Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Câu hỏi thi tốt nghiệp quản lý nguồn nhân lực xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.92 KB, 40 trang )

Câu hỏi thi tốt nghiệp Quản lý nguồn nhân lực xã hội
––––––––––––
Câu 1: Phân tích các đặc điểm cơ bản về qui mô và cơ cấu theo tuổi của dân số Việt Nam. Các
đặc điểm đó đã và sẽ tạo ra những thuận lợi và khó khăn gì cho sự phát triển KT-XH ở nước ta?
Câu 2: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh, nhân tố nào tác động làm mức sinh đột
biến ở nước ta ở giai đoạn 2000 – 2005.
Câu 3: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết của trẻ sơ sinh. Tại sao nói mức chết của
trẻ sơ sinh có ảnh hưởng rất lớn đến gia tăng dân số và phát triển kinh tế xã hội.
Câu 4: Trình bày thực trạng dân số Việt Nam hiện nay. Phân tích ảnh hưởng của thực trạng đó
đến qui mô, chất lượng nguồn nhân lực xã hội và giải pháp việc làm ở nước ta hiện nay.
Câu 5: Phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa dân số với nguồn nhân lực xã hội và việc làm ở
nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp góp phần đảm bảo hợp lý mối quan hệ trên.
Câu 6: Phân tích và làm rõ nhận định: “Các yếu tố dân số kết hợp với sự nghèo đói và thiếu hụt
nguồn nhân lực ở một số khu vực cộng với sự tiêu dùng quá mức và mô hình sản xuất lãng phí ở các
khu vực khá đã gây ra suy thoái moi trường, cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng đến phát triển bền
vững”.
Câu 7: Phân tích và làm rõ tình hình dân số hiện nay. Trình bày mục tiêu của chiến lược dân số
VN 2001 – 2010.
Câu 8: Trình bày mục tiêu và biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách dân số Việt Nam hiện
hành. Tại sao nói biện pháp thông tin giáo dục, tuyên truyền là cơ bản trong thực hiện mục tiêu chíh
sách dân số Việt Nam ở nước ta (Lưu ý: 4 biện pháp)
- Thông tin giáo dục tuyên truyền.
- Hành chính pháp luật.
- Dùng đòn bẩy kinh tế - xã hội.
- Y tế - đặt vòng tránh thai.
Câu 9: Phân tích quan điểm của Đảng về chính sách dân số Việt Nam. Tại sao nói đầu tư cho
công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao.
Câu 10: Phân tích và liên hệ việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về dân số kế hoạch
hóa gia đình ở nước ta hiện nay.
Câu 11: Phân tích và liên hệ việc thực hiện phương thức quản lý nhà nước về dân số kế hoạch
hóa gia đình ở việt nam hoặc địa phương anh (chị) sinh sống hoặc công tác. Cần phải làm gì để làm tốt


hơn trong thời gian tới.
Câu 12: Phân tích đặc điểm chủ yếu của nguồn nhân lực. Những đặc điểm đó ảnh hưởng như
thế nào đến sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tiến trình hội nhập ở nước ta.
Câu 13: Phân tích và làm rõ nhận định: trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, dân số - nguồn
nhân lực có vai trò quan trọng vừa là mục tiêu vừa là động lực vừa là nhân tố quyết định cho sự phát
triển.
Câu 14: Tại sao nói nguồn nhân lực và con người Việt Nam là lợi thế và là nguồn lực quan
trọng nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Câu 15: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đặt ra yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực xã hội như thế nào? Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội đáp
ứng đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Câu 16: Phân tích vai trò của giáo dục, đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực nói chung,
nguồn nhân lực xã hội nói riêng, cần đổi mới chính sách giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam như thế nào?
Câu 17: Các hình thức phát triển nguồn nhân lực xã hội trong hệ thống các trường dạy nghề?
Liên hệ thực tiễn Việt Nam? Cần đổi mới các hình thức đó để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như thế nào?
1
Câu 18: Các hình thức phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên
nghiệp? Liên hệ thực tiễn Việt Nam? Cần đổi mới các hình thức đó để đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước như thế nào?
Câu 19: Phân tích khái niệm và ý nghĩa việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội. Liên
hệ việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội ở nước ta hiện nay.
Câu 20: Phát triển tình hình lao động và việc làm ở nước ta hiện nay. Trình bày quan điểm của
Đảng về giải quyết việc làm cho nguồn nhân lực xã hội trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
Câu 21: Phân tích quan điểm của Đảng về vấn đề lao động – việc làm, trình bày ý nghĩa của các
quan điểm đó.
Câu 22: Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho lao động ở nước ta. Hiện nay nhân tố nào
ảnh hưởng mạnh nhất, tại sao? (tích cực và chưa tích cực)
Câu 23: Phân tích các giải pháp tạo việc làm chủ yếu cho lao động nước ta hiệ nay, giải pháp

