
Việt Nam biết đến và tôn trọng nó trước tiên. Có như vậy mới có thể quảng bá tốt
tới du khách nước ngoài; nâng cao vị thế và hình ảnh về đất nước và con người
Việt Nam.
12

×