Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Những giải pháp nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.99 KB, 102 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
GS.TS.NGƯT Nguyễn Thị Mơ, Hiệu trưởng trường Đại học Ngoại Thương;
mặc dù rất bận với công tác khoa học cũng như công tác quản lý, cô vẫn thu xếp
thời gian, tận tình chỉ bảo hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khoá
luận. Thực sự những chỉ bảo và gợi mở của cô đã giúp em có được định hướng
nghiên cứu đúng đắn trước vấn đề mới mẻ và phức tạp với một sinh viên kinh tế,
giúp em trưởng thành lên rất nhiều từ những bước đầu tiên trên con đường
nghiên cứu khoa học.
Em cũng xin được cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã góp công dạy dỗ em
trong hơn bốn năm của sự nỗ lực, niềm vui và những bài học quý giá tại trường
Đại học Ngoại Thương.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình, và các bạn cùng lớp vì sự
ủng hộ trong sáng và nhiệt thành, đã góp phần quan trọng giúp em hoàn thành
nghiên cứu của mình.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
H Nà ội tháng 12 2003–
Trần Hải Quang
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
LỜI MỞ ĐẦU
I. KHÁI NI M V C NH TRANH TRONG KINH DOANHỆ Ề Ạ -----------------8
1.1 Kinh doanh v c i m c a các ho t ng kinh doanhà đặ đ ể ủ ạ độ ---------------------------------8
1.2 C nh tranh v vai trò c a c nh tranh i v i ho t ng kinh doanh ạ à ủ ạ đố ớ ạ độ ------------------10
II. MÔI TR NG C NH TRANH VÀ TÁC NG C A MÔI TR NG ƯỜ Ạ ĐỘ Ủ ƯỜ
C NH TRANH N CÁC HO T NG KINH DOANHẠ ĐẾ Ạ ĐỘ ------------------22
2.1 Khái ni m môi tr ng kinh doanhệ ườ ------------------------------------------------------------22
2.1.1 Môi trường kinh doanh là gì----------------------------------------------------------------------------------------22
2.1.2 Các yếu tố của môi trường kinh doanh ---------------------------------------------------------------------------24


2.2 Khái ni m môi tr ng c nh tranhệ ườ ạ ------------------------------------------------------------25
2.2.1 Môi trường cạnh tranh là gì-----------------------------------------------------------------------------------------25
2.2.2 Các yếu tố cơ bản của môi trường cạnh tranh -------------------------------------------------------------------28
2.3 Tác ng c a môi tr ng c nh tranh n ho t ng kinh doanhđộ ủ ườ ạ đế ạ độ ----------------------31
2.3.1 Tác động tích cực-----------------------------------------------------------------------------------------------------31
2.3.2 Tác động tiêu cực-----------------------------------------------------------------------------------------------------32
CH NG II: TH C TR NG MÔI TR NG C NH TRANH TRONG ƯƠ Ự Ạ ƯỜ Ạ
KINH DOANH VI T NAMỞ Ệ -----------------------------------------------------32
I. ÁNH GIÁ TH C TR NG C NH TRANH TRONG KINH DOANH Đ Ự Ạ Ạ Ở
VI T NAM Ệ ----------------------------------------------------------------------------32
1.1 Nh n xét chung v th c tr ng c nh tranh tr c th i k i m iậ ề ự ạ ạ ướ ờ ỳ đổ ớ ----------------------33
Bên cạnh đó, còn các nguyên nhân khác như hệ thống luật pháp về cạnh tranh chưa có, chính
sách khuyến khích cạnh tranh chưa đủ mạnh, hay việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, nạn
tham nhũng, móc ngoặc giữa giới doanh nhân và công chức Nhà nước. Ngoài ra, theo quan
điểm truyền thống cạnh tranh, kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản thường được gắn chặt với
nhau. Do vậy, cạnh tranh bị coi như một hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức, “cá lớn nuốt cá bé”,
là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như khủng hoảng kinh tế, phá
sản doanh nghiệp, nạn thất nghiệp… Những nguyên nhân trên đang làm xấu đi rất nhiều hoạt
động cạnh tranh trong kinh doanh ở Việt Nam. .....................................................................45
2.1 Nh ng thu n l i v k t quữ ậ ợ à ế ả-------------------------------------------------------------------46
2.1.1 Có sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức về cạnh tranh và độc quyền--------------------------------------46
2.1.2 Đã ban hành một số qui định pháp lý điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trên thị trường ------------------48
2.1.3 Môi trường cạnh tranh đang dần được cải thiện theo hướng lành mạnh hóa, tự do và bình đẳng hơn cho
mọi thành phần kinh tế------------------------------------------------------------------------------------------------------51
2.2 Nh ng khó kh n v t n t iữ ă à ồ ạ --------------------------------------------------------------------54
2
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
2.2.1 Việt Nam chưa có đạo luật độc lập về cạnh tranh---------------------------------------------------------------54

