Tải bản đầy đủ (.ppt) (16 trang)

Báo cáo chuyên đề áp dụng bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn Vật lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.53 KB, 16 trang )



Như chúng ta đã biết phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học
tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các
môn khoa học tự nhiên.
BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm
tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được
đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu
tài liệu hay điều tra
Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết
từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm
chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân
tích, tổng hợp kiến thức.
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là
trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời
và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV.
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say
mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB
còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ
nói và viết cho HS.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Môn vật lý là môn học trực quan, kiến thức hình thành cho học
sinh thông qua các hiện tượng, từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng. Do đó các thí nghiệm (TN) và các phương tiện nghe
nhìn (PTNN) có vai trò rất quan trọng trong dạy học Vật lí. TN là
nguồn cung cấp thông tin chính xác, tin cậy, dễ hiểu, TN là phương
tiện tốt nhất để kiểm tra tính đúng đắn của kiến thức Vật lí, TN có
tác động mạnh đến các giác quan của học sinh trong dạy học, TN là
phương tiện rèn luyện sự khéo léo cho học sinh, TN góp phần đánh


giá năng lực nhận thức và làm phát triển khả năng tư duy và TN
giúp củng cố vận dụng kiến thức vững chắc. Phương tiện nghe nhìn
cũng có vai trò quan trọng, nên giáo viên cần quan tâm sử dụng
chúng trong dạy học vật lí. Mỗi loại PTNN có chức năng khác
nhau, người GV cần khai thác các tiềm năng vốn có trong việc
chuyển tải tri thức của các loại PTNN khác nhau. Có như thế,
PTNN mới hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động của thầy và trò trên
giờ lên lớp.

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính vì những lí do trên mà tổ toán lí công nghệ chúng tôi quyết
định tiến hành chuyên đề “Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột
vào giảng dạy bộ môn vật lí”

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột hiệu quả trong
giảng dạy môn vật lý
1. Đặc trưng cơ bản của Phương pháp BTNB:
- Bản chất: Việc phát hiện, tiếp thu kiến thức của học sinh
thông qua việc GV giúp HS tự đi lại chính con đường
mà các nhà khoa học đã nghiên cứu tìm ra chân lý (kiến
thức): Từ tình huống xuất phát, nêu vấn đề, quan niệm
về vấn đề đó như thế nào, đặt câu hỏi khoa học (giả
thuyết khoa học), đề xuất phương pháp nghiên cứu, thực
hiện phương pháp nghiên cứu để kiểm chứng giả thuyết,
đưa ra kết luận.

- Đặc trưng:
+ Dạy học phải tự nhiên như qúa trình tìm ra chân lý.
+ Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước; học thêm trước hoặc biết

trước KT thì chưa chắc HS hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm CM
cho phát biểu đúng. HS sẽ lúng túng khi hỏi lại: vì sao em biết điều
đó? Làm thế nào để em có thể chứng minh kết luận của em đúng?.
Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn;
+ PPBTNB chú trọng đến quan niệm ban đầu của học sinh về kiến thức
mới sẽ học.

+ Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai.
Thông qua thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.
+ PPBTNB áp dụng chủ yếu cho dạy khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa
học TN, các chủ đề gắn với đời sống thực tiên của HS;
+ Trong CT hiện nay có bài áp dụng cả, có bài áp dụng một phần,
+ Với chuyên đề này, chúng tôi áp dụng vào bài “Ảnh của một vật tạo bởi
gương phẳng”. Và với bài này thì chúng tôi áp dụng PPBTNB vào
phần I của bài.

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu
vấn đề
Hàng ngày các em vẫn soi gương để quan sát ảnh của mình,
nhìn thấy ảnh của mình và các vật ở trước gương. Vậy em hãy
vẽ lại ảnh của một vật ở trong gương vào vở thực hành. Cụ thể
vật có hình dạng là một dấu mũi tên(lưu ý nếu nghĩ ảnh này in
được trên bức tường ở sau gương thì vẽ nét liền còn không thì vẽ
nét đứt.)
II. Ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy bài
“Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng"

Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
-Cá nhân tự tưởng tượng và vẽ ảnh của dấu mũi tên vào vở
thực hành, sau đó thảo luận nhóm vẽ một hình vào tờ giấy A4


Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế
phương án thực nghiệm

-Chỉ đại diện vài nhóm phát biểu suy nghĩ vì sao mình lại vẽ
như vậy (Làm cho quan niệm ban đầu lộ rõ hơn)

-Y/C thảo luận đề xuất phương án thí nghiệm kiểm tra theo
các nhóm hình vẽ đã gom.