nào thu hút được nhiều lao động? vì sao?
Câu 24: Phân tích bản chất của tiền lương trong nền kinh tế thị trường, vai trò của tiền lương
trong phát triển kinh tế - xã hội. Liên hệ việc thực hiện vai trò của tiền lương trong chính sách tiền
lương ở Việt Nam hiện nay.
Câu 24: Phân tích các nguyên tắc tổ chức tiền lương, liên hệ việc thực hiện những nguyên tắc
này ở điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay (4 nguyên tắc – ý nghĩa).
Câu 25: Phân tích nội dung quản lý nhà nước về tiền lương, liên hệ việc thực hiện những nôi
dung này trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Câu 26: Phân tích khái niệm và ý nghĩa bảo hiểm xã hội trong quản lý nhà nước nói chung và
đối với người lao động nói riêng. Liên hệ việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành ở nước
ta.
Câu 27: Phân tích các nguyên tắc bảo hiểm xã hội. Liên hệ việc thực hiện những nguyên tắc này
trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Câu 28: Phân tích nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. Liên hệ việc thực hiện những
nội dung này trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay
Câu 29: Phân tích xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam. Những hạn chế của quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, phương ướng khắc phục.
Câu 30: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
ở nông thôn nước ta. Làm rõ các ảnh hưởng của nhân tố chính sách.
2
PHẦN DÂN SỐ
Câu 1: Phân tích các đặc điểm cơ bản về qui mô và cơ cấu theo tuổi của dân số Việt Nam.
Các đặc điểm đó đã và sẽ tạo ra những thuận lợi và khó khăn gì cho sự phát triển KT-XH ở nước
ta?
* Quy mô dân số:
- Ngày càng lớn và mặc dù tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm đã giảm nhưng nhịp độ tăng
dân số ở Việt Nam là rất lớn và ngày càng nhanh.
- Quy mô dân số lớn tính đến năm 1999 là 76,3 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, đứng thứ
7 Châu Á và thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2005 là 80,5 triệu người.
- Mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm nhưng vẫn còn cao, từ 1,86% (1991) xuống 1,65% năm

(1995), 1,36% (2000) và 1,33% (2005). Quy mô dân số năm 2005 là 8.3121,7 nghìn người, tăng
1.5879,3 nghìn người so với năm 1991, bình quân 1 năm tăng 1.058,6 nghìn người.
Trong thời gian 80 năm, dân số Việt Nam tăng 4,5 lần (1995), 7,0 lần (1999) với số lượng là 76
triệu người (năm 1999) và 80,5 triệu người (năm 2005). Giai đoạn 1921 – 1955 (35 năm) tăng 9,5 triệu
người. Giai đoạn 1955 – 1999 (45 năm) tăng 67 triệu người. Trong những năm gần đây, do đẩy mạnh
chính sách dân số, tốc độ tăng dân số tuy giảm nhưng vẫn còn cao, dự báo đến năm 2004 là 95,13 triệu
người ở phương án thấp và 104,28 triệu người ở phương án cao nhất.
* Cơ cấu dân số:
- Đang có xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi và tăng tỷ lệ người già trong tổng số dân
(hiện nay là dưới 15 tuổi giảm 33,1% và trên 15 – 16 tuổi là 59,3%) trên 60 là tăng 7,6%.
- Trong cơ cấu giới đang có sự mất cân đối giữa nam và nữ.
- Trong cơ cấu dân số tỷ lệ biết đọc tăng nhưng không đáng kể, có sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ
biết đọc của nam và nữ ở đô thị và nông thôn.
- Dân số nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là đông nhất (83%) và 53 dân tộc còn lại
chