Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luận văn thạc sỹ: Phân tích BCTC khách hàng doanh nghiệp trong tín dụng ngân hàng tại ngân hàng TMCP dầu khí toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.31 KB, 88 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ nghiên cứu nào.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Lê Na
MỤC LỤC
- Tái cơ cấu tổ chức: Cải cách cơ cấu tổ chức và điều hành nhằm đưa
GP.Bank thành một ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế lấy
phục vụ khách hàng làm mục tiêu hoạt động 70
- Nâng cao cải tiến công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ: nâng cao năng lực
điều hành và phát triển các kỹ năng quản trị, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm toán kiểm tra nội bộ 70
GP. Bank luôn phấn đấu trở thành một ngân hàng định hướng đến khách
hàng. Một tổ chức tạo ra lợi ích cao nhất cho khách hàng, cổ đông và người
lao động. Một tổ chức luôn luôn học hỏi. Một tổ chức xây dựng văn hoá
doanh nghiệp trên cơ sở các giá trị: sự tin tưởng, tính cam kết, chuyên
nghiệp, minh bạch và đổi mới 71
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra,cán bộ và công nhân viên ngân hàng GP.
Bank luôn luôn quán triệt các nguyên tắc: 71
Thứ nhất: Áp dụng các thông lệ quốc tế trong công tác điều hành ngân
hàng 71
Thứ hai: Phát triển và đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tài chính
đa dạng đá ứng nhu cầu của khách hàng, tạo lập danh tiếng về chất lượng
phục vụ khách hàng, độ tin cậy và mức giá cả cạnh tranh 71
Thứ ba: Đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, lấy công nghệ thông tin
làm cơ sở để phát triển mô hình ngân hàng hiện đại 71
Thứ tư: Hoạt động trên cơ sở thận trọng về tài chính và luôn nhận thức
được tầm quan trọng của quản lý rủi ro, bảo quản tài sản và duy trì khả
năng thanh toán là tối cần thiết cho sự thành công của ngân hàng, phát huy
tối đa nguồn lực tài chính trên nguyên tắc đảm bảo an toàn hoạt động và


nâng cao khả năng sinh lời 71
Thứ năm: Đầu tư về con người, phát triển năng lực của cán bộ nhân viên,
khuyến khích sự cống hiến xuất sắc, thưởng công xứng đáng với thành tích
và tạo điều kiện cho họ có điều kiện phát triển 71
Phát huy nh ng th nh qu ã t c, cùng v i ti m n ng c aữ à ả đ đạ đượ ớ ề ă ủ
mình, ngân h ng GP.Bank ph n u t c th nh tích caoà ấ đấ để đạ đượ à
h n trong n m t i. T i HC th ng niên n m 2011, các c ôngơ ă ớ ạ Đ Đ ườ ă ổ đ
c a Ngân h ng TM CP D u khí to n c u (GP.Bank) ã thông quaủ à ầ à ầ đ
k ho ch kinh doanh n m 2011 v i t ng t i s n d ki n 35.000 tế ạ ă ớ ổ à ả ự ế ỷ
ng, huy ng v n th tr ng 1 t 22.000 t ng, d n cho vayđồ độ ố ị ườ đạ ỷ đồ ư ợ
t 11.000 t ng, l i nhu n tr c thu 450 t ng, t l n x uđạ ỷ đồ ợ ậ ướ ế ỷ đồ ỷ ệ ợ ấ
d i 1,5% v m ng l i chi nhánh c m r ng lên h n 100 i mướ à ạ ướ đượ ở ộ ơ để
giao d ch. T i i h i, k t qu ho t ng kinh doanh n m 2010ị ạ Đạ ộ ế ả ạ độ ă
c aGP.Bankủ c ng c công b v i t ng t i s n t 27.731 t ng,ũ đượ ố ớ ổ à ả đạ ỷđồ
huy ng v n th tr ng 1 t 16.417 t ng, d n cho vay 8.905,độ ố ị ườ đạ ỷđồ ư ợ
t ng l i nhu n tr c thu 274,7 t ng v l m t trong nh ngỷ đồ ợ ậ ướ ế ỷ đồ à à ộ ữ
ngân h ng có t l n x u th p nh t trong h th ng v i 1,39% à ỷ ệ ợ ấ ấ ấ ệ ố ớ 71
Bảng biểu 4.1: Một số chỉ tiêu GP. Bank luôn phấn đấu đạt được trong giai
đoạn 2011-2012: 71
33%-35% 72
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
PHẦN BẢNG BIỂU
PHẦN BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tình hình hoạt động vốn từ thị trường 1 của GP. Bank qua các nămError:
Reference source not found
Biều đồ 3.2: Cơ cấu huy động phân theo loại tiền của GP. Bank.Error: Reference
source not found
BCTC : Báo cáo tài chính
TCDN : Tài chính doanh nghiệp

NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD : Tổ chức tín dụng
SXKD : Sản xuất kinh doanh
DN : Doanh nghiệp
BCĐKT : Bảng cân đối kế toán
KH : Khách hàng
TSDH : Tài sản dài hạn
TSNH : Tài sản ngắn hạn
CSH : Chủ sở hữu
TSCĐ : Tài sản cố định
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh
DTT : Doanh thu thuần
Biểu đồ 3.3: Cơ cấu huy động phân theo kỳ hạn của GP. Bank Error: Reference
source not found
Biểu đồ 3.4: Tình hình hoạt động tín dụng của GP. Bank qua các năm Error:
Reference source not found
Biểu đồ 3.5: Cơ cấu cho vay phân theo kỳ hạn của GP. Bank Error: Reference
source not found
Biểu đồ 3.6: Cơ cấu cho vay phân theo đối tượng của GP. Bank.Error: Reference
source not found
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tính cấp thiết của việc phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh
nghiệp trong tín dụng ngân hàng.
Hiện nay, cho vay là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi nhuận cao nhất trong hệ
thống Ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng luôn thường trực và diễn ra hết sức
phức tạp khó phòng tránh nên việc cấp tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại phải