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi -
nghiên cứu

-Y/C tiến hành TN theo nhóm với các TN cần làm cụ thể như sau:

+TN1: Tìm xem ảnh có hứng được trên màn không.

+TN2: So sánh độ lớn của ảnh so với vật.

+TN3: So sánh khoảng cách từ ảnh đến gương và khoảng cách từ vật
đến gương.

Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức

-Y/C các các nhân nêu kết luận sau khi tiến hành TN.

-Chuẩn hóa kiến thức và cho học sinh ghi vở.

* Y/C học sinh vẽ lại ảnh dấu mũi tên sau khi đã được TN
kiểm chứng.


C. KẾT LUẬN
1. Ưu điểm của việc ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột:

Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của học sinh không phải là một đường
thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. Học sinh tiếp cận vấn đề
đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các
nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên
cứu; đối chiếu các nhận định (giảthuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách
làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp học
sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm hoặc
thửlàm lại các thí nghiệm như đềxuất của các nhóm khác để kiểm
chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá
trình này, học sinh luôn luôn phải động não, trao đổi với các học sinh
khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực đểtìm ra kiến thức. Con
đường tìm ra kiến thức của học sinh cũng đi lại gần giống với quá trình
tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học

1. Ưu điểm của việc ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột:

Do vậy học sinh sẽ ghi nhớ sâu sắc, lâu dài những thí nghiệm do mình
tự làm. Mặt khác, học sinh đã có những ý tưởng về một số hiện tượng
từ rất sớm. Sẽ là không đủ nếu giáo viên dành phần lớn thời gian để
giảng giải cho học sinh những thí nghiệm này sẽ cho ra những kết quả
Như thế nào (không làm thí nghiệm, chỉ mô tả thí nghiệm hoặc làm
mẫu đơn giản thí nghiệm), hoặc nói với học sinh những gì các em
Nghĩ là sai; mà giáo viên phải có ý thức về sự cần thiết để học sinh tự
làm thí nghiệm kiểm chứng những gì học sinh tưởng tượng (với điều
kiện các thí nghiệm đó có thể thực hiện ở trong lớp) và để tự các học
sinh biện luận với nhau.


2. Khó khăn của việc ứng dụng CNTT:
-Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề
tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được
đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
-Ở một số bài lượng kiến thức cần truyền tải cho học sinh tương đối
nhiều, thời gian 40- 45 phút dạy học theo phương pháp " Bàn tay nặn
bột " là không đủ, đa phần kéo dài hơn so với quy định nên ảnh hưởng
đến các tiết học khác. Ngoài ra, thiết bị phục vụ cho thí nghiệm ở các
trường hiện nay chưa đầy đủ, việc sáng tạo thiết kế các đồ dùng dạy học
theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn gặp nhiều khó khăn với cả giáo
viên và học sinh.

3. Một số điểm cần lưu ý
+ Lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo luận:
Không chọn hoàn toàn các quan niệm đúng
Tuyệt đối không bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai của các ý
kiến ban đầu
Lựa chọn các quan niệm vừa đúng vứa sai
Chọn vị trí thích hợp đề gắn các bài vẽ của học sinh…
+ Không nên sử dụng SGK khi học bằng PP BTNB.
+ Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung
bài học ở đề bài).
+ Lựa chọn hoạt động phù hợp với PP BTNB để áp dụng, không nhất
thiết hoạt động nào cũng áp dụng PP.
+ Lưu ý về Kĩ thuật thảo luận nhóm
Trên đây là những điều mà chúng tôi đã rút ra được trong quá
trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy. Tuy nhiên, không tránh
khỏi những hạn chế. Kính mong quý thầy cô giáo, đồng nghiệp
góp ý bổ sung để chuyên đề ngày một hoàn thiện hơn!

Xin chân thành cảm ơn!

×