Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.4 KB, 82 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Đề tài: “Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại trong điều kiện
hiện nay”
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI................8
I. GLTM, các hinh thức GLTM:................................................................8
1. Gian lận thương mại:.................................................................................8
2. Sự cần thiết phải xác định một tội danh - tội GLTM:.............................10
3. Các hình thức GLTM:.............................................................................11
II. Mối quan hệ giữa buôn lậu và GLTM:..............................................14
III. Tác động của GLTM:.........................................................................15
1. Tác động tới toàn bộ nền KTQD: ...........................................................15
2. Tác động tới trật tự an toàn xã hội:.........................................................17
3. Tác động đến doanh nghiệp và người tiêu dùng:....................................18
4. Tác động đến sự quản lý của Nhà nước .................................................19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I. Tình hình GLTM ở Việt Nam:.............................................................20
1. Tình hình chung trong cả nước................................................................20
1.1. Tuyến biên giời Việt - Trung................................................................21
1.2. Tuyến biên giới Việt - Lào...................................................................22
1.3. Tuyến biên giới Tây nam.....................................................................22
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
1.4. Trên tuyến đường Bộ............................................................................23
1.5. Trên tuyến đường Biển - Đảo...............................................................25
1.6. Trên tuyến đường hàng không..............................................................27
1.7. Tuyến đường Bưu điện.........................................................................28
1.8. GLTM trong nội địa.............................................................................28
1.9. Đối tượng tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM.......................30
1.10. Nhận định chung................................................................................31


2. Thực trạng tại một số cửa khẩu và địa phương. Một số mặt hàng buôn lậu và
GLTM phổ biến...........................................................................................32
2.1. Thực trạng tại một số cửa khẩu địa phương.........................................32
2.2. Một số mặt hàng buôn lậu và GLTM phổ biến....................................41
II. Nguyên nhân và thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM...................43
1. Thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM....................................................43
1.1. Những thủ đoạn qua đường chính ngạch..............................................43
1.2. Những thủ đoạn theo đường không chính ngạch.................................48
2. Nguyên nhân của tệ nạn buôn lậu và GLTM..........................................51
2.1. Nguyên nhân khách quan.....................................................................51
2.2. Nguyên nhân chủ quan.........................................................................54
III. Chống GLTM - Kết quả và hạn chế..................................................57
1. Kết quả đạt được......................................................................................57
2. Hạn chế....................................................................................................57
IV. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác chống GLTM..........61
1. Thuận lợi.................................................................................................61
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
2. Khó khăn.................................................................................................62
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM.............................................................................................65
I. Quan điểm về chống GLTM.................................................................65
1. Quan điểm pháp chế XHCN....................................................................65
2. Quan điểm quần chúng ...........................................................................66
3. Quan điểm toàn diện và đồng bộ.............................................................67
II. Một số giải pháp chống GLTM ở Việt Nam......................................67
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.................................................................67
2. Về kinh tế................................................................................................68
3. Cải cách thủ tục hành chính....................................................................68
4. Về tổ chức điều hành...............................................................................70

5. Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức giác ngộ nâng cao đời sống cho nhân
dân...............................................................................................................71
6. Tăng cường phối hợp giữa cán bộ ngành trong công tác chống buôn lậu và
GLTM..........................................................................................................72
7. Xây dựng lực lượng chống buôn lậu và GLTM trong sạch....................74
8. Trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho lực lượng chống buôn lậu và GLTM
.....................................................................................................................75
9. Kiểm tra sau thông quan..........................................................................76
10. Đẩy mạnh sản xuất trong nước..............................................................76
11. Một số giải pháp cụ thể cần được thực hiện..........................................77
III. Kiến nghị..............................................................................................80
1. Kiến nghị về xã hội hoá công tác đấu tranh chống GLTM.....................80
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
2. Kiến nghị hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống GLTM.......................81
KẾT LUẬN................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................85
-----o0o-----
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó cũng như sự tự do kinh doanh
trong kinh tế thị trường đã mở ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thúc đẩy quan hệ giao thương buôn bán
giữa các quốc gia phát triển một cách mạnh mẽ. Việt Nam là một đất nước phát
triển đi lên từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu
kém không đủ điều kiện cần thiết cho nền kinh tế phát triển. Trước tình hình đó
Nhà nước ta đã chuyển hướng phát triển kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết Vĩ mô của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Cơ chế kinh tế mở đã tạo ra những điều kiện thuận lợi

cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới đồng thời thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Việt Nam có thể
nhập máy móc trang thiết bị, nguyên vật liệu... của nước ngoài kết hợp với các
yếu tố năng lực sản xuất trong nước để phát triển sản xuất và đáp ứng nhu cầu
trong nước. Tuy nhiên do sản xuất trong nước còn nhiều yếu kém các sản phẩm
sản xuất phần nhiều có chất lượng thấp, giá thành và chi phí cao, khả năng cạnh
tranh của sản phẩm với hàng hoá của nước ngoài thấp do vậy để bảo vệ sản xuất
trong nước Nhà nước phải đặt ra hàng rào thuế quan. Mặt trái của chính sách
này là làm cho tệ nạn buôn lậu và GLTM diễn ra một cách tràn lan ở hầu khắp
các cửa khẩu, địa phương trong cả nước.
Trước tình hình này ở nước ta đang đặt ra những vấn đề hết sức nóng bỏng
và phức tạp. ở đây trên tuyến đường nào cũng có hàng lậu, hàng giả, điều này
gây ra những khó khăn và thiệt hại nghiêm trọng cho cả sản xuất và tiêu dùng
trong nước. Do vậy mỗi chúng ta phải có sự nhìn nhận đúng đắn và đầy đủ về
vấn đề này để không tiếp tay cho gian thương và phối hợp cùng với cơ quan
chức năng thực hiện công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM một cách có
hiệu quả.
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Đối tượng nghiên cứu đề tài: Gian lận thương mại trong hoạt động kinh
doanh và quá trình phát triển kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong lĩnh vực ngoại thương thông qua hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong quá trình phát triển
nền kinh tế của đất nước cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nên em đã chọn đề tài: “Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại
trong điều kiện hiện nay”. Nội dung chính của đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: “Tổng quan về gian lận thương mại” nêu lên một cách khái
quát các khái niệm gian lận thương mại đồng thời nêu ra những tác động của
buôn lậu và gian lận thương mại đối với kinh tế của Việt Nam.