2.2.2 Hệ thống pháp luật về kinh doanh còn nhiều hạn chế, bất cập -----------------------------------------------55
2.2.3 Môi trường cạnh tranh có xu hướng ngày càng xấu đi do hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đang gia
tăng 57
2.2.4 Còn tồn tại các hành vi hạn chế cạnh tranh ----------------------------------------------------------------------62
2.2.5 Độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang tồn tại ------------------------------------------------------65
2.2.6 Chưa có một cơ quan chuyên trách để thống nhất quản lý các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------68
2.2.7 Chưa có những hiệp hội người tiêu dùng đủ mạnh để hỗ trợ giám sát cạnh tranh và độc quyền, nhằm bảo vệ
lợi ích của người tiêu dùng-------------------------------------------------------------------------------------------------68
2.3 Nguyên nhân c a nh ng t n t i ủ ữ ồ ạ -------------------------------------------------------------69
CH NG III: NH NG GI I PHÁP NH M T O MÔI TR NG C NH ƯƠ Ữ Ả Ằ Ạ ƯỜ Ạ
TRANH LÀNH M NH TRONG KINH DOANHẠ ------------------------------71
VI T NAM TRONG TH I GIAN T IỞ Ệ Ờ Ớ --------------------------------------71
I. VI T NAM H I NH P KINH T QU C T VÀ NH NG V N T Ệ Ộ Ậ Ế Ố Ế Ữ Ấ ĐỀ ĐẶ
RA TRONG C NH TRANH VÀ KINH DOANHẠ ------------------------------72
2.4 Kinh nghi m c a Hoa kệ ủ ỳ----------------------------------------------------------------------79
2.4.1 Kinh nghiệm về xây dựng luật cạnh tranh------------------------------------------------------------------------79
2.4.2 Kinh nghiệm về xây dựng cơ quan giám sát cạnh tranh--------------------------------------------------------81
2.4.3 Kinh nghiệm về chống độc quyền thông qua phân tích một số vụ chống độc quyền điển hình-----------82
2.4.4 Một số nhận xét rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của Hoa Kỳ ----------------------------------------------84
2.5 Kinh nghi m c a Phápệ ủ -------------------------------------------------------------------------84
2.5.1 Kinh nghiệm về xây dựng và thực thi luật pháp luật cạnh tranh-----------------------------------------------84
2.5.2 Một số nhận xét rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của Pháp---------------------------------------------------86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
3
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu rất đáng khích lệ. Những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ trước đã
chứng kiến sự tăng trưởng nhanh và mạnh mẽ trên hầu hết các lĩnh vực của nền
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WTO Tổ chức thương mại Thế giới
WEF Diễn đàn kinh tế Thế giới
VCCI Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
BTA Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ
EVN Tổng công ty Điện lực Việt Nam
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
4
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
kinh tế, với mức tăng bình quân GDP trên 8%/năm. Tiếp đó là giai đoạn chúng
ta có những điều chỉnh phù hợp nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu Á năm 1997, và thích ứng với hoàn cảnh mới nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế bền vững. Năm 2002 GDP Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng
7,04%/năm, và theo đánh giá mới nhất của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của
Quốc Hội thì năm 2003 tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 7,2 - 7,3%
1
(mức tăng
trưởng liên tục và cao nhất trong giai đoạn 1997 - 2003). Việt Nam đang tiến
những bước vững chắc trong quá trình xây dựng kinh tế, phấn đấu năm 2020 sẽ
trở thành một nước công nghiệp.
Để đạt mục tiêu đó, Nhà nước đã liên tục có những chính sách mới
khuyến khích phát triển kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
thành phần kinh tế và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Việc ra đời Luật

Thương mại 1997 và Luật doanh nghiệp 1999 được coi là hai dấu mốc quan
trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh ở Việt Nam.
Thời gian qua, hoạt động kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự khởi sắc mạnh mẽ.
Đặc biệt, sự ra đời của Luật doanh nghiệp 1999 không chỉ thể hiện sự đổi mới
về cách quản lý của Nhà nước với doanh nghiệp, mà còn phản ánh tư duy mới
của Nhà nước ta và toàn xã hội về vai trò của các thành phần kinh tế, của các
doanh nhân trên mặt trận xây dựng kinh tế. Chưa bao giờ việc thành lập doanh
nghiệp và kinh doanh lại thuận lợi và dễ dàng như hiện nay.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận rõ một thực tế là hệ thống pháp luật về
kinh doanh của Việt Nam chưa đồng bộ và đầy đủ, chưa phát triển kịp thời với
thực tế rất sống động của thị trường, mà ví dụ điển hình là đến nay nước ta vẫn
chưa có Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Những năm qua xuất hiện rất
nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lạm dụng vị thế độc quyền mà chúng
ta không thể xử lý. Những hành vi như phá sóng liên lạc của Công ty taxi Tân
Hoàng Minh, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, sử dụng trái phép thương
hiệu, thỏa thuận ngầm trong đấu thầu, đấu giá…đang hàng ngày làm xấu đi môi
1
Nguồn: www.vnn.vn >kinh tế> GDP tăng trưởng cao nhất trong 6 năm qua, 08/10/2003.
5
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
trường cạnh tranh, làm tổn hại các doanh nghiệp kinh doanh chân chính, nghiêm
trọng hơn là gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế, cản trở việc gia nhập WTO của
nước ta.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu bức thiết là làm thế nào để nhanh chóng tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh, khuyến khích mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp
làm ăn chân chính hoạt động, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này không chỉ đòi
hỏi sự nỗ lực của Nhà nước, mà còn của bản thân doanh nghiệp, của người tiêu

dùng, và của toàn xã hội, nhằm tạo dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam. Xuất
phát từ suy nghĩ đó em chọn vấn đề ‘Những giải pháp nhằm tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay ’ làm đề tài của Khóa luận tốt
nghiệp Đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng cạnh tranh và môi trường
cạnh tranh ở Việt Nam thời gian qua, người viết cố gắng phân tích các nguyên
nhân dẫn đến các tồn tại, để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tạo dựng môi
trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận tốt nghiệp này là những quan hệ xã
hội liên quan đến cạnh tranh, môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam.
 Phạm vi nghiên cứu:
Cạnh tranh và môi trường cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp, hiện nay vẫn
còn nhiều quan điểm không thống nhất cả ở Việt Nam và trên thế giới. Hơn nữa
kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn mới hình thành, liên tục
có những biến đổi, vận động. Vì vậy, trong khuôn khổ hạn hẹp của Khóa luận
6
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
cũng như do hạn chế khả năng, sự am hiểu về thị trường ở Việt Nam, người viết
chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến môi trường cạnh tranh
trong kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, không phân biệt cạnh tranh của
doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân.
Khái niệm doanh nghiệp Việt Nam trong Khóa luận bao gồm các loại
hình doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp 1999, các doanh nghiệp
nhà nước hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước 1995, các doanh nghiệp

có yếu tố nước ngoài hoạt động tại Việt Nam theo luật đầu tư nước ngoài (ban
hành lần đầu năm 1987, sửa đổi lần gần nhất năm 2000).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận, người viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích,
tổng hợp; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thông qua các tài liệu và việc tìm
hiểu, tham khảo trực tiếp từ các nhà nghiên cứu, các nhà doanh nghiệp. Khóa
luận này cũng vận dụng các quan điểm, đường lối chính sách về phát triển kinh
tế thị trường của Đảng và Nhà nước để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài các phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Khóa luận được chia thành 03 chương như sau:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ MÔI
TRƯỜNG CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH TRONG KINH
DOANH Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TẠO MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH
LÀNH MẠNH TRONG KINH DOANH Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI
7
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ
MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH
I. KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH
1.1 Kinh doanh và đặc điểm của các hoạt động kinh doanh
1.1.1 Khái niệm kinh doanh
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh doanh. Từ điển tiếng Việt
xuất bản năm 2000 định nghĩa kinh doanh là “tổ chức việc sản xuất, buôn bán,

dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi”
1
. Cách hiểu này chưa thực sự đầy đủ và bao
quát hết các hoạt động kinh doanh, ví dụ các hoạt động đầu tư, mua bán chứng
khoán…
Kinh doanh theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam là
“phương thức hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn tại một nền kinh tế hàng
hóa, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương tiện mà chủ thể
kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao gồm quá
trình đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ …) trên cơ sở vận dụng
quy luật giá trị cùng các quy luật khác nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời cao
nhất”
2
. Cách hiểu này đã gắn hoạt động kinh doanh với kinh tế hàng hóa; tức là
kinh doanh chỉ xuất hiện khi có hàng hóa trao đổi; trong nền kinh tế tự cung tự
cấp không thể có hoạt động kinh doanh.
1
Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Ho ng Phê (chà ủ biên), NXB Đ Nà ẵng 2000, tr.529
2
Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam 1995, tr.581
8
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 1999 định nghĩa “kinh doanh là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”
1
. Như vậy, kinh doanh được hiểu rất rộng, bao hàm nhiều hoạt

động kinh tế từ đầu tư, sản xuất, mua bán trao đổi hàng hóa tới các dịch vụ như
cho thuê tài chính, thuê mua, li xăng, nhượng quyền, tư vấn… Bất cứ hoạt động
nào của chủ thể kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi đều được coi là hoạt động kinh
doanh. Đặc biệt, trước khi có Luật Doanh nghiệp 1999 các chủ thể kinh tế chỉ
được kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp cho phép, nhưng Luật Doanh nghiệp
1999 đã mở rào khi cho phép doanh nghiệp được “tự chủ đăng ký và thực hiện
kinh doanh”
2
các ngành mà luật pháp không cấm. Từ đó xuất hiện rất nhiều hoạt
động kinh doanh mà trước đây ở Việt Nam chưa hề có, như dịch vụ bảo vệ, môi
giới hôn nhân, tư vấn, chăm sóc trẻ em, người già, trông giữ vật nuôi trong gia
đình…Trong tương lai chắc chắn còn xuất hiện nhiều hình thức kinh doanh mới,
chúng tôi tán thành định nghĩa về kinh doanh như Luật doanh nghiệp 1999 qui
định, vì cách tiếp cận mở khái niệm kinh doanh như trên là hợp lý, phù hợp với
thực tiễn hoạt động kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2 Đặc điểm các hoạt động kinh doanh
Tuy khái niệm kinh doanh được hiểu rộng như vậy, nhưng các hoạt động
kinh doanh có chung một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện, được gọi là chủ thể
kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân kinh doanh, chủ doanh
nghiệp… những đối tượng trực tiếp ra quyết định kinh doanh, trực tiếp hoạt
động trên thị trường.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh luôn gắn với loại hàng hóa và thị trường
nhất định. Chủ thể kinh doanh căn cứ vào các thông tin từ thị trưòng mà đưa ra
các quyết định về sản phẩm gì, khách hàng là ai và phương thức kinh doanh như
1
Điều 3, Luật Doanh nghiệp 1999, NXB Chính trị Quốc gia 1999, tr.8
2
Điều 6 Luật Doanh nghiệp 1999, sđd. tr. 11
9

TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
thế nào. Ngày nay khi kinh tế thị trường phát triển tới trình độ cao, thì hoạt động
kinh doanh không chỉ gắn với một thị trường duy nhất, mà luôn tồn tại sự liên
kết, ảnh hưởng giữa các thị trường; giữa thị trường của các ngành khác nhau,
giữa thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
Thứ ba, kinh doanh luôn gắn với sự vận động của vốn. Nhà kinh doanh sử
dụng các yếu tố đầu vào tạo ra hàng hóa, cung cấp hàng hóa đó ra thị trường và
thu về một khoản tiền nhất định. Khoản thu nhập này thường lớn hơn giá trị ban
đầu của vốn. Theo phân tích của C.Mác sự vận động đó thể hiện qua công thức
T-H-T’. T là số tiền ban đầu nhà kinh doanh bỏ ra đầu tư vào tư liệu sản xuất và
lao động, H là hàng hóa được tạo ra, và T’ là giá trị nhà kinh doanh thu lại khi
hàng hóa được thị trường tiêu thụ. Chính nhờ sự vận động này mà nhà kinh
doanh thu được lợi nhuận. Không có sự vận động của vốn tức là không có hoạt
động kinh doanh.
Thứ tư, mục đích của kinh doanh là lợi nhuận. Đây là đặc điểm nổi bật
nhất của hoạt động kinh doanh, chi phối rất lớn hoạt động kinh doanh, đặc biệt
hoạt động cạnh tranh. Trong quá trình phát triển của doanh nghiệp, có những
giai đoạn có thể doanh nghiệp hành động đi ngược lại mục đích lợi nhuận của
mình, như hạ giá sản phẩm, thậm chí chấp nhận lỗ, bán dưới giá thành sản xuất.
Tuy nhiên xét cho cùng thì doanh nghiệp vẫn hành động với niềm tin rằng mình
sẽ thu lợi nhuận lớn hơn trong tương lai. Lợi nhuận vừa là động cơ, mục đích
vừa là kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chính là cơ sở để
giúp cho sự phân biệt với các hoạt động phi lợi nhuận là những hoạt động không
phải là kinh doanh.
1.2 Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh
1.2.1 Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam. Các khái niệm liên
quan đến lĩnh vực này đang còn được nhận thức rất khác nhau. Theo định nghĩa

của Từ điển tiếng Việt, cạnh tranh là “tranh đua giữa những cá nhân, tập thể
10
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình”
1
. Như
vậy phải tồn tại một nhóm (lớn hơn hai) người hoặc tổ chức cùng có mục đích là
giành phần lợi về mình, và phần lợi chung ấy là hữu hạn thì sẽ nảy sinh sự ganh
đua, tranh đua, giành giật giữa các nhóm lợi ích ấy; đó chính là cạnh tranh. Hoạt
động cạnh tranh có thể diễn ra trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, chứ
không bó hẹp trong hoạt động kinh doanh.
Khái niệm cạnh tranh đã được sử dụng rất rộng rãi trong khoa học kinh tế,
thuật ngữ này được dùng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành,
các quốc gia. Vì vậy, hiện nay chưa có một định nghĩa về khái niệm này một
cách thống nhất.
Theo định nghĩa của Đại từ điển kinh tế thị trường, cạnh tranh“là biểu
hiện của chủ thể hành vi kinh tế cùng loại trong nền kinh tế thị trường vì nghĩ
đến lợi ích của bản thân nhằm tăng cường thực lực kinh tế của mình, loại trừ
hành vi tương đồng của chủ thể hành vi kinh tế cùng loại”
2
. Theo cách hiểu
này thì cạnh tranh xuất phát từ xung đột về quyền lợi kinh tế giữa các chủ thể
kinh tế “cùng loại” (cùng cung cấp một loại sản phẩm, dịch vụ). Cạnh tranh có
hai mục tiêu cụ thể là tăng cường năng lực của mình và loại trừ đối thủ; cách
hiểu này gần tương đồng với quan điểm của GS.TS. Đào Trí Úc, Viện trưởng
Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật. Ông đưa ra định nghĩa cạnh tranh là
“sự chạy đua, hay ganh đua giữa các thành viên của một thị trường hàng hóa,
sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách

hàng, thị trường và thị phần của một thị trường”
3
.
Như vậy về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên cơ sở
của tiền đề là: có sự hiện diện của các thành viên thương trường, có cuộc chạy
đua vì mục tiêu kinh tế giữa các thành viên, và chúng đều diễn ra trên một thị
trường cụ thể. Khái niệm thị trường để nghiên cứu cạnh tranh là xác định về đối
1
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ v Và ăn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hóa
thông tin 1998, tr.258
2
Đại từ điển Kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu v phà ổ biến tri thức bách khoa 1998, tr. 149
3
Nguồn: Viện nghiên cứu Nh nà ước v Pháp luà ật, Cạnh tranh v xây dà ựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
hiện nay, NXB Công an Nhân dân 2001, tr. 8
11
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
tượng, không gian và thời gian. Khái niệm hàng hóa ở đây nên hiểu là bao gồm
cả hàng hóa hữu hình và vô hình (hàng hóa và dịch vụ).
Tuy nhiên, cách hiểu này mới chỉ đề cập tới một khía cạnh mục đích của
cạnh tranh là lôi kéo khách hàng, thị phần mà chưa bao quát được cạnh tranh về
các yếu tố đầu vào. Trong thực tế những cuộc đua nhằm giành được các điều
kiện sản xuất cũng không kém phần gay gắt. Khả năng tiếp cận nguồn lao động,
vốn, kỹ thuật, nguồn nguyên liệu… có ảnh hưởng sống còn tới sự phát triển của
doanh nghiệp. Hơn nữa, lý thuyết kinh doanh hiện đại cho chúng ta thấy không
chỉ có sự cạnh tranh giữa các hàng hóa “cùng loại” đơn thuần, mà còn có cạnh
tranh giữa các sản phẩm thay thế. Một doanh nghiệp sản xuất bút viết cao cấp
liệu có cần phải “tranh đua” với một doanh nghiệp sản xuất cà vạt cho giới

thương gia, sự ra đời của máy vi tính có đe dọa tương lai của máy chữ, hay liệu
Internet có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các công ty viễn thông, của
các tòa soạn báo…Thực tế là rất ảnh hưởng và thậm chí trong nhiều trường hợp
biến động của một thị trường quyết định tới sự tồn vong của thị trường khác.
Trong kinh tế thị trường hiện đại sự liên kết ảnh hưởng diễn ra đa chiều và rất
phức tạp, kéo theo các hoạt động cạnh tranh rất phong phú, đa dạng. Thực tế đó
đòi hỏi một cách tiếp cận khái niệm cạnh tranh thoáng hơn, linh hoạt hơn.
Chúng tôi thấy cách tiếp cận sau là tương đối thỏa đáng và đáp ứng yêu
cầu trên. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa cạnh tranh là “hoạt động
tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, giữa
các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung
cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”
1
.
Như vậy các chủ thể hoạt động kinh doanh cạnh tranh với nhau nhằm xác
lập việc phân phối các yếu tố sản xuất và thị trường; từ đó giành được lợi thế
nhất định cho bản thân chủ thể kinh doanh, với mục đích cuối cùng vẫn là lợi
nhuận. TS. Nguyễn Quốc Dũng cũng đưa ra cách hiểu khái niệm cạnh tranh
tương tự: “cạnh tranh là quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh
đua nhau, tìm mọi biện pháp, cả thủ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế
1
Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, sđd. tr. 357
12
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
của mình, thông thường là nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng,
cũng như các điều kiện sản xuất, tiêu thụ hàng hóa có lợi nhất”
1
. Cạnh tranh

hiểu theo nghĩa này hoàn toàn phân biệt với các hiện tượng xã hội mang tính
cạnh tranh, như thi đua xã hội chủ nghĩa hay thi đấu thể thao. Cạnh tranh là ganh
đua, tranh đua, có tính quyết liệt hơn thi đua; cạnh tranh là động lực của sự phát
triển, còn thi đua chỉ có tác dụng thúc đẩy không thể là động lực phát triển kinh
tế. Trong cạnh tranh không có thước đo chuẩn mực cho thành tích, cũng không
có luật chơi cụ thể cho các thành viên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh; còn trong
thể thao, chúng ta có thể thấy sự thống nhất và công nhận lẫn nhau của thành
tích thể thao trên phạm vi thế giới. Hay nói cách khác, nếu một vận động viên
thành công tại đấu trường SEAGAMES, phá kỷ lục thế giới, thành tích ấy có thể
được công nhận trên phạm vi toàn cầu. Nhưng nếu một doanh nghiệp cạnh tranh
thành công ở khu vực ASEAN, doanh nghiệp đó rất có thể vẫn hứng chịu thất
bại thảm hại khi tham gia thị trường Hoa Kỳ.
Tóm lại, theo chúng tôi, cạnh tranh có thể được hiểu là ganh đua giữa các
chủ thể kinh doanh trong việc giành nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm
nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
1.2.2 Phân loại cạnh tranh trên thị trường
• Cạnh tranh tự do: là hình thái thị trường thoát khỏi mọi sự can thiệp của
Nhà nước, nền kinh tế hoàn toàn vận động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường là việc sử dụng giá cả và doanh số bán ra trên thị trường để báo hiệu
những sản lượng (hoặc sự phân bổ các nguồn lực) được mong muốn
2
.
Cạnh tranh tự do được các nhà kinh tế có tư tưởng tự do kinh tế ủng hộ,
tiêu biểu trong số đó là Adam Smith với học thuyết “bàn tay vô hình”. Theo
ông, “bàn tay vô hình” chính là các qui luật kinh tế khách quan tự phát chi phối
hoạt động của con người. Khi một người chạy theo lợi ích bản thân, “bàn tay vô
hình” buộc con người kinh tế đồng thời phải thực hiện một nhiệm vụ (dù anh ta
1
Nguồn: Nguyễn Quốc Dũng, Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Kinh tế,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2000, tr. 8