được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về tài
chính, phi tài chính của khách hàng. Kết quả của những phân tích này sẽ giúp ngân
hàng dự đoán được khả năng sinh lời, mức độ rủi ro của phương án sử dụng vốn
vay, ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định cấp tín dụng của Ngân hàng. Do đó, việc
phân tích tài chính khách hàng có vai trò rất quan trọng.
Mặt khác, trên thực tế việc xác định các nhân tố phi tài chính: Năng lực
pháp lý của khách hàng, uy tín của người vay vốn, đánh giá năng lực điều hành
sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo Doanh nghiệp, triển vọng của Doanh
nghiệp… là rất phức tạp, mang tính chất định tính cao. Vì vậy, những thông tin
tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa
chọn khách hàng. Phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp trong
tín dụng ngân hàng là cơ sở quan trọng giúp cho ngân hàng xác định được tình
hình tài chính của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các các quyết định đúng đắn
về phê duyệt cho vay và xác định các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín
dụng, xác định thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định các kỳ hạn trả nợ…đối
với từng khách hàng.
Hơn nữa, ngân hàng sử dụng các công cụ và kĩ thuật để phân tích báo cáo tài
chính trong quá khứ và hiện tại với mục đích cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về
tình hình tài chính tương lai của công ty. Bên cạnh đó, kết quả phân tích sẽ giúp
ngân hàng đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương
lai, đánh giá khả năng thanh toán nợ của công ty cho khoản vay tại ngân hàng. Như
vậy phân tích tài chính khách hàng trong tín dụng không chỉ là nhu cầu mà còn là
đòi hỏi quan trọng bắt buộc đối với mỗi Ngân hàng.
1
1.2. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Các vấn đề về báo cáo tài chính, kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính cũng
như các vấn đề liên quan tới hoàn thiện hệ thống phân tích báo cáo tài chính trong
doanh nghiệp nói chung đã được các tác giả, các nhà kinh tế nghiên cứu từ hơn 40
năm trước.
Đã có rất nhiều đề tài của các tác giả trong nước đưa ra giải pháp nhằm hoàn

thiện hệ thống phân tích báo cáo tài chính trong doanh nghiệp: Trần Thị Cẩm Thanh
(năm 2001) với nghiên cứu “Hoàn thiện lập và phân tích báo cáo tài chính với việc
tăng cường quản lý tại các Công ty xổ số kiến thiết khu vực Nam Trung Bộ”;
Nguyễn Đình Hà (năm 2002) với đề tài “Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình
tài chính của Tổng công ty Hàng không Việt Nam”; Nguyễn Văn Hiếu (năm 2003)
với đề tài “Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với việc phân tích tài chính trong
các doanh nghiệp xây dựng tại Việt Nam”; Năm 2008 có các đề tài luận văn thạc sỹ
nghiên cứu về phân tích báo cáo tài chính như: Tác giả Lã Thị Hương Giang nghiên
cứu đề tài: “Hoàn thiện nội dung phân tích báo cáo tài chính với việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn huy động tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam – Chi
nhánh Quang Trung, tác giả lựa chọn đối tượng nghiên cứu là hướng tới những nội
dung cơ bản về phân tích báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường và phạm vi nghiên cứu là nghiên cứu phân tích báo cáo tài chính
tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam – Chi nhánh Quang Trung”; Tác giả
Trịnh Thị Hà nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện lập và phân tích báo cáo tài chính
hợp nhất tại Tập đoàn Hòa Phát với đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận
về hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định hiện hành của Việt nam và
chuẩn mực kế toán quốc tế, phạm vi nghiên cứu là thực trạng công tác lập và phân
tích báo cáo tài chính tại Tập đoàn Hòa Phát”; Tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân
nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Vàng, bạc,
đá quý thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam có đối
tượng và phạm vi nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực trạng về phân tích báo cáo tài
chính tại Công ty vàng, bạc, đá quý thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam”
Về vấn đề tín dụng cho vay trong ngân hàng, đã có nhiều tác giả đề cập đến.
Năm 2009, tác giả Vũ Thị Minh Hằng với đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại ngân hàng TMCP ngoại thương
2
Việt Nam”; Tác giả Huỳnh Thị Thiên Kim với đề tài “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam chi