Chương II: “Thực trạng tình hình gian lận thương mại ở Việt Nam”
phản ánh những khó khăn, thuận lợi, những thành tựu đạt được và những hạn
chế tồn tại trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: “Một số giải pháp chống gian lận thương mại” đề cập đến
công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của các cấp, bộ,
ngành, cơ quan chức năng của Việt Nam.
Phương pháp mà em áp dụng cho việc xây dựng để tài này là sự kết hợp
những kiến thức đã được tích luỹ trong quá trình học tập với việc phân tích
những quan sát thu thập được trong thực tế; kết hợp giữa việc tổng hợp các tài
liệu, sách báo với việc tham khảo ý kiến của một số chuyên gia trong ngành.
Do trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, nguồn tài liệu và
thông tin còn hạn hẹp nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu
sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý chân thành của các thầy
cô giáo, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến những vấn đề mà em
đặt ra trong bài viết này.
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Nhân đây, em xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới Thầy giáo PGS.TS
Hoàng Ngọc Thiết, người đã trực tiếp hướng dẫn em tận tình trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thiện khoá luận này. Đồng thời, em cũng xin trân thành
cảm ơn Cục Quản Lý Thị Trường Bộ Thương Mại đã giúp em có được những
thông tin cần thiết, những tài liệu bổ ích và những ý kiến đóng góp quý báu để
em có thể hoàn thành được bài viết này.
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Chương I:
TỔNG QUAN VỀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
I. GIAN LẬN THƯƠNG MẠI, CÁC HÌNH THỨC GLTM:
1. Gian lận thương mại: (Commercial Fraud)
GLTM là những hàng vi dối trá, mánh khoé, lừa lọc trong Thương mại

nhằm mục đích thu được một khoản lợi bất chính nào đó, mà lẽ ra những khoản
lợi thu được này họ không được hưởng. Ví dụ: Hàng xấu nói là hàng tốt để lừa
người mua nhằm mục đích bán được giá cao, bán được nhiều hàng. Hàng có
thuế suất cao nhưng được chủ hàng che giấu, nguỵ trang và khai với cơ quan
thuế là hàng có thuế suất thấp, hàng nhiều nhưng khai báo là hàng ít để trốn một
phần hoặc toàn bộ số tiền thuế phải nộp Nhà nước. Hành vi gian lận này là chủ
hàng (bao gồm hoặc người mua, hoặc người bán, hoặc cả người mua và người
bán) lừa dối cơ quan Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát hàng hoá.
Hàng cấm, hàng Nhà nước quản lý và hạn chế lưu thông nhưng được chủ hàng
dùng thủ đoạn qua mắt các cơ quan quản lý...
Như vậy, GLTM trước hết phải là hành vi gian lận nói chung, nhưng hành
vi gian lận này phải được thể hiện trong lĩnh vực Thương mại thông qua đối
tượng thể hiện là hàng hoá, dịch vụ. Chủ thể của những hành vi GLTM là các
chủ hàng, có thể là người mua, người bán, cũng có thể là cả người mua và người
bán. Mục đích của hành vi GLTM là nhằm thu lợi bất chính do thực hiện trót lọt
hành vi lừa đảo, dối trá.
GLTM là một hiện tượng Xã hội mang tính lịch sử vì chỉ khi có sản xuất
hàng hoá, khi các sản phẩm được mang ra trao đổi trên thị trường, có người
mua, người bán nhằm thực hiện phần giá trị được kết tinh trong hàng hoá thì
GLTM cũng mới xuất hiện. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, thị trường
ngày càng mở rộng, các sản phẩm đưa ra trao đổi buôn bán trên thị trường ngày
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
càng nhiều, tính chất và chủng loại hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đa
công dụng thì GLTM cũng càng tinh vi, phức tạp và mang tính toàn cầu.
GLTM ở Việt nam ta không phải là vấn đề mới, từ xa xưa ông cha đã đúc
kết hành vi GLTM thành câu “Buôn gian bán lận” để chỉ những mặt trái của
việc buôn bán, để mọi người cảnh giác với thủ đoạn, mánh khoé, lừa dối khách
hàng của các gian thương. Ngày nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và
Nhà nước, trong điều kiện thực tế của nước ta, Đảng ta đã khẳng định phải phát

triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Chấp nhận cơ chế thị trường, tất yếu phải chấp nhận
cạnh tranh. Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những người sản xuất và trao đổi
hàng hoá nhằm giành cho mình điều kiện sản xuất và điều kiện tiêu thụ hàng hoá
có lợi nhất. Nguyên nhân và động cơ của cạnh tranh là lợi nhuận. Trong cạnh
tranh chắc chắn sẽ xuất hiện những hình thức và thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực,
phi kinh tế. Đó là hành vi lẩn tránh sự kiểm soát của Nhà nước như đầu cơ,
GLTM, trốn thuế, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ, lấy cắp bí mật sản xuất, làm giẩm uy
tín của đối thủ cạnh tranh...
Nói như vậy để thấy rằng chấp nhận cơ chế thị trường ngoài những mặt
tích cực, năng động thu được, chúng ta phải chấp nhận những mặt trái của nó,
trong đó có vấn đề GLTM và hậu quả của GLTM để tìm giải pháp quản lý, ngăn
chặn thích hợp, hiệu quả.
Buôn lậu về mặt lịch sử ở nước ta khái niệm này trước đây được hiểu là
buôn bán những hàng hoá mà Nhà nước cấm hoặc Nhà nước quán lý (độc
quyền) đến nay khái niệm này được luật hoá theo tội danh buôn lậu đó là: buôn
bán trái phép qua biên giới các loại hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử và văn hoá (theo Điều 153 Bộ
luật Hình sự năm 2000 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
So với khái niệm GLTM thì khái niệm buôn lậu hẹp hơn, nhưng buôn lậu
bao giờ cũng có yếu tố qua biên giới trong khi không phải tất cả các trường hợp
GLTM đều có yếu tố này.
2. Sự cần thiết phải xác định một tội danh - Tội GLTM:
Do quan niệm về gian lận chưa đúng nên còn có sự lẫn lộn giữa GLTM với
buôn lậu hoặc lẫn lộn giữa GLTM với các hành vi vi phạm hành chính. Từ đó
dẫn đến việc xác định tội danh của hành vi GLTM cũng không chính xác, phù
hợp.
Sau đây là một ví dụ: Điều 97 - Bộ Luật hình sự nước Cộng hoà XHCN

Việt Nam có qui định tội danh buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá,
tiền tệ qua biên giới. Trong đó bao hàm các hành vi thuộc về hành vi GLTM
như: không khai báo, khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng hóa.
Như vậy, khi phát hiện các hành vi GLTM như trên có thể vận dụng điều
97 về tội danh buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên
giới để xử lý, để khởi tố hình sự.
Mặt khác, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 20/3/1996 qui định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan. Cũng như qui định quyền xử phạt hành
chính của các cơ quan Hải quan được thực hiện với các loại vi phạm hành chính
sau:
- Vi phạm các qui định về thủ tục Hải quan khi xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh Việt Nam.
- Vi phạm các qui định về giám sát, kiểm tra, kiểm soát Hải quan.
- Buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, hành lý, bưu phẩm, bưu
điện, ngoại hối, tiền Việt Nam và những vật phẩm khác qua biên giới chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Những vi phạm hành chính cụ thể thuộc loại vi phạm hành chính trên đây
mà Hải quan có quyền xử phạt được giải thích có thể là: không khai báo hoặc
khai báo không đúng việc XNK hàng hoá, hành lý, tiền tệ, tự ý phá niêm phong
Hải quan, phương tiện vận tải tự ý cập mạn tàu, thuyền và phương tiện vận tải
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khác đang chịu sự kiểm tra, giám sát của Hải
quan.
Như vậy, khi xử lý các hành vi vi phạm GLTM cũng có thể áp dụng xử
phạt vi phạm hành chính. ở đây một vấn đề nổi cộm là cùng một hành vi vi
phạm như không khai báo hoặc khai báo không đúng... việc xử lý có thể áp dụng
Điều 97 Bộ Luật hình sự và ghép vào tội danh; tội buôn lậu, nhưng cũng hành vi
đó cũng có thể áp dụng Điều 12 NĐ 16/CP về quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan. Do đó việc xác định tội
danh GLTM là một việc làm cần thiết nhằm xử lý đúng người, đúng tội, không
để sót lọt hành vi GLTM.
Buôn lậu cũng như GLTM nói chung là mặt trái của kinh tế thị trường để
lại những hậu quả nguy hại về kinh tế xã hội như kìm hãm sản xuất kinh doanh
trong nước, gây thất thu ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng môi trường đầu tư
nước ngoài, kèm theo những tệ nạn xã hội: tham nhũng, hối lộ... Vì vậy, muốn
phát triển lành mạnh nền kinh tế - xã hội chúng ta phải tích cực chống buôn lậu
và GLTM có hiệu quả nhằm tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh đáp
ứng nhu cầu hội nhập kinh tế.
3. Các hình thức GLTM:
Các hình thức GLTM theo cách phân loại của tổ chức Hải quan thế giới
(WCO).
Trong nhiều năm, hiện tượng GLTM trong hoạt động thương mại quốc tế
đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới và trở thành một mối đe doạ thực sự đối
với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh chính trị của các quốc gia.
11
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Những hậu quả xấu của nó có tác động rõ rệt và nghiêm trọng đến mọi mặt của
đời sống xã hội, đi ngược lại lợi ích của Nhà nước, làm tổn hại đến quyền lợi
của nhân dân, phá hoại môi trường cạnh tranh lành mạnh của kinh tế thế giới,
đồng thời gây tốn kém không nhỏ cho ngân sách của các quốc gia trong việc
thực hiện các biện pháp phòng chống GLTM.
Vì những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn này, hội nghị chống GLTM do
Hải quan thế giới triệu tập tại Brussel (Bỉ) với sự tham gia của đại diện Hải quan
từ hơn 50 nước và tổ chức quốc tế. Hội nghị đã xác định các hình thức GLTM
và đề ra các biện pháp cụ thể phòng chống tệ nạn này. Theo tài liệu số 36. 623
ngày 28/6/1995 của hội nghị nêu trên, GLTM gồm có 16 hình thức như sau:
1.1. Buôn lậu hàng hoá ( kể cả hàng bị cấm nhập khẩu và đặc biệt hàng
thuộc Công ước Washington bảo vệ động thực vật quý hiếm và các quy định

quốc gia về bảo vệ môi trường) qua biên giới hoặc ra khỏi kho Hải quan.
1.2. Khai báo sai.
1.3. Khai tăng, giảm trị giá.
1.4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ (kể cả chế độ hạn ngạch thuế).
1.5. Lợi dụng chế độ ưu đãi hàng gia công.
1.6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng
hoá được miễn thuế XNK nhưng đã sử dụng sai mục đích,...).
1.7. Lợi dụng yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (như các loại giấy
phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, y tế, văn
hoá,...).
1.8. Lợi dụng chế độ quá cảnh (Ví dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận
chuyển qua lãnh thổ Việt Nam).
1.9. Khai sai về số lượng, chất lượng hàng hoá.
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
1.10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, kể cả buôn bán trái phép hàng
được ưu đãi thuế, thuế nhập khẩu dành cho những đối tượng sử dụng nhất định
(Ví dụ: hàng cho đồng bào bị lũ lụt, cho các cơ quan ngoại giao, cho đồng bào
các dân tộc thiểu số, miền núi để xoá đói giảm nghèo,...).
1.11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ
người tiêu dùng.
1.12. Hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
1.13. Hàng giao dịch buôn bán không có sổ sách.
1.14. Yêu cầu giả, khống việc hoàn hoặc truy hoàn thuế Hải quan kể cả
các chứng từ hàng đã xuất khẩu ( Ví dụ: làm giả chứng từ về hàng đã xuất).
1.15. Kinh doanh “ma”, đăng ký kinh doanh lậu liễm nhằm hưởng tín
dụng trái phép.
1.16. Thanh lý có chủ đích (công ty kinh doanh một thời gian ngắn để nợ
thuế nhiều rồi tuyên bố thanh lý để tránh nộp thuế, giám đốc công ty đó thành
lập công ty mới ngay sau đó với cùng ý định. Vấn đề này còn gọi là “Hội chứng

Phượng hoàng”.
Cách phân loại này thể hiện cách nhìn khoa học và là kết quả nghiên cứu
các vấn đề thực tiễn trong nhiều năm hoạt động thương mại quốc tế ở nhiều
nước trên thế giới. Nó mang những nét chung của tình hình GLTM trong thương
mại thế giới, trong đó có Việt Nam. Tình hình thực tế ở nước ta thời gian qua
cho thấy, các thủ đoạn GLTM trong hoạt động thương mại quốc tế cũng chính là
các hình thức mà tổ chức Hải quan thế giới đã xác định như đã nêu trên.
Thái độ ứng xử đối với 16 hành vi này là thống nhất với nhau ở 2 cung bậc,
tuỳ thuộc vào mức độ tác hại của hành vi đó mang lại cho xã hội mà xử lý hành
chính hay xử lý hình sự. Đối với một số nước như Mỹ, Nhật, Pháp,.. bên cạnh
việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật Hải quan còn
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
quy định trong luật hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với những hành vi đó.
Đối với nước ta thái độ ứng xử này với các hành vi diễn ra theo ba trường hợp:
+ Hành vi có tính chất không nghiêm trọng, giá trị tài sản buôn bán sai
phạm không lớn thì xử lý hành chính theo pháp lệnh Hải quan và các nghị định
của Chính phủ về quản lý XNK.
+ Một số hành vi trong số đó chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam
nên không xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng không bị xử lý như hành vi vi phạm
đạo luật về diễn giải thương mại,...
+ Tất cả các hành vi có tính chất nghiêm trọng, hậu quả lớn đều bị xử lý
dưới tội danh chung của Điều 97 (Bộ Luật hình sự nước cộng hoà XHCN Việt
Nam) là buôn lậu.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BUÔN LẬU VÀ GLTM :
Theo pháp luật Việt Nam, GLTM không phải là một tội danh trong luật
hình sự nhưng các biểu hiện đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu, một
bộ phận của GLTM là buôn lậu và buôn lậu bao gồm cả GLTM. Cả hai khái
niệm này vẫn thường đi đôi và gắn liền với nhau trong tiềm thức xã hội, chúng
có phần nằm trong nhau nhưng không bao hàm tất cả, đặc biệt là GLTM ngoài

buôn lậu còn bao gồm nhiều hình thức khác như buôn bán hàng giả, ăn cắp mẫu
mã, khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá,...
Buôn lậu là một hình thức của GLTM, nhưng khác với các hình thức
GLTM là nó mang tính chất phức tạp và rất nghiêm trọng. Nó là trường hợp đặc
biệt của GLTM. Nó bao hàm các hành vi dấu diếm để trốn tránh hoàn toàn hoặc
một phần việc kiểm tra của Hải quan bằng mọi thủ đoạn và phương tiện khác
nhau để thu lợi. Trong khi GLTM là việc làm trái quy định của pháp luật, chính
sách hoặc lợi dụng sự sơ hở, không rõ ràng, không chính xác khoa học và đầu đủ
của Luật pháp, chính sách và việc quản lý cơ sở của các cơ quan quản lý chức
năng để thực hiện hành vi gian dối, lừa gạt qua cửa khẩu một cách công khai
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
nhằm thu lời bất chính. Như vậy phạm vi của khái niệm GLTM rộng hơn khái
niệm buôn lậu.
III. TÁC ĐỘNG CỦA GLTM:
1. Tác động tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân:
Sự ra đời của hàng rào thuế quan nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong
nước, bảo vệ an ninh trật tự xã hội và nền văn hoá truyền thống của dân tộc ta
trong suốt thời gian qua, thế nhưng sự xuất hiện và phát triển của tệ nạn GLTM
đã có ảnh hưởng không nhỏ tới toàn bộ nền kinh tế - văn hoá - xã hội.
Tệ nạn GLTM ngày một gia tăng và với các thủ đoạn tinh vi xảo quyệt gây
thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế đất nước. Chẳng hạn, tệ buôn lậu trốn
thuế qua các cửa khẩu hàng năm làm thất thu ngân sách Nhà nước, gây khó khăn
trở ngại cho Nhà nước trong công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý hoạt động
thu nộp thuế, gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước.
Tệ nạn GLTM tràn lan như một bệnh dịch ở hầu khắp các địa phương trong
cả nước, từ đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến thành thị, hầu khắp các
cửa khẩu từ Bắc vào Nam các khu vực biên giới với Trung Quốc, Lào,
Campuchia, đều có hoạt động của bọn buôn lậu và GLTM. Từ hoạt động xuất
khẩu đến nhập khẩu, thương mại tiểu ngạch hay chính ngạch, bất cứ khi nào, nơi

nào, lĩnh vực nào, tuyến đường nào cũng có tệ nạn, nhức nhối và nóng bỏng.
Dân cư ở khu vực biên giới tiếp tay cho buôn lậu và gian thương vì làm thuê cho
họ thì có thể được nhiều tiền hơn và như vậy họ bỏ bê ruộng vườn, không chịu
làm ăn phát triển kinh tế vùng biên giới, kinh tế vùng biển vốn dĩ đã khó khăn
nay lại càng khó khăn hơn.
Buôn lậu và GLTM có tác động xấu đến sản xuất trong nước làm cho hàng
hoá trong nước khó có thể cạnh tranh với hàng lậu, hàng giả với giá hạ hơn. Nó
thậm chí làm cho sản xuất trong nước phải điêu đứng và kìm hãm sự phát triển
sản xuất. Ví dụ: tình hình sao in các băng đĩa lậu, xà phòng OMO thì được các
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
gian thương đổi lại thành TOMO để lừa người tiêu dùng, các hàng điện tử của
Tàu được bày bán tràn lan trên thị trường với giá thành rẻ bằng chỉ bằng 1/4 so
với giá hàng hoá trong nước sản xuất hay hàng nhập khẩu, tình trạng quay vòng
tem hàng nhập khẩu đối với những hàng nhập khẩu buộc phải dán tem hàng
nhập khẩu khi lưu thông trên thị trường ....
Hơn thế nữa, thị trường Việt Nam có nhu cầu lớn và dễ tính trong tiêu
dùng. Tuy sức mua của người dân còn hạn chế (do thu nhập) nhưng thị trường
Việt Nam gần 80 triệu dân là một thị trường có nhu cầu lớn về tiêu dùng và đặc
điểm là dễ chấp nhập hàng hoá rẻ, sính hàng ngoại và không cần quan tâm đến
nguồn gốc nhập lậu hay GLTM và không cần hoá đơn, chứng từ khi mua bán
hàng hoá. Mặt khác, sản xuất hàng hoá ở nước ta những năm qua tuy có mặt
phát triển nhưng nhìn chung chưa thể cạnh tranh được về mẫu mã, chủng loại,
chất lượng và giá cả. Có thể coi đây là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến
hàng lậu và GLTM lấn át, chiếm lĩnh thị trường nước ta. Nhìn chung, tệ nạn
buôn lậu và GLTM kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, kìm hãm sự phát
triển kinh tế dựa vào nội lực trong nước.
2. Tác động tới trật tự an toàn xã hội:
GLTM với các hình thức khác nhau xuất hiện ở khắp mội nơi trong cả
nước, sự xuất hiện và hoạt động của chúng đã gây rối loạn và xáo trộn về trật tự

an ninh, an toàn xã hội. Chúng tổ chức buôn lậu thành đường dây từ khâu mua,
vận chuyển qua biên giới đến tiêu thụ với sự tham gia của nhiều đối tượng khác
nhau, trong đó có cả người nước ngoài, cán bộ Hải quan,... làm cho tình hình an
ninh biên giới bất ổn, khó kiểm soát và xử lý phức tạp. Bọn buôn lậu và GLTM
lôi kéo một bộ phận lớn quần chúng nhân dân khu vực biên giới cửa khẩu tham
gia vào hoạt động buôn lậu và chống lại sự kiểm soát của Hải quan - cơ quan
quản lý Nhà nước, lợi dụng sự kém hiểu biết của quần chúng, dùng đồng tiền để
lôi kéo họ tiếp tay cho buôn lậu và GLTM, khi bị bắt thì họ chống trả quyết liệt
bởi họ không hiểu, không biết những việc làm mà mình làm là trái với pháp luật,
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
hoặc họ cố tình làm trái với quy định của Nhà nước để kiếm sống,... bọn gian
thương và các lực lượng diễn biến hoà bình còn lợi dụng sự kém hiểu biết này
để tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy, tư tưởng cực đoan chủ nghĩa, lôi kéo họ
chống lại chính quyền Nhà nước,... làm trật tự xã hội bị đảo lộn, tình hình chống
buôn lậu và GLTM ngày càng phức tạp hơn, an ninh chính trị ở khu vực biên
giới bị đe doạ nghiêm trọng.
- Bọn buôn lậu và GLTM lôi kéo một bộ phận cán bộ Nhà nước tham
gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM này làm suy đồi tư tưởng và làm mất tư
cách đạo đức của những kẻ hám lợi bỏ qua tất cả để chạy theo đồng tiền, bất
chấp luật pháp của Nhà nước để làm giàu cá nhân, gây mất lòng tin của quần
chúng, mất ổn định về chính trị, an ninh và an toàn xã hội.
- Một số mặt hàng mà pháp luật cấm như thuốc phiện, thuốc nổ, các
sản phẩm văn hoá phẩm đồi trụy,... đã được bọn chúng đưa vào làm suy đồi các
tư tưởng đạo đức của một số người không chỉ ở khu vực biên giới mà trong cả
nước, tác động đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội như gia tăng tội phạm,
cướp của giết người để lấy tiền mua ma tuý, tuyên truyền tư tưởng cực đoan
chống chính quyền, chênh lệch giữa kể giàu và người nghèo ngày càng lớn,...
ảnh hưởng đến an ninh, an toàn xã hội, văn hoá truyền thống của dân tộc.
3. Tác động đến doanh nghiệp và người tiêu dùng:

Trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, sản xuất trong
nước còn gặp nhiều khó khăn, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm
chưa cao, giá thành và chi phí sản xuất cao, các sản phẩm trong nước khó hoặc
không thể cạnh tranh được với hàng lậu, gian lận cùng loại, nhiều doang nghiệp
sản xuất phải đứng trước nguy cơ đóng cửa do không tiêu thụ được sản phẩm.
Một số hàng có được do buôn lậu và gian lận thuế được bán với giá thấp (nhưng
chất lượng cao hơn do được sản xuất với công nghệ hiện đại, chi phí cho sản
xuất thấp,...) đã chiếm lĩnh thị trường nội địa làm cho doanh nghiệp phải điêu
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
đứng và không bảo vệ được kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Một số mặt
hàng buôn lậu và gian lận có chất lượng kém nhưng mẫu mã đẹp giá thấp hơn
nhiều so với giá của sản phẩm trong nước, làm cho các doanh nghiệp sản xuất
và kinh doanh gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cạnh tranh, tiêu thụ và cải tiến
chất lượng sản xuất, hạ giá thành, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động.
Buôn lậu và GLTM không chỉ tác động đến sản xuất trong nước mà còn tác
động rất lớn đến người tiêu dùng trong nước. Một số khách hàng thích và ưu
tiên dùng hàng ngoại, hàng rẻ, dễ bị lừa gạt vì trong số đó có những mặt hàng
như dược phẩm thuốc bảo vệ thực vật,... không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà
còn gây thiệt hại cả về sức khoẻ, tính mạng cho cả người và động vật, thực vật,
thiệt hại cả về ngắn hạn lẫn lâu dài do hàng hoá kém, quá hạn sử dụng, hàng
giả,... không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Một số mặt hàng như ma tuý,
chất kích thích,... không chỉ tác động đến sức khoẻ mà còn tác động đến đạo
đức, lối sống của người tiêu dùng, làm suy đồi tư tưởng đạo đức và gây ra các tệ
nạn khác như: trộm cắp, cướp giật, giết người,... Các mặt hàng như thuốc nổ,
thuốc súng tác động đến tính mạng, an ninh chính trị quốc gia, gây rối loạn trật
tự an toàn xã hội. Nhìn chung GLTM làm cho lưu thông hàng hoá bị rối loạn,
trật tự thị trường bị đảo lộn, gây ra các cơn sốt về hàng hoá và giá cả, gây khó
khăn cho công tác quản lý thị trường, quản lý hoạt động XNK.

4. Tác động đến sự quản lý nhà nước (đến cán bộ nhà nước):
Do ý thức trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh chống
GLTM ở một số nơi, một số lúc còn chưa tốt, thậm chí còn nhận thức không
đúng về cuộc đấu tranh này dẫn đến buông xuôi; cơ chế chính sách về hoạt đọng
thương mại và đấu tranh chống GLTM còn chưa hoàn chỉnh thậm chí còn kẽ hở
bị lợi dụng; việc phối hợp giữa các lực lượng chức năng còn nhiều bất cập, hạn
chế; ở một số địa bàn trọng điểm lực lượng chức năng chống GLTM còn quá
mỏng, cơ sở thiếu thốn và lạc hậu; nạn tham nhũng, bảo kê, và thiếu việc làm
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
cũng là những nhân tố nuôi dưỡng tạo điều kiện cho GLTM tồn tại và phát
triển...
19
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Chương II:
THỰC TRẠNG GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I. TÌNH HÌNH GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM:
1. Tình hình chung trong cả nước:
Việt Nam là một đất nước có địa hình phức tạp đồi núi chiếm phần lớn diện
tích cả nước, có biên giới tiếp giáp Lào, Trung Quốc, Campuchia và các cửa
khẩu trải dài từ Bắc vào Nam - nơi kiểm soát hoạt động kinh doanh XNK. Đặc
điểm này của địa hình kết hợp với sự ra đời của hàng rào thuế quan và hệ thống
thuế đối với hoạt động kinh doanh làm cho tình hình GLTM trong cả nước có
những diễn biến phức tạp với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, để trốn lậu thuế,
tuồn hàng lậu qua cửa khẩu, chống lại sự kiểm soát của Hải quan, buôn bán và
kinh doanh hàng giả,...
Ở nước ta trong mấy năm gần đây tệ nạn GLTM phát triển tràn lan như một
bệnh dịch kéo dài âm ỉ làm đau đầu các nhà chức trách trong việc tìm các giải
pháp đặc trị chặn đứng căn bệnh này. Trên thực tế nạn GLTM xuất hiện khắp
nơi trên lãnh thổ Việt Nam từ khắp các biên giơí phía Bắc đến biên giới Tây

Nam, từ các cửa khẩu qua Trung Quốc, Lào, Campuchia đến các cửa khẩu quốc
tế, từ nông thôn đến thành thị, từ xuất khẩu đến nhập khẩu, từ hoạt động thương
mại chính ngạch đến hoạt động tiểu ngạch, từ đường bộ đến đường biển, đường
hàng không và bưu điện... chỗ nào, lĩnh vực nào, tuyến đường nào GLTM cũng
là những vấn đề nóng bỏng nhức nhối.
Trên các tuyến biên giới phía Bắc, phía Tây và Tây Nam của nước ta tình
hình GLTM diễn ra phức tạp và ngày càng tinh vi xảo quyệt. Điều đặc biệt
nghiêm trọng là trong khi Việt Nam ngăn chặn thì phía nước ngoài lại khuyến
khích, thực chất là họ muốn tiêu thụ hàng tồn kho ứ đọng của mình.
20
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo 127 - TW: Năm 2002, tình hình buôn lậu,
buôn bán hàng nhập lậu, gian lận thương mại vẫn diễn biến rất phức tạp trên tất
cả các tuyến và địa bàn trọng điểm; phương thức và thủ đoạn buôn lậu ngày
càng tinh vi hơn; sự chông trả người thi hành công vụ của các đối tượng tham
gia buôn lậu diễn ra quyết liệt và trắng trợn. Đáng chú ý một số tuyến , địa bàn
trọng điểm như sau:
0.1 Tuyến biên giới Việt - Trung:
Trên tuyến này buôn lậu diễn ra tấp nập hối hả nhất là ở các khu vực cửa
khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), Hữu Nghị, Tâm Thanh, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn
Lãng (Lạng Sơn), Chi Ma (Lạng Sơn),... Sau khi lực lượng Công an Trung
Ương triệt phá ổ buôn lậu tại Hang Dơi và có sự chỉ đạo kiên quyết của Uỷ ban
nhân dân Tỉnh, tình hình buôn lậu đã giảm nhưng trong tháng 11 và 12/2002
tình hình lại diễn biến phức tạp, hàng lậu được xé lẻ đi hai bên cánh gà cửa khẩu
Chi Ma, Tân Thanh, đường 05, 06, Kéo Kham. Tại các chợ và trung tâm thương
mại, hàng lậu vẫn được bày bán. Đã xảy ra tình trạng bọn cửu vạn tấn công Bộ
đội biên phòng để giải vây hàng hoá bị thu giữ.
Tại Quảng Ninh: Tình hình buôn lậu trên tuyến đường bộ đã giảm rõ rệt
do lực lượng Quản lý Thị trường phối hợp với các lực lượng khác tăng cường
kiểm tra, kiểm soát trong nội địa nhưng việc vận chuyển hàng lậu trên biển bằng