2
Nguồn: Bradley R. Schiller, Kinh tế ng y nay, NXB à Đại học Quốc gia H Nà ội 2002, tr. 615
13
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
không dự kiến) là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi còn đáp ứng tốt hơn so với
khi anh ta có dự kiến. Do đó, việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế sẽ làm giảm
bớt sự tăng trưởng của cải và sử dụng không hiệu quả tài nguyên. Như vậy, nền
kinh tế không đặt ra vấn đề kiểm soát, điều tiết cạnh tranh.
• Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là hình thái thị trường của các
nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thực tế, hiện nay trên thế giới không tồn tại một nền kinh tế thị trường
nào thực sự tự do hoàn toàn, ngay cả nền kinh tế Mỹ, Chính phủ cũng có vai trò
điều tiết nhất định. Điểm khác biệt thực sự giữa các nền kinh tế hiện nay là mức
độ can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Bản thân Adam Smith cũng không loại
bỏ hẳn vai trò của Nhà nước. Ông thừa nhận một số ngoại lệ cho Nhà nước, như
việc cung cấp hàng hóa công cộng, như: đường xá, quốc phòng, ngăn ngừa tích
tụ độc quyền và tạo thể chế cho quyền sở hữu tư nhân, an toàn cá nhân và các
hợp đồng giao dịch để thị trường vận hành trôi chảy. (Hàng hóa công cộng được
hiểu là hàng hóa và dịch vụ được một người tiêu thụ không loại trừ việc tiêu thụ
nó của người khác)
1
.
Nguyên nhân chính dẫn tới sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế chính
là sự thất bại của thị trường: sản lượng không phù hợp, thất nghiệp, khủng
hoảng, lãng phí tài nguyên, huỷ hoại môi trường, vấn đề công bằng xã hội…
Theo cách diễn đạt của Robert Hebrouer thì: “Thị trường có một cái tai rất thính
đối với các yêu cầu của tư nhân, nhưng lại điếc với các nhu cầu công cộng”
2

.
Bốn nguyên nhân đặc trưng của thất bại thị trường thường được dẫn ra là: sự cần
thiết phải có hàng hóa công cộng, các tác động ngoại ứng không được phản ánh
qua giao dịch thị trường, cấu trúc và hành vi thị trường không đảm bảo cạnh
tranh hoàn hảo, và sự công bằng theo quan điểm đạo đức xã hội (xem thêm phụ
lục 1).
1
Bradley R. Schiller, Kinh tế ng y nay, sà đd. tr. 704
2
Bradley R. Schiller, Kinh tế ng y nay, sà đd. tr. 701
14
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
• Cạnh tranh hoàn hảo (perfect competition): còn được gọi là cạnh tranh
thuần tuý (pure competition) là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại
hàng hóa không đổi trong toàn bộ các địa danh của thị trường
1
.
Người mua và người bán đều hiểu biết tường tận các điều kiện của thị
trường. Trong thị trường có sự luân chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này
sang ngành khác. Ở điều kiện như, vậy không công ty nào có đủ sức mạnh để
ảnh hưởng đến giá sản phẩm trên thị trường. Các doanh nghiệp và khách hàng
đều là những “người chấp nhận giá” (price-taker). Giá cả được định đoạt một
cách duy nhất thông qua quan hệ cung cầu. Những đặc điểm cơ bản cho cạnh
tranh hoàn hảo là: có một số lượng lớn các hãng (cả bán và mua), tất cả đều có
quy mô nhỏ, tất cả các hãng đều có mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, các hãng có
thể gia nhập hay rút lui khỏi thị trường một cách dễ dàng, không tốn kém, hàng
hóa trao đổi là hoàn toàn thuần chủng, thông tin thị trường tường minh.
• Cạnh tranh không hoàn hảo (imperfect competition): là hình thức cạnh

tranh chiếm ưu thế trong các ngành mà các chủ thể kinh doanh có quyền lực thị
trường tương đối lớn để có thể kiểm soát giá cả sản phẩm đầu ra hoặc đầu vào
của họ
2
. Thực tế cho thấy rằng không bao giờ có thể tồn tại cạnh tranh hoàn
hảo, bởi những giả thiết về sự tồn tại của các nhân tố hoàn hảo của thị trường là
điều gần như không tưởng. Sở dĩ, có thực trạng này vì mục đích tối đa hóa lợi
nhuận của các doanh nghiệp trong cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung tư bản, phân bố các doanh nghiệp diễn ra không đều ở các ngành và lĩnh
vực kinh tế khác nhau. Hệ quả của các điều kiện gia nhập ngành và yêu cầu
công nghệ cao là trong một số ngành chỉ có một số ít các doanh nghiệp hoạt
động, ví dụ công nghiệp ô tô, vận tải, thiết bị điện tử, viễn thông…
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại là cạnh tranh mang tính độc quyền
và độc quyền nhóm. Độc quyền nhóm (oligopoly) là hình thái thị trường mà
trong đó chỉ có một số ít các doanh nghiệp, mỗi người đều nhận thức được rằng
1
Nguồn: Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp v kià ểm soát độc quyền, Viện nghiên cứu
khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) 1996, tr. 19
2
TS. Nguyễn Như Phát, ThS. Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an Nhân dân 2001, tr. 25
15
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
giá cả của họ không chỉ phụ thuộc vào năng suất của chính họ mà còn phụ thuộc
lớn vào hoạt động của các đối thủ cạnh tranh quan trọng trong ngành; mỗi doanh
nghiệp đều có ảnh hưởng lớn tới thị trường. Cạnh tranh mang tính độc quyền
(monopolistic competition) là hình thái thị trường có nhiều người bán cung cấp
các sản phẩm khác biệt nhau nhưng có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi hãng

chỉ có khả năng ảnh hưởng hạn chế tới giá sản phẩm của mình.
• Độc quyền (monopoly) là hình thái thị trường trong đó một doanh nghiệp
duy nhất bán một sản phẩm mà không có sản phẩm thay thế, hoặc gần giống với

1
. Việc thâm nhập vào ngành sản xuất sản phẩm này rất khó khăn hoặc không
thể được.
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn tới độc quyền, mặt
khác sự thôi thúc của mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cũng hình thành nên các tổ
chức độc quyền, thế lực độc quyền. Để giành vị trí độc quyền các doanh nghiệp
cần phải có ưu thế vượt trội so các doanh nghiệp khác, họ phải thường xuyên cải
tiến tổ chức, quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tập trung mọi nguồn
lực. Bởi vậy, độc quyền khi mới xuất hiện cũng có những tác dụng tích cực. Tuy
nhiên, khi đã có vị trí độc quyền, doanh nghiệp thường có xu hướng duy trì vị trí
độc tôn bằng cách thôn tính các đối thủ cạnh tranh, dựng lên các rào cản gia
nhập cao, tạo điều kiện cạnh tranh không bình đẳng cho các doanh nghiệp khác;
quy định giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền hạ nhằm thu được lợi nhuận
độc quyền cao (xem bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm của cơ cấu thị trường
Cơ cấu thị trường
Đặc điểm
Cạnh tranh
hoàn hảo
Cạnh tranh
độc quyền
Độc quyền
nhóm
Độc quyền
Số lượng hãng Rất nhiều Nhiều Ít Một hoặc rất ít
Rào cản gia nhập Không có Thấp Cao Cao

1
David Begg, Stanley Fischer v Rudiger Dauburch, Kinh tà ế học, tập 1, NXB Giáo dục 1995, tr. 207
16
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Sức mạnh thị trường Không có Một số Lớn Lớn
Loại sản phẩm
Được tiêu
chuẩn hóa
Được phân
biệt
Tiêu chuẩn hóa
hoặc phân biệt
Duy nhất
Nguồn: Bradley R. Schiller, Kinh tế ngày nay, sđd. tr.653
Đôi khi, độc quyền xuất hiện thoát ly ý thức chủ quan của doanh nghiệp,
đó là trường hợp độc quyền tự nhiên. Một số ngành công nghiệp có thể trở thành
độc quyền tự nhiên do đặc điểm công nghệ, nhu cầu đối với sản phẩm, yêu cầu
lợi ích theo qui mô… Với những ngành này cạnh tranh không đem lại ý nghĩa
kinh tế nào hoặc lợi ích cạnh tranh không đáng với cái giá bỏ ra. Thực tế không
có nhiều ngành độc quyền tự nhiên, chủ yếu trong các ngành như điện, nước
sạch, khí đốt, viễn thông…Sự tồn tại của độc quyền tự nhiên là khách quan, do
đó biện pháp duy nhất Nhà nước có thể làm là điều tiết những độc quyền đó.
Độc quyền còn xuất hiện như hệ quả của những thỏa thuận ngầm của các
doanh nghiệp về giá, sản lượng, thị trường, sự liên kết theo chiều ngang (cartel),
hay liên kết theo chiều dọc nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Sự tồn tại những rào cản
gia nhập thị trường mang tính pháp lý, hành chính cũng là một trong những
nguyên nhân tạo ra độc quyền. Một ví dụ phổ biến trong thực tế là lĩnh vực bảo
hộ độc quyền sở hữu công nghiệp. Việc làm này một mặt khuyến khích phát

triển khoa học kỹ thuật mặt khác lại gây thiệt hại cho xã hội. Vấn đề đặt ra là
pháp luật cần tìm ra thời hạn hợp lý cho các quy định tạo sự độc quyền như vậy
và cần nhanh chóng thích ứng khi thị trường đòi hỏi cạnh tranh.
• Cạnh tranh lành mạnh: được hiểu là hình thức cạnh tranh bằng những
tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp, nhằm thu hút khách hàng mà pháp
luật không cấm và phù hợp với tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh
truyền thống
1
.
Trên thực tế, các hoạt động cạnh tranh rất đa dạng và phong phú, hơn nữa
những nhà kinh doanh với sự sáng tạo, linh hoạt và năng động không ngừng bổ
sung những thủ pháp, hình thức cạnh tranh mới. Do vậy, việc giới hạn khái niệm
1
TS. Nguyễn Như Phát, ThS. Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, sđd. tr. 30
17
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
cạnh tranh lành mạnh bằng việc liệt kê các hành vi cụ thể là không hợp lý, và
cũng không cần thiết. Chúng ta chỉ có thể đưa ra các tiêu chí cơ bản để xác định
hành vi cạnh tranh lành mạnh, như sau:
- Tuân thủ qui định của pháp luật
- Tôn trọng truyền thống tập quán kinh doanh
- Tôn trọng đạo đức kinh doanh
- Kết hợp hài hoà lợi ích của người kinh doanh với các chủ thể kinh doanh
khác và lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của nhà nước và xã hội.
• Cạnh tranh không lành mạnh: là biểu hiện trên thực tế của các nhà doanh
nghiệp trong quá trình cạnh tranh đã có thái độ không trung thực, gian dối không
phù hợp với các hành vi xử sự lành mạnh, cao thượng trong sản xuất và kinh

doanh. Cách tiếp cận này cũng tương tự cách định nghĩa của Công ước Paris
1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp: “… bất kỳ hành vi cạnh tranh nào
trái với các hoạt động thực tiễn, không trung thực trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh…”. Thực tế, việc
xác định khái niệm lành mạnh, trung thực để quy định những hành vi nào đi
ngược lại thì bị coi là không lành mạnh chưa giúp chúng ta tiếp cận gần hơn vấn
đề, bởi theo phân tích trên chúng ta chưa có căn cứ cụ thể để có thể ngăn chặn
các hành vi không lành mạnh.
Trong dự thảo lần 7 Luật cạnh tranh của Việt Nam, điều 26 qui định:
cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp gây thiệt hại đến
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác, làm giảm khả năng
cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng
của người tiêu dùng.
Như vậy, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đi ngược lại các
nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, cụ thể hơn chúng ta có
thể đưa ra căn cứ xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh là làm hại lợi ích
chính đáng của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng hoặc lợi ích của xã hội.
18
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Các quốc gia có sự ổn định tương đối về pháp luật cạnh tranh thường chia
pháp luật cạnh tranh thành hai lĩnh vực, là: pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (hay còn gọi là chống độc
quyền hay kiểm soát độc quyền). Sự tách biệt này là do tính chất khác biệt của
các loại hành vi trên, cũng như mức độ tác động của chúng tới cạnh tranh, tới thị
trường.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh thường qui định rõ, và điều
chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ, theo dự thảo Luật cạnh
tranh lần 7 của Việt Nam, gồm:

- Giả mạo chỉ dẫn thương mại: làm sai lệch thông tin, nhận thức, gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, về hàng hóa, dịch vụ…
- Xâm phạm bí mật kinh doanh: chiếm đoạt một cách bất chính, vi phạm
hợp đồng bảo mật;
- Hành vi mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp khác: trực tiếp hay gián tiếp đưa ra thông tin
không trung thực có thể hoặc gây ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp khác về uy
tín, tình trạng tài chính, hoạt động kinh doanh…
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
- Lôi kéo nhân viên của đối thủ cạnh tranh bằng cách ép buộc, mua chuộc
khiến nhân viên này làm tổn hại lợi ích chính đáng của đối thủ;
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh: so sánh với hàng hóa cùng
loại của doanh nghiệp khác, đưa thông tin không rõ ràng, gian dối …
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Phân biệt đối xử trong hiệp hội;
- Bán hàng đa cấp bất chính;
- Các hành vi khác gây thiệt hại đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các
doanh nghiệp khác, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc
gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (điều 26, Dự thảo lần 7
Luật cạnh tranh Việt Nam).
19
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh thường điều tiết các hành vi hạn chế
cạnh tranh, như:
- Các hợp đồng, thỏa thuận hình thành nên cartel, syndicate, trust…với nội
dung chủ yếu liên quan tới giá, sản lượng, thị trường, thông đồng trong đấu giá,
đấu thầu, ngăn chặn việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp mới…
- Việc sáp nhập các doanh nghiệp để tạo độc quyền (hay tập trung kinh tế),