nhánh Chợ Lớn” (năm 2008).
Thực tế cho thấy, hệ thống phân tích báo cáo tài chính tại các ngân hàng
đang vô cùng lỏng lẻo và có nhiều bất cập. Rất nhiều nhà kinh tế đã và đang nghiên
cứu hoàn thiện hệ thống phân tích BCTC doanh nghiệp trong tín dụng ngân hàng,
tuy nhiên với phạm vi nghiên cứu là “Phân tích BCTC khách hàng doanh nghiệp
trong tín dụng ngân hàng tại ngân hàng TMCP dầu khí toàn cầu” luận văn phân
tích cụ thể về công tác phân tích báo cáo tài chính trong tín dụng ngân hàng nhằm
phân tích những nguyên nhân tồn tại và những rủi ro có thể gặp phải từ đó đưa ra
giải pháp hoàn thiện hệ thống phân tích BCTC doanh nghiệp trong tín dụng ngân
hàng GP. Bank nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích báo cáo tài chính trong ngân hàng thương mại là một nghiệp vụ
nằm trong những quy định chung của hệ thống ngân hàng nên khi phân tích cần
phải tuân thủ theo hệ thống pháp lý và các quy định của pháp luật. Phân tích báo
cáo tài chính đúng đắn sẽ tạo ra hành lang pháp lý trong nghiệp vụ tín dụng ngân
hàng tránh được các rủi ro xảy ra trong quá trình cho vay.
Nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng tài chính nói riêng
đang trong thời kỳ hội nhập và ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới - 1 nền
kinh tế đa ngành đa lĩnh vực - nên việc phân tích báo cáo tài chính trên cơ sở thực
tiễn cho công tác tín dụng là một vấn đề vô cùng quan trọng.
Phân tích báo cáo tài chính trong tín dụng ngân hàng nhằm làm rõ một số
vấn đề lý luận cơ bản về phân tích báo cáo tài chính trong các khách hàng doanh
nghiệp. Từ đó xem xét thực trang phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh
nghiệp tại GP. Bank. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp
phần phòng tránh và giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng khách hàng
doanh nghiệp tại GP.Bank.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn đi vào thu thập dữ liệu, phân tích
trả lời các câu hỏi:
- Vì sao phải phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong tín dụng ngân

3
hàng? Trong công tác quyết định cho vay thì việc phân tích báo cáo tài chính
quan trọng như thế nào? Và đặc biệt phân tích báo cáo tài chính giảm thiểu
rủi ro tín dụng ra sao?
- Nhân tố nào ảnh hưởng đến kết quả phân tích báo cáo tài chính khách hàng
doanh nghiệp? Phương hướng và giải pháp hoàn hiện hệ thống phân tích báo
cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp
1.5. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay tại GP. Bank. Đối tượng
khách hàng là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất, thương mại và xuất khẩu trong các ngành nghề.
1.6. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy để phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò của phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh
nghiệp trong tín dụng ngân hàng. Luận văn yêu cầu quán triệt các quan điểm của
Đảng, chính sách của nhà nước về doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu. Tác
giả nghiên cứu luận văn bằng phương pháp thu thập thông tin, đánh giá phân tích
từ đó rút ra kết luận.
1.7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Phân tích báo cáo tài chính là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo
về tài chính của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng các trường hợp xấu có
thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích báo cáo tài chính
gồm đánh giá khái quát về quản trị và hoạt động kinh doanh, phân tích hệ số tài
chính phân tích lưu chuyển tiền tệ, phân tích dự báo tài chính…
Như vậy phân tích báo cáo tài chính để đánh giá thực trạng kinh doanh và
TCDN nhằm quyết định đầu tư đúng đắn, quyết định phương hướng, quy mô tài
trợ vốn và khả năng thu hồi vốn. Vai trò ra quyết định đúng đắn của ngân hàng sẽ
là: có nên quyết định đầu tư hay không và nếu đầu tư thì sẽ đầu tư như thế nào
cho hợp lý và hiệu quả

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng với đối tượng kinh doanh là tiền tệ vốn
dĩ là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy để bảo tồn được vốn vay và đảm
bảo thu nhập cho mình các NHTM không thể không quan tâm đến lĩnh vực kinh
4
doanh của doanh nghiệp trước khi tài trợ vốn. Các NHTM chắc chắn sẽ không
quan hệ tín dụng với khách hàng là doanh nghiệp làm ăn luôn trong tình trạng
thua lỗ, phương án kinh doanh không hiệu quả. Cùng với việc phân tích các khía
cạnh khác, những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng sinh
lời cao và có triển vọng phát triển tốt trong tương lai sẽ được ngân hàng ưu tiên
lựa chọn để cấp tín dụng.
1.8. Kết cấu đề tài nghiên cứu.
Tên đề tài:
“HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH
NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG
TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU (GP.BANK)”
Bố cục
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI GP.BANK.
CHƯƠNG 4: THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
VÀ KẾT LUẬN.
5
Chương 2
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trong ngân
hàng thương mại
2.1.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh tế xuất hiện từ rất lâu trong
lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời và phát triển của hoạt động ngân hàng (NH) từ
mức độ thô sơ cho đến đa dạng, phức tạp như ngày nay luôn gắn liền với sự phát
triển không ngừng của kinh tế hàng hoá và sự phát triển ngày càng cao của con
người. Mỗi quốc gia, vùng, miền, dân tộc khác nhau có hệ thống luật pháp, phong
tục tập quán khách nhau nên cách nhìn nhận và quan niệm về ngân hàng cũng có sự
khác biệt.
Luật ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức
ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Hay như Luật ngân hàng của ấn Độ
1950, được bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác
để cho vay hay tài trợ, đầu tư. Những định nghĩa như vậy là căn cứ vào tính chất và
mục đích hoạt động.
Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động.
Ví dụ như Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: những nhà băng
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện
các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích, khai thác
nội dung của các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có
chung một tính chất là huy động vốn, cho vay và các dịch vụ kinh doanh khác
6
của ngân hàng.
Tại Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng: NHTM là tổ chức kinh tế hoạt
động, kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tìên gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.

NHTM là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính vì tổng tài
sản có của NHTM chiếm tỷ trọng lớn. NH là chiếc cầu nối giữa các chủ thể trong
nền kinh tế. Thông qua các nghiệp vụ chính: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ
cho vay, nghiệp vụ cho vay môi giới, NHTM đã thực hiện tốt vai trò của mình đối
với sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Đứng trước tình trạng bùng nổ nhu cầu
vốn, trước sự gia tăng mạnh mẽ của hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), một
vấn đề NH luôn cần chú trọng trong đó là công tác cho vay như thế nào để có hiệu
quả cao nhất, mang lại lợi ích không chỉ từ phía NH mà cả đối với người vay. Do đó
hoạt động tín dụng là vấn đề được lên hàng đầu đối với ngân hàng.
2.1.2. Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại.
2.1.2.1. Khái niệm hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung, một số doanh nghiệp thường
xuyên có một lượng vốn kinh doanh tạm thời nhàn rỗi như: tiền mua nguyên vật
liệu tiếp tục cho quá trình sản xuất nhưng chưa mua; tiền trả lương cho người lao
động nhưng chưa đến hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhưng
chưa đủ điều kiện để đầu tư Các khoản tiền trên đây luôn được các doanh nghiệp
tìm cách đầu tư kiếm lời. Tất cả hình thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu
kinh doanh, tiêu dùng của mình.
Như vậy, ta thấy xã hội luôn có một số người, doanh nghiệp thừa vốn cần
đầu tư và một số người, doanh nghiệp thiếu vốn muốn đi vay. Song những đối
tượng này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay. Hoặc có thể gặp nhau thì
chi phí rất cao và không kịp thời, nên tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người có
vốn và người cần vốn và để giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này.
Nghĩa là tín dụng ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng
tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều
kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
7

Thông qua tín dụng NH, có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ.
Hiểu cách khác, theo quan điểm của tôi, tín dụng ngân hàng được hiểu là một
giao dịch trong đó ngân hàng sẽ chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Tóm lại, khái niệm tín dụng ngân hàng cũng có thể được phát biểu ngắn
gọn hơn như sau: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa ngân hàng và
khách hàng trong đó ngân hàng chuyển giao vốn bằng tiền cho khách hàng sử
dụng với sự tin tưởng rằng khách hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ hoàn trả khi đến
thời hạn thoả thuận.”
Từ các khái niệm về tín dụng, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài
sản trên cơ sở có hoàn trả có các đặc trưng sau:
- Tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi
chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi
vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện nguyên tắc này
thì phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát, hay nói cách khác
phải xác định lãi suất thực dương.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín
dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ thực chất chỉ là một lệnh phiếu
trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu
cầu kinh doanh của các đối tượng, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp. Khả năng
cung ứng vốn của tín dụng ngân hàng góp phần đẩy mạnh nhịp độ tích tụ, tập
trung và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng doanh
nghiệp còn được sử dụng như một công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến

lược theo yêu cầu của chính phủ.
2.1.2.2. Phân loại khách hàng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
8
Thị trường hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong
phú với nhiều loại hình tín dụng khác nhau. Việc áp dụng hình thức cho vay nào là
tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng,
quản lý vốn có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế
khác nhau của đối tượng tín dụng.
Trên thực tế việc phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
- Phân loại theo thời hạn cho vay bao gồm: Món vay trung và dài hạn, món
vay ngắn hạn.
- Phân loại theo đối tượng cho vay bao gồm: Khách hàng cá nhân và khách hàng
doanh nghiệp. (Với nhóm khách hàng doanh nghiệp, có thể phân loại thành các nhóm
khách hàng Doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp xuất
khẩu, doanh nghiệp xây lắp. Tuy nhiên, hiện tại các ngân hàng TM tại Việt Nam chưa
áp dụng phân loại nhóm khách hàng doanh nghiệp, tất cả chế độ quy định về khách
hàng doanh nghiệp được áp dụng chung cho tất cả các khách hàng)
- Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay bao gồm: Bảo đảm bằng bất động
sản và bảo đảm bằng động sản (hàng hóa, thư bảo lãnh).
2.2. Phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp tại các ngân hàng
thương mại.
2.2.1. Khái niệm
2.2.1.1. Phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân
tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi
phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc
ra quyết định tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà
cho vay tiềm tang, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được
phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau – đó là cung cấp cơ sở cho việc ra
quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay

từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay chuyển sang một
quy trình mới, phần lớn sẽ phụ thuộc vào kết quả phân tích tài chính có chất lượng.
Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân
tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người
mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và
coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định tuy nhiên phạm vi chính
trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm
9
nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá
trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng
quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai
trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc
trưng chung.
Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính,
đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh. Thứ nhất, mục tiêu
ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để “hiểu được các con số”
hoặc để “nắm chắc các con số”, tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như
là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy,
người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những
quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu. Thứ hai, do
sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một
mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương
lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả
những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các
công cụ kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn
cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính
trong quá khứ và hiện tại, đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố
kinh tế trong tương lai.
Phân tích báo cáo tài chính là một trong những nội dung cơ bản của phân tích
kinh doanh. Trong quá trình phân tích không chỉ đơn thuần đánh giá tình hình tài

chính của doanh nghiệp qua các chỉ tiêu tài chính mà còn đi sâu tìm hiểu bản chất
và đánh giá thực chất biến động của các chỉ tiêu tài chính như thế nào. Từ đó đưa ra
các biện pháp ảnh hưởng tích cực đến các chỉ tiêu tài chính nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn và phù hợp với xu thế biến đổi của các quy luật khách quan trong nền
kinh tế thị trường.
Phân tích báo cáo tài chính giúp xác định những nguyên nhân ảnh hưởng tới
kết quả, hiệu quả kinh doanh của các tổ chức hoạt động. Do đó, phân tích báo cáo
tài chính được xem là một công cụ không thể thiếu đối với các nhà quản trị, giúp
nhà quản trị thấy được trình độ tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, các nguồn lực
tài chính hiện tại để đưa ra quyết định cho tương lai.
2.2.1.2. Phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp tại các ngân
10
hàng thương mại
Phân tích các báo cáo tài chính là việc thông qua hệ thống các phương pháp,
công cụ và kĩ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc nhìn khác
nhau vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết
hoạt động TCDN để nhận biết , phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định đầu tư phù
hợp. Đối với NHTM trước khi ra quyết định tín dụng cùng với việc thẩm định hồ sơ
khách hàng, thẩm định phi tài chính thì phân tích tài chính là nội dung không thể
thiếu trong quy trình tín dụng. NHTM đóng vai trò là nhà tài trợ vốn hay chủ nợ cuả
doanh nghiệp; vì vậy bên cạnh vấn đề thu nhập thì vấn đề mà ngân hàng quan tâm
nhất là vấn đề bảo toàn vốn của mình.
Phân tích báo cáo tài chính nhằm mục đích trả lời các câu hỏi: Doanh nghiệp
có hoạt động tốt, hiệu quả và có lãi hay không? DN có khả năng thực hiện kế hoạch
kinh doanh của mình hay không? DN có thể đạt được những cam kết trong tương
lai của mình hay không?
2.2.2. Vai trò phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong ngân hàng
thương mại
2.2.2.1. Phân tích báo cáo tài chính giúp NHTM đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn
Hệ thống TCDN là hệ thống các luồng dịch chuyển giá trị, các luồng vận động

của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn
huy động của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ pháp
luật. Do đó, TCDN phản ánh quan hệ kinh tế đa dạng trong quá trình tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, tình hình tài chính của
doanh nghiệp được thể hiện khá đầy đủ và rõ nét thông qua báo cáo tài chính và các
chỉ tiêu tài chính đặc trưng.
Như vậy phân tích báo cáo tài chính nhằm đánh giá thực trạng kinh doanh
của doanh nghiệp để quyết định đầu tư đúng đắn, quyết định phương hướng, quy
mô tài trợ vốn và khả năng thu hồi vốn. Vai trò ra quyết định đúng đắn của ngân
hàng sẽ là: có nên quyết định đầu tư hay không và nếu đầu tư thì sẽ đầu tư như thế
nào cho hợp lý và hiệu quả
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng với đối tượng kinh doanh là tiền tệ
vốn dĩ là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy để bảo tồn được vốn vay và
đảm bảo thu nhập cho mình các NHTM không thể không quan tâm đến lĩnh vực
11
kinh doanh của doanh nghiệp trước khi tài trợ vốn. Các NHTM chắc chắn sẽ
không quan hệ tín dụng với khách hàng là doanh nghiệp làm ăn luôn trong tình
trạng thua lỗ, phương án kinh doanh không hiệu quả. Cùng với việc phân tích các
khía cạnh khác, những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng
sinh lời cao và có triển vọng phát triển tốt trong tương lai sẽ được ngân hàng ưu
tiên lựa chọn để cấp tín dụng.
Khi đã quyết định tài trợ vốn, thì việc phân tích tài chính doanh nghiệp mà tập
trung chủ yếu vào phân tích báo cáo tài chính thực chất là quá trình xác định các
yếu tố chi tiết về khoản vay. Căn cứ vào tình hình hoạt động, phương án xin vay
vốn…ngân hàng xác định quy mô của nhu cầu vay hợp lý. Bên cạnh đó ngân hàng
cũng xác định thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ cho khoản tín dụng đã được cấp
cho doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ giúp NHTM có
quyết định tín dụng đúng đắn từ đó làm tăng khả năng sinh lời và hạn chế đề phòng
rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
2.2.2.2. Phân tích báo cáo tài chính giúp NHTM xác định rõ khả năng thanh

toán của doanh nghiệp, cơ sở cho khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn ban
đầu. Vì vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới việc thu hồi vốn và lãi của ngân hàng, khả năng hoàn trả lại thể hiện ở
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh ở mức sinh lời cao thì khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng đối với
khách hàng càng cao. Đối với khả năng thanh toán của khách hàng ngân hàng quan
tâm tới hai khía cạnh là thanh toán đủ và thanh toán đúng hạn. Có những doanh
nghiệp hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt, nhưng do lưu chuyển tiền tệ thuần tại
một thời điểm nào đó âm làm cho doanh nghiệp thanh toán không đúng hạn. Từ
những chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính, ngân hàng sẽ xác định thời hạn hoàn trả
một cách hợp lý nhất cho doanh nghiệp. Chính vì vai trò quan trọng của việc xác
định khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng nên hầu hết
các ngân hàng luôn chú trọng đến khả năng thanh toán trong quá trình phân tích báo
cáo tài chính của khách hàng.
2.2.2.3. Phân tích báo cáo tài chính làm cơ sở cho việc đánh giá xếp loại tín
dụng giúp ngân hàng có biện pháp trích lập dự phòng hợp lý
12
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro và đặc biệt là rủi ro
tín dụng, điều này chịu tác động của nhiều nguyên nhân có thể là nguyên nhân chủ
quan, cũng có thể là nguyên nhân khách quan. Vì vậy khi đã quyết định cấp tín
dụng là đúng đắn và quyết định giải ngân thì không phải hoàn toàn triệt để được rủi
ro tín dụng. Đi cùng với công tác giải ngân, dựa trên kết quả phân tích báo cáo tài
chính các doanh nghiệp, ngân hàng luôn phải theo dõi, đánh giá, xếp loại các khoản
vay để có biện pháp phòng ngừa hợp lý. Thông thường ngân hàng thường trích lập
dự phòng các quỹ dự phòng rủi ro, dự phòng cho các khoản nợ xấu và nợ có vấn đề.
Việc trích lập dự phòng cũng được quy định trong luật các tổ chức tín dụng của
ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Để thêm nguồn đảm bảo cho hoạt động của mình các ngân hàng thương mại còn

trích lập dự phòng từ lợi nhuận ròng để lại, nhằm đảm bảo cho hoạt động của ngân
hàng được đảm bảo vững chắc, vì lợi ích và sự phát triển lâu dài của ngân hàng.
2.2.2.4. Phân tích báo cáo tài chính giúp ngân hàng xác định rõ triển vọng của
ngân hàng với doanh nghiệp trong tương lai
Hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM luôn có những rủi ro xác định,
vì vậy quan hệ tín dụng trước hết phải được xây dựng trên cơ sở lòng tin giữa ngân
hàng và khách hàng. Các ngân hàng lựa chọn và cấp tín dụng cho khách hàng khi
ngân hàng tin tưởng vào sự sẵn sàng trả nợ cả gốc và lãi đúng hạn của khách hàng.
Những doanh nghiệp lần đầu tiên quan hệ với ngân hàng thì niềm tin mà doanh
nghiệp tạo cho ngân hàng ngoài các yếu tố phi tài chính, thì năng lực tài chính lành
mạnh (thể hiện ở các chỉ tiêu tài chính) là một yếu tố quan trọng.
Trong bối cảnh các tổ chức tài chính và phi tài chính đang có sự cạnh tranh
gay gắt để tồn tại phát triển. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng không
dừng lại ở việc khách hàng cần vốn tìm cách tiếp cận với ngân hàng để được cấp tín
dụng, mà ngân hàng cũng phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh,
chiến lược marketing phù hợp để có thể duy trì quan hệ lâu dài đối với khách hàng,
duy trì lòng trung thành của doanh nghiệp đối với ngân hàng; đảm bảo sự hợp tác
phát triển lâu dài của cả hai bên. Nói cách khác, đối với một khách hàng là doanh
nghiệp khi ngân hàng đã xác định là có triển vọng và tiềm năng thì chính sách áp
dụng đối với khách hàng đó cũng có sự khác biệt, ngân hàng còn là nhà tư vấn tài
chính cho doanh nghiệp để tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên lành mạnh
hơn, đây là điều có lợi cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Chính vì vây, việc xây
13
dựng hệ thống phân tích báo cáo tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển bền vững của ngân hàng. Vì thực tế việc một doanh nghiệp thường xuyên thay
đổi ngân hàng cung cấp tín dụng thì lại bắt đầu quá trình tạo dựng lòng tin với ngân
hàng đó và sự công khai tài chính cũng gây ảnh hưởng tới yêu cầu bảo mật thông
tin cho doanh nghiệp. và đối với ngân hàng thì việc xác định doanh nghiệp để quan
hệ lâu dài cũng là một thuận lợi giảm chi phí giao dịch và tạo sự phát triển bền vững
cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.

2.2.3. Cơ sở dữ liệu phân tích báo cáo tài chính trong ngân hàng thương mại
Có rất nhiều nguồn thông tin để phân tích, đánh giá tình hình tài chính DN.
Nếu thông tin càng đầy đủ, chính xác thì kết quả phân tích mới đáng tin cậy.
Nguồn thông tin bao gồm:
2.2.3.1. Thông tin từ bên trong doanh nghiệp: Chủ yếu là các báo cáo tài chính
mà doanh nghiệp gửi lên cho Ngân hàng vào cuối mỗi kỳ kinh doanh, hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp được cụ thể hoá qua các chỉ tiêu tài chính. Chi tiết
các báo cáo tài chính chính mà ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp cung cấp như sau:
* Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN))
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có
và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm 2 phần:
- Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp, bào
gồm: Tài sản ngắn hạn (loại A) và tài sản dài hạn ( loại B). Mỗi loại đó lại bao gồm
nhiều chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với yêu cầu của
công tác quản lý trong từng giai đoạn. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu ở phần này
phản ánh số tài sản hiện có của doanh nghiệp ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về
mặt pháp lý nó phản ánh vốn thuộc quyển sở hữu và quyền quản lý lâu dài của
doanh nghiệp.
- Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành nên các tài sản, bao gồm: Nợ
phải trả (loại A) và vốn chủ sở hữu (loại B). Mỗi loại A và B lại bao gồm các chỉ
tiêu khác nhau và cũng được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu của
công tác quản lý. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn phản ánh
các nguồn hình thành nên tài sản có của Doanh nghiệp; Còn xét về phương diện
pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với
14
các đối tượng đầu tư vốn (Nhà nước, ngân hàng, cổ đông), cũng như với khách
hàng thông qua công nợ phải trả.
Thông qua các chỉ tiêu trong bảng cân đối, bộ phận phân tích sẽ :
+) Tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm. Do các

chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình thái giá trị. Từ đó, cho
phép ta đánh giá khái quát tình hình tài chính qua các chỉ tiêu trên.
+) Đánh giá những biến động của tài sản và nguồn vốn giữa các kỳ kế toán
căn cứ vào hai số liệu ở hai thời điểm đầu năm và cuối kỳ. (Các chỉ tiêu trong bảng
cân đối kế toán được phản ánh tại một thời điểm nhất định, thời điểm đó thường là
vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán.
+) Có thể biết được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, hình thái vật
chất, cơ cấu của tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn.
Bảng cân đối kế toán có kết cấu 2 phần, thực chất là phản ánh tính hai mặt
của một lượng tài sản, cho nên tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn, tức là:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hoặc: Vốn chủ sở hữu = Tài sản – Nợ phải trả.
Như vậy, bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng để ngân hàng
nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh, trình độ sử
dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
* Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (Mẫu số B02-DN)
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết
tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng tại những thời
kì nhất định; cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử
dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh của khách hàng. Đồng thời báo cáo cũng giúp phân tích so sánh được
doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh
và số tiền thực xuất quỹ để thực hiện kinh doanh. Ngoài ra theo quy định của Việt
Nam, báo cáo thu nhập còn có thêm phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của
khách hàng đối với ngân sách nhà nước và tình hình thực hiện thuế giá trị gia tăng.
Như vậy, thông qua phân tích các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động sản xuất
15
kinh doanh, ngân hàng có thể nhìn nhận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
như thế nào? Việc thực hiện nghĩa vụ với cơ quan nhà nước hàng năm có ổn định

không ? Việc sử dụng vốn có mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không ?
Tuy nhiên, hạn chế của báo cáo thu nhập là kết quả thu nhập sẽ lệ thuộc rất
nhiều vào quan điểm của kế toán trong quá trình hạch toán. Đồng thời cũng do
nguyên tắc kế toán về ghi nhận doanh thu, theo đó doanh thu được ghi nhận khi
nghiệp vụ mua bán hoàn thành tức là khi sở hữu hàng hoá có thể xảy ra vào một
thời điểm khác, nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết phải phân tích báo cáo lưu
chuyển tiền tệ phục vụ việc ra quyết định cho vay tại ngân hàng.
* Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03-DN)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng tiền phát sinh trong kì báo cáo của khách hàng. Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ có mục đích báo cáo các khoản thu, chi tiền của doanh nghiệp được
phân loại theo các hoạt động.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giúp các nhà phân tích báo cáo tài chính:
+ Xác định lượng tiền do các hoạt động kinh doanh mang lại trong kì và dự
đoán các dòng tiền trong tương lai.
+ Đánh giá khả năng thanh toán nợ vay và khả năng trả lãi cổ phần bằng tiền.
+ Chỉ ra mối liên hệ giữa lãi, lỗ ròng và việc thay đổi tiền của DN.
+ Là công cụ để lập kế hoạch.
Thông qua đó, các nhà phân tích nói chung và bộ phận phân tích tại ngân
hàng nói riêng sẽ đánh khá được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp, khả
năng thanh toán nợ tại ngân hàng, khả năng sử dụng tiền của doanh nghiệp.
Ngoài ra, báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn công khai một phần các khoản thu chi
giúp ngân hàng đánh giá được một phần sự minh bạch của hoạt động kinh doanh
tại doanh nghiệp.
Theo chế độ kế toán quốc tế cũng như chế độ kế toán Việt Nam quy định một
báo cáo lưu chuyển tiền tệ chia làm 3 phần:
+ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào hoặc
16

chi ra liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
+ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào hoặc chi ra liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
* Thuyết minh báo cáo tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình
hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính đồng thời, giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày,giải
thích rõ ràng cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động của khách hàng, chế
độ kế toán áp dụng, tình hình và lí do biến động một số tài sản và nguồn vốn.
2.2.3.2. Nguồn thông tin từ bên ngoài
Ngoài các báo cáo tài chính từ doanh nghiệp gửi lên cho ngân hàng. Ngân
hàng cần thu thập thông tin từ các nguồn sau
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
- Thông tin từ các báo cáo thuế, cơ quan kiểm toán độc lập.
- Thông tin từ các đối tác kinh doanh với doanh nghiệp.
- Thông tin từ các tổ chức tín dụng mà doanh nghiệp đã có quan hệ trước đây.
2.2.4 Các phương pháp phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại
2.2.4.1. Phương pháp so sánh
Là phương pháp phổ biến được sử dụng trong phân tích để xác định xu
hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so sánh phải
xác định số gốc để đặt ra điều kiện so sánh và mục tiêu so sánh. Gốc so sánh được
chọn là gốc không gian và gốc thời gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc
kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc
số bình quân.
Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu,
số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước với năm trước, tháng này với
tháng trước.
Khi nghiên cứu nhịp điệu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh từng khoảng thời
gian trong một năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước (tháng hoặc quý).

Khi đánh giá mức độ biến động so vói các mục tiêu đã dự kiến, trị số thực tế
sẽ được so sánh với các mục tiêu nêu ra.
17
Ngoài ra so sánh giữa số liệu của DN với số liệu của ngành và của các DN
khác để đánh giá tình hình tài chính DN mình đang phân tích tốt hay xấu. Có thể sử
dụng so sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chi tiết so với tổng thể, so
sánh theo chiều ngang theo nhiều kỳ để thấy sự biến đổi cẩ về số tương đối và tuyệt
đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán khác nhau.
2.2.4.2. Phương pháp loại trừ
Để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu
phân tích, người ta sử dụng phương pháp loại trừ tức là để nghiên cứu ảnh hưởng
của một nhân tố phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Đặc điểm của phương
pháp này là luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định khác nhau.
Tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng mà sử
dụng phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch hay phương pháp
hiệu số tỷ lệ.
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác định ảnh hưởng của
từng nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc
sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó, so
sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu chưa có biến đổi của
nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. Đặc điểm và
điều kiện áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn như sau:
- Xác định chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu;
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng
nghiên cứu;
- Mối quan hệ giữa chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu với các nhân tố
ảnh hưởng thể hiện dưới dạng tích số hoặc thương số;
- Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đến chỉ
tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu theo thứ tự nhân tố số lượng được xác định
trước rồi mới đến nhân tố chất lượng; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng hoặc