các tàu, thuyền đánh cá hoặc bè, mảng vẫn tiếp diễn, kết quả ngăn chặn còn hạn
chế.
Tại Lao Cai: Buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra với quy mô không
lớn nhưng tính chất lại phức tạp vì mặt hàng đa dạng; phương thức, thủ đoạn
hoạt động của các đối tượng buôn lậu rất tinh vi và thường xuyên thay đổi...
1.2. Tuyến biên giới Việt - Lào:
21
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Khu vực miền Trung tình hình buôn lậu chủ yếu ở khu vực cửa khẩu Lao
Bảo (Quảng Trị), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lò Quỳnh Lưu (Nghệ An), Cửa Sót (Hà
Tĩnh), Lý Hoá (Quảng Bình),...
Tại Quảng Trị: Đầu năm tình hình buôn lậu tại Lao Bảo khá phức tạp. Do
có sự chỉ đạo kiên quyết của các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân Tỉnh, tình hình
buôn lậu giảm nhiều. Từ cuối tháng 10 đến cuối năm 2002, tình hình buôn lậu
lại có chiều hướng gia tăng. Khu vực khuyến khích phát tiển kinh tế và thương
mại Lao Bảo vẫn là một trong những “điểm nóng” về buôn lậu, lượng hàng nhập
lậu qua đây tương đối nhiều (chủ yếu là thuốc lá ngoại, nước giải khát, rượu
ngoại). Tại thị xã Đông Hà hàng không rõ nguồn gốc vẫn bày bán khá nhiều.
Tại Hà Tĩnh: Tình hình nhập lậu đang có xu hướng gia tăng, hàng lậu đi
qua 2 bên cánh gà cửa khẩu Cầu Treo và Trạm KSLH Nước Sốt nhằm tránh sự
kiểm tra, kiểm soát. Sự chống trả các lực lượng chức năng của các đối tượng
buôn lậu tại đây rất quyết liệt.
Tại Nghệ An: Tình hình tại đây vẫn rất phức tạp, nhất là vùng biển Quỳnh
Lưu, Cửa Lò nhưng buôn lậu đã giảm, trong những tháng cuối năm chưa thấy có
dấu hiệu tăng lên. Ngoài ra, hàng lậu từ Cửa khẩu Cầu Treo qua đường Nam
Đàn, Hưng Nguyên vẫn được các đối tượng buôn lậuđưa về Thành phố Vinh để
tiêu thụ.
1.3. Tuyến biên giới Tây Nam:
Khu vực này tập trung ở khu vực huyện Đức Huệ (Lonh An), Phước Chỉ
(Tây Ninh), An Giang, Đồng Tháp khu vực này bọn buôn lậu và GLTM dùng

rất nhiều thủ đoạn tinh vi như quay vòng tem nhập khẩu, sử dụng tem giả, quay
vòng vỏ thùng hàng đã dán tem, chẻ nhỏ hàng từ xa để vận chuyển, thuê mướn
nhà xưởng, xe công cụ của một số cơ quan, doanh nghiệp để làm kho trung
chuyển, sử dụng hồ sơ chứng từ giả quay vòng nhiều lần, đặc biệt gần đây bọn
buôn lậu còn dùng hình thức cưới xin vùng biên giới để vận chuyển hàng lậu.
22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
Đây là tuyến buôn lậu tập trung sôi động phức tạp từ lâu trong đó mặt hàng nhập
lậu chủ yếu là thuốc lá ngoại, xe gắn máy “nghĩa địa”, quần áo si đa, đồ điện tử,
hàng xa xỉ phẩm, đồ chơi trẻ em,... của Thái Lan, Nhật Bản, Tây Âu. Hàng xuất
lậu chủ yếu là vàng, ngoại tệ, xăng dầu, nông sản thực phẩm làm cho hiện tượng
chảy máu vàng, ngoại tệ ra nước ngoài ngày một lớn mạnh. Những hàng hoá này
được đưa vào nội địa tiêu thụ phần nhiều là vào TP.HCM, đây là thị trường tiêu
thụ rộng không chỉ hàng hoá ở Tây Nam mà còn có các mặt hàng nhập lậu từ
biên giới phía Bắc được đưa vào như vải, quần áo, hàng điện tử, xe đạp, gạch
men,... có nguồn gốc từ Trung Quốc. Mặt hàng chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong
hàng nhập lậu là thuốc lá, lúc cao điểm có khi lên đến mức 1 triệu bao/1 ngày.
Theo cục điều tra chống buôn lậu bình quân mỗi ngày có khoảng 700 - 800 kiện
thuốc lá được trở về từ Campuchia, ước tính một tháng có khoảng 12 - 15 triệu
bao nhập lậu qua khu vực này trong khi đó theo ban chỉ đạo 1 tháng lực lượng
chống buôn lậu chỉ thu được khoảng 2 triệu bao. Mặt hàng nữa là xe máy nhập
lậu từ cuối năm 1997 đến đầu năm 1998 trung bình mỗi ngày có từ 30 - 40 xe
máy nhập lậu bằng nhiều cách, mướn người lái, dắt, có khi gắn biển số giả để
chạy vào nội địa. Hàng lậu được đưa vào nội địa cũng như xuất ra khỏi lãnh thổ
bằng nhiều tuyến khác nhau: đường bộ, đường biển, đường hàng không và
đường bưu điện.
1.4. Trên tuyến đường bộ:
Trên tuyến đường này bọn buôn lậu và GLTM thường sử dụng người địa
phương thông thạo đường ngang lối tắt, nắm vững quy luật hoạt động của lực
lượng kiểm soát để lợi dụng thời cơ mang các hàng lậu vượt biên xuyên rừng

xếp lên các xe lam thậm chí ô tô chở hàng thuê đậu rải rác cách cửa khẩu 1 - 2
km để chở về xuôi theo điểm hẹn của chủ hàng. Bọn buôn lậu và GLTM tìm
mọi cách để cột những người này phải phụ thuộc vào mình, chịu trách nhiệm với
số hàng mang vác do vậy mà khi bị bắt họ chống trả quyết liệt lại cơ quan chức
năng. “Cửu vạn” phải mang vác lên lưng vật rất nặng như tủ lạnh, nồi cơm điện,
23
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
máy giặt, linh kiện xe máy, ắc quy ô tô, 1 hoặc 2 thùng bánh ngọt trên lưng một
người cõng mà chỉ được bình quân 1 ngày 15.000 - 20.000 đồng sau khi trừ đi
tất cả các khoản phí. Đây là khoản thu nhập rất thấp so với công việc mà họ làm
nhưng vẫn cao hơn mức họ làm kinh tế gia đình ở địa phương, do vậy mà khu
vực cửa khẩu người ta thấy rằng người người, nhà nhà làm “cửu vạn” tiếp tay
cho buôn lậu, rất ít người than gia thậm chí ở miền xuôi cũng lên than gia vận
chuyển hàng lậu.
Núi rừng hiểm trở với đường ngang lối tắt chi chít đã trở thành vỏ bao bọc,
lưu trú cho “cửu vạn” và hàng lậu tránh sự dòm ngó của Hải quan, biên phòng
và các lực lượng chống buôn lậu. Bình quân mỗi ngày ở cửa khẩu Cầu Treo có
200 triệu hàng lậu trốn thuế qua mặt Hải quan. Ngày cao điểm lên tới 700 - 800
triệu đồng. Theo tuyến này bọn gian thương thường ẩn nấp trong rừng sâu, liên
lạc với nhau bằng điện thoại di động và điều khiển “cửu vạn”, xe chở thuê vào
nội địa gây cản trở cho lực lượng Hải quan cả về phương tiện, lực lượng và sự
thông thạo địa hình hiểm trở.
Mỗi cửa khẩu có những mặt hàng đặc trưng riêng, tuy nhiên do đặc thù
đường bộ nên chủ yếu là những mặt hàng có thể mang vác hoặc xé lẻ được để
mang vác vượt rừng đưa vào nội địa với khối lượng và giá trị lớn. Bọn buôn lậu
sau khi tập kết được hàng hoá chủ yếu vận chuyển bằng đường sắt để đưa sâu
vào nội địa, tập trung phần lớn trên các chuyến tàu hàng nguyên toa kẹp chì, vận
chuyển cả ngày lẫn đêm. Hàng lậu được tập kết một cách công khai coi thường
dư luận và pháp luật (đăc biệt là những năm 1997 trở về trước). Chủ hàng thông
đồng với nhân viên nhà ga và trên tàu để thực hiện hành động gian lận trốn thuế,

trốn cước và vận chuyển hàng cấm. Trên tuyến đường sắt Lào Cai - Yên Bái -
Việt Trì - Lạng Sơn - Yên Viên cho thấy hàng nhập lậu được chia nhỏ qua các
đường mòn biên giới tập kết tại khu vực nhà ga sát giờ tàu chạy ồ ạt được đưa
lên hay dỡ xuống trong các chuyến tàu khách. Khu vực nhà ga hàng lậu được
phân tán trong các nhà dân nhà ở của cán bộ công nhân viên chức nhà ga và khá
24
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÕ HiÕu
tự do rất khó cho công tác quản lý. Hàng lậu chủ yếu được tập kết và vận
chuyển vào ban đêm do rất nhiều “cửu vạn” thực hiện diễn ra trong thời gian
ngắn tàu đỗ tại ga làm cho các lực lượng kiểm tra, kiểm soát không đủ lực lượng
và thời gian thực hiện và bắt giữ xử lý. Tại một số cửa khẩu địa phương không
có tàu hoả hoặc được vận chuyển bằng các phương tiện khác như: ô tô, xe lam,...
bọn “đầu nậu” thường chia nhỏ phân tán hàng hoá thành nhiều chuyến, thay đổi
xe, đổi tuyến vận chuyển, thay đổi hoá đơn dùng hoá đơn buôn chuyến để hợp
pháp hoá các lô hàng chưa đóng thuế nhập khẩu theo phương thức “kiến tha lâu
cũng đầy tổ” này đã gây không ít khó khăn cho các lực lượng chống buôn lậu.
1.5. Trên tuyến đường Biển - Đảo:
Hoạt động buôn lậu và GLTM ở tuyến này tuy không sôi động như đất liền
nhưng lại được tổ chức rất quy mô, lượng hàng hoá lớn và có giá trị cao. Bọn
gian thương sử dụng phương tiện vận chuyển từ tàu đánh cá nhỏ đến tàu lớn như
tàu pha sông biển, tàu viễn dương. Chúng hoạt động có tổ chức và phối hợp chặt
chẽ với nhau, địa bàn rộng, tổ chức đường dây xuyên quốc gia, quốc tế, sử dụng
và trang bị hệ thống thông tin liên lạc điều khiển từ xa. Khu vực sôi động và
phức tạp nhất là các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh
Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Kiên Giang,...hàng hoá được
tập kết ở một số điểm: Cảng Kỳ Xá, Giang Bình, Phong Thanh...(Trung Quốc)
nơi các mặt hàng chủ yếu: vật liệu xây dựng, đồ điện tử điện lạnh của Nhật Bản,
hàng tiêu dùng như vải, quần áo may sẵn, động cơ nổ, đồ chơi trẻ em, xe đạp...
Bọn buôn lậu và GLTM có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau
nhưng chủ yếu là các loại tàu thuyền của các lực lượng vũ trang, tàu của các cơ

quan tham gia hoạt động XNK...trực tiếp đi Trung Quốc mua hàng hoăc vận
chuyển hàng hoá từ Trung Quốc về vào các bến cảng nhỏ, cảng cá, bến đậu
vắng, hẻo lánh để bốc dỡ hàng như khu vực giáp ranh Nam Định, Thái Bình,
khu vực sông Đà, Hoằng Hoá - Quảng xương (Thanh Hoá), Hoàng Mai - Lạch
Mai - Lạch Quyên, Quỳnh Lưu - Cửa Lò (Nghệ An), Cửa Sót (Hà Tĩnh)... khi
25

×