vấn đề này ngày càng trở thành trọng tâm của pháp luật cạnh tranh của các nước,
nhất là trong bối cảnh thế giới xuất hiện làn sóng sáp nhập từ giữa những năm
90 của thế kỷ XX, với sự ra đời của rất nhiều công ty xuyên quốc gia có quy mô
lớn hơn mọi dự đoán của chúng ta.
- Hoạt động hạn chế cạnh tranh của các hình thái độc quyền tự nhiên, mà
doanh nghiệp giành được nhờ những ưu thế vượt trội của mình so với các đối
thủ cạnh tranh về trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý, lợi thế tự nhiên… Pháp
luật thường công nhận hình thức độc quyền tự nhiên, và không thể cấm sự phát
triển lành mạnh này, vì đó là biểu hiện của tính hiệu quả, là phần thưởng xứng
đáng cho những người giỏi nhất. Song xét về lợi ích cạnh tranh thì pháp luật cần
tỉnh táo trước nguy cơ các doanh nghiệp này lạm dụng vị thế độc quyền; và sức
mạnh của Nhà nước phải trở thành một đối trọng với sức mạnh thị trường của
các doanh nghiệp.
Việc tìm hiểu những yếu tố quyết định sức mạnh thị trường là cơ sở quan
trọng để đánh giá khả năng ảnh hưởng của một doanh nghiệp tới thị trường, tới
cạnh tranh. Sức mạnh thị trường được hiểu là khả năng thay đổi giá thị trường
của một hàng hóa hoặc dịch vụ. Mức độ sức mạnh thị trường mà một hãng nắm
giữ phụ thuộc vào một số nhân tố, gồm có: số lượng hãng sản xuất, quy mô của
từng hãng, rào cản gia nhập, và tính sẵn có của hàng hóa thay thế
1
.
Mặc dù có nhiều yếu tố quyết định sức mạnh thị trường, hầu hết các nhà
quan sát chỉ sử dụng tỷ lệ tập trung và quy mô của hãng là thước đo để đánh giá
mức độ sức mạnh thị trường của các hãng trong một ngành. Tỷ lệ tập trung là tỷ
lệ phần trăm tổng sản lượng công nghiệp do các hãng lớn nhất sản xuất ra
1
Nguồn: Bradley R. Schiller, Kinh tế ng y nay, sà đd. tr. 654
20
TrÇn H¶i Quang


Anh 11 K38D KTNT
(thông thường là 4 hãng)
1
. Tỷ lệ này cho biết phần sản lượng (hay thị phần kết
hợp) do các hãng lớn nhất trong ngành tạo ra. Sử dụng tỷ lệ tập trung chúng ta
có thể sẵn sàng phân biệt được một ngành kinh tế bao gồm hàng trăm doanh
nghiệp nhỏ, tương đối yếu và một ngành khác cũng gồm hàng trăm doanh
nghiệp nhưng bị chi phối bởi một số ít hãng lớn và mạnh. Thực tế không phải
khi nào quy mô của hãng cũng quyết định sức mạnh thị trường tương ứng, ngay
cả các hãng nhỏ cũng có thể có ảnh hưởng nhất định với một phạm vị thị trường
nhất định. Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề trên khía cạnh của những thị trường
lớn chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng của quy mô hãng. Do vậy, tỷ lệ tập trung là
một thước đo sức mạnh thị trường gắn liền quy mô hãng với quy mô của thị
trường mà hãng đó hoạt động.
1.2.3 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh
Thứ nhất, cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực của mình về
mọi mặt. Trong một thị trường có tính cạnh tranh, khách hàng có nhiều quyền
lựa chọn, những hàng hóa có chất lượng, với mức giá hợp lý hơn thì khả năng
được lựa chọn cũng lớn hơn. Do vậy, các doanh nghiệp luôn chịu áp lực phải
hoàn thiện hơn sản phẩm của mình. Nhờ vậy, mỗi thành viên của doanh nghiệp
có cơ hội rèn luyện, không ngừng nâng cao khả năng của mình, trình độ quản lý,
năng suất lao động cũng được nâng lên. Doanh nghiệp nhanh nhạy hơn trong
nắm bắt, cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường.
Thứ hai, cạnh tranh sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm, nhờ đó bảo vệ tốt
quyền lợi của người tiêu dùng. Khả năng bán được nhiều hàng hóa hơn và thu
được lợi nhuận lớn hơn sẽ buộc nhà sản xuất luôn cố gắng hạ chi phí của mình,
bởi doanh nghiệp không thể nâng giá đầu ra lên quá cao so với mức giá của thị
trường. Xu thế tất yếu là giá thành sản phẩm trung bình của toàn xã hội sẽ giảm
xuống. Nếu không có cạnh tranh, người mua sẽ buộc phải chấp nhận sản phẩm
duy nhất trên thị trường, với mức giá độc quyền cao.

1
Bradley R. Schiller, Kinh tế ng y nay, sà đd. tr. 656
21
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Thứ ba, cạnh tranh giúp sử dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh
nghiệp. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần phải qui định các
doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào.
Cạnh tranh giữa các hãng buộc họ phải tiến bộ hơn các đối thủ để thu hút người
mua. Doanh nghiệp trở thành người đặt hàng các nhà khoa học, và tích cực đưa
các thành tựu khoa học vào thực tế. Những doanh nghiệp hoạt động không hiệu
quả sẽ bị phá sản, các nguồn lực của các doanh nghiệp đó sẽ được chuyển sang
cho các doanh nghiệp khác, hoạt động có hiệu quả hơn, chứ không bị mất đi. Vì
vậy, nhà kinh tế Mỹ gốc Áo Alois Schumpeter đã coi "phá sản là một sự tàn phá
sáng tạo" (creative destruction).
Như vậy, cạnh tranh đã trực tiếp giúp giải quyết những vấn đề cơ bản nhất
của một nền kinh tế là: sử dụng hiệu quả các nguồn lực vốn rất hạn chế, không
ngừng đổi mới và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng hiệu quả kinh
tế, từ đó liên tục mang lại sức phát triển kinh tế cao.
II. MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG
CẠNH TRANH ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
2.1 Khái niệm môi trường kinh doanh
2.1.1 Môi trường kinh doanh là gì
Hiện nay, vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp. TS. Mai Ngọc Cường cho rằng môi trường kinh doanh
là tổng hợp những yếu tố, điều kiện mà doanh nghiệp sử dụng để tiến hành toàn
bộ quá trình kinh doanh
1
. Đó là tổng thể những điều kiện, những yếu tố bên

trong và bên ngoài doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động
bình thường có hiệu quả. Xem xét toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp
có thể chia môi trường kinh doanh thành môi trường bên trong và môi trường
bên ngoài.
1
Nguồn: GS.TS Ngô Đình Giao (chủ biên), Phát triển môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp
công nghiệp v chà ế bíên thực phẩm hoạt động có hiệu quả, NXB Kỹ thuật 1996, tr. 32
22
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Môi trường bên trong bao gồm toàn bộ những quan hệ kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp kết hợp một cách hợp lý các yếu tố sản
xuất đầu vào để tạo ra sản phẩm, theo nguyên tắc chi phí tối thiểu có sản phẩm
tối đa.
Môi trường bên ngoài là tổng thể các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội,
luật pháp, khoa học kỹ thuật, tài nguyên, hình thành một cách khách quan tác
động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cách tiếp cận này có ưu điểm là giúp xác định rõ các yếu tố và điều kiện
của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, hạn chế là không thấy được tính phức
tạp và thường xuyên biến động của môi trường kinh doanh. Bởi các yếu tố này
luôn có sự thay đổi, biến động và tác động qua lại lẫn nhau từ đó phát sinh nhu
cầu điều chỉnh, hoàn thiện.
Theo ý kiến của GS.TS. Vũ Huy Từ, môi trường kinh doanh là sự vận
động tổng hợp, tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1
. Các yếu tố đó được hình thành theo
bốn nhóm dưới đây:
 Các loại thị trường: thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường bất động sản,

thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ thông tin, thị trường tiền tệ
theo nghĩa rộng (bao gồm thị trường vốn, thị trường chứng khoán, các yếu tố: tỷ
giá, lãi suất…).
 Môi trường kinh tế chính trị xã hội thể hiện ở trình độ phát triển kinh tế,
xã hội; các yếu tố thuộc chủ trương đường lối, chính sách của Nhà nước, những
đặc điểm về truyền thống, văn hóa, tâm lý xã hội.
 Môi trường sinh thái, yếu tố này đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp
phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến…
 Môi trường hành chính kinh tế bao gồm các yếu tố về mô hình tổ chức,
hoạt động của bộ máy và cơ chế quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước.
Các yếu tố nói trên luôn tác động qua lại lẫn nhau, hoà đồng thành môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp, chúng phát sinh vận động theo những quy
1
GS.TS Ngô Đình Giao (chủ biên), Phát triển môi trường kinh doanh … , sđd. tr. 15
23
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
luật khách quan.
Cách tiếp cận này chỉ chú ý tới các yếu tố bên ngoài, làm giảm vai trò của
doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh, chưa nhận thức đầy đủ “môi trường
chủ quan” do chính doanh nghiệp tạo nên thông qua sự vận động tích cực của
mình. Mà trong thực tế doanh nghiệp có vai trò rất lớn trong việc tạo lập môi
trường kinh doanh cho mình. Ở các nước như Hoa Kỳ, Anh, Pháp… cộng đồng
doanh nghiệp có tiếng nói rất quan trọng tới các chính sách kinh tế của Nhà
nước, họ đã trực tiếp tác động tới môi trường kinh doanh và là một bộ phận của
môi trường đó.
Như vậy, chúng tôi nhận thấy khái niệm môi trường kinh doanh như quan
điểm của TS. Ngô Kim Thanh là phù hợp. Theo đó, môi trường kinh doanh là
tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan, bên ngoài và bên

trong doanh nghiệp có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực
tiếp, gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1
. Theo cách hiểu
này, môi trường kinh doanh có những đặc điểm như sau: tính tất yếu khách
quan, tính tổng hợp (tổng hợp nhiều yếu tố), tính đa dạng (có nhiều môi trường
thành phần), tính động, tính phức tạp, và tính hệ thống.
2.1.2 Các yếu tố của môi trường kinh doanh
Xét theo nội dung của yếu tố cấu thành, môi trường kinh doanh gồm có:
Môi trường kinh tế: những nhân tố về kinh tế thuộc môi trường vĩ mô, vi
mô; các giai đoạn phát triển kinh tế; các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát, thất
nghiệp…
Môi trường pháp lý: hệ thống pháp luật liên quan hoạt động sản xuất kinh
doanh, các văn bản dưới luật, qui trình qui phạm… ảnh hưởng tới sự ra đời, hoạt
động và phá sản của doanh nghiệp.
Môi trường văn hóa xã hội: tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, trình độ
giáo dục dân trí, lối sống, văn hóa, phong tục tập quán…
1
Ngô Kim Thanh, Biện pháp chủ yếu nhằm ho n thià ện môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp công
nghiệp Nh nà ước sản xuất h ng tiêu dùng à ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, tr. 7
24
TrÇn H¶i Quang

Anh 11 K38D KTNT
Môi trường chính trị: hệ thống chính trị, sự ổn định thể chế, xu hướng
chính trị, tương quan các tầng lớp trong xã hội, tính nhất quán của chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Môi trường công nghệ: tình hình nghiên cứu triển khai hoạt động khoa
học và công nghệ, mức đầu tư cho khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất kỹ
thuật, trình độ năng lực công nghệ…

Môi trường cạnh tranh: hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhà
cung cấp, khách hàng, các sản phẩm thay thế, các hãng tiềm năng
Môi trường sinh thái: những ràng buộc xã hội về môi trường, xử lý chất
thải, ô nhiễm…
Xét theo cấp độ tác động, môi trường kinh doanh bao gồm:
Môi trường vi mô: nội bộ doanh nghiệp, các nguồn lực mà doanh nghiệp
sử dụng, hệ thống quản trị...
Môi trường vĩ mô: môi trường kinh doanh quốc gia, nền kinh tế, ngành
kinh doanh ...
Môi trường khu vực
Môi trường quốc tế
Xét theo quá trình kinh doanh, môi trường kinh doanh bao gồm:
Môi trường bên trong
Môi trường bên ngoài
2.2 Khái niệm môi trường cạnh tranh
2.2.1 Môi trường cạnh tranh là gì
Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất trong cách hiểu về môi trường cạnh
tranh. Hiểu theo nghĩa hẹp, môi trường cạnh tranh là nơi các doanh nghiệp trực
tiếp có mối quan hệ liên kết kinh tế với nhau và cạnh tranh lẫn nhau
1
. Khái niệm
trên chỉ đề cập đến các doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nó,
tức là các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành hàng, chia sẻ các yếu tố đầu vào
và thị trường đầu ra. Cách tiếp cận này chưa bao quát được các yếu tố có ảnh
1
Ngô Kim Thanh, Biện pháp chủ yếu nhằm ho n thià ện môi trường kinh doanh … sđd. tr. 38
25

×