nhiều nhân tố chất lượng thì xác định nhân tố chủ yếu trước rối mới đến nhân tố thứ
yếu sau;
- Thay thế giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối
tượng nghiên cứu một cách lần lượt. Cần lưu ý là có bao nhiêu nhân tố thì thay thế
bấy nhiêu lần và nhân tố nào đã thay thế thì được giữ nguyên giá trị đã thay thế (kỳ
18
phân tích) cho đến lần thay thế cuối cùng;
- Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố và so với số biến động tuyệt đối của
chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc.
Phương pháp thay thế liên hoàn có thể được khái quát như sau:
Chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu là Q và Q chịu ảnh hưởng của các
nhân tố a, b, c, d. Các nhân tố này có quan hệ với Q và được sắp xếp theo thứ tự từ
nhân tố số lượng sang nhân tố chất lượng, chẳng hạn Q = abcd. Nếu dùng chỉ số 0
để chỉ giá trị của các nhân tố ở kỳ gốc và chỉ số 1 để chỉ giá trị của các nhân tố ở kỳ
phân tích thì Q
1
= a
1
b
1
c
1
d
1
và Q
0
= a
0
b
0

c
0
d
0
. Gọi ảnh hưởng của các nhân tố a, b, c, d
đến sự biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc của chỉ tiêu Q (ký hiệu là ∆ Q) lần
lượt là ∆ a, ∆ b, ∆ c, ∆ d, ta có:
∆ Q = Q
1
- Q
0
= ∆ a + ∆ b + ∆ c + ∆ d.
Trong đó:
∆ a = a
1
b
0
c
0
d
0
- a
0
b
0
c
0
d
0
.

∆ b = a
1
b
1
c
0
d
0
- a
1
b
0
c
0
d
0
.
∆ c = a
1
b
1
c
1
d
0
- a
1
b
1
c

0
d
0
.
∆ d = a
1
b
1
c
1
d
1
- a
1
b
1
c
1
d
0
.
Phương pháp số chênh lệch là phương pháp cũng được dùng để xác định
ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên
cứu. Điều kiện, nội dung và trình tự vận dụng của phương pháp số chênh lệch cũng
giống như phương pháp thay thế liên hoàn, chỉ khác nhau ở chỗ để xác định mức độ
ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân tích
so với kỳ gốc của nhân tố đó (thực chất là thay thế liên hoàn rút gọn áp dụng trong
trường hợp chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu có quan hệ tích số với các nhân
tố ảnh hưởng). Dạng tổng quát của số chênh lệch như sau:
∆ Q = Q

1
- Q
0
= ∆ a + ∆ b + ∆ c + ∆ d.
Trong đó:
∆ a = (a
1
- a
0
)b
0
c
0
d
0
.
∆ b = (b
1
- b
0
)a
1
c
0
d
0
.
∆ c = (c
1
- c

0
)a
1
b
1
d
0
.
19
∆ d = (d
1
- d
0
)a
1
b
1
c
1
.
Phương pháp cân đối: Phương pháp cân đối là phương pháp được sử dụng
để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng
nghiên cứu nếu chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu có quan hệ với nhân tố ảnh
hưởng dưới dạng tổng hoặc hiệu. Xác định mức độ ảnh hưởng nhân tố nào đó đến
chỉ tiêu phân tích, bằng phương pháp cân đối người ta xác định chênh lệch giữa
thực tế với kỳ gốc của nhân tố ấy. Tuy nhiên cần để ý đến quan hệ thuận, nghịch
giữa nhân tố ảnh hưởng với chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp cân đối có thể khái quát như sau:
Chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu là M chịu ảnh hưởng của nhân tố
a,b,c thể hiện qua công thức: M = a + b - c

Nếu dùng chỉ số 0 để chỉ giá trị của các nhân tố ở kỳ gốc và chỉ số 1 để chỉ
giá trị của các nhân tố ở kỳ phân tích thì M
1
= a
1
+b
1
-c
1
và M
0
= a
0
+b
0
-c
0
d
0
. Gọi ảnh
hưởng của các nhân tố a, b, c đến sự biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc của
chỉ tiêu M (ký hiệu là ∆M) lần lượt là ∆ a, ∆ b, ∆ c ta có:
∆ M = M
1
- M
0
= ∆ a + ∆ b + ∆ c
Trong đó:
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a: ∆a = a
1

– a
0
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b: ∆b = b
1
– b
0
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c: ∆c = - (c
1
– c
0
)
2.2.4.3 Phương pháp phân tích chỉ số
Phân tích tỉ số là một công cụ có hiệu quả rất cao trong việc phát hiện
sớm các vấn đề nếu nó được sử dụng đầy đủ. Nhưng có thể hoàn toàn phản
tác dụng khi suy đoán theo một tỷ số nhất định. Tuy nhiên có thể khẳng định
về sự đúng đắn của một nhận định từ tỉ số thông qua tìm hiểu nguyên nhân
của sự thay đổi, xem xét các chỉ số khác, xem xét khuynh hướng, so sánh và
kết hợp các hiểu biết chung về những vấn đề đang xảy ra trong doanh nghiệp,
ngành và nền kinh tế nói chung. Phương pháp này dựa trên cơ sở các chuẩn
mực, các tỉ lệ của đaị lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến
động của các tỷ lệ, cố nhiên là sự biến động của các đại lượng tài chính dựa
trên việc nghiên cứu các báo cáo tài chính mà ta có thể hệ thống các nhóm tỷ
20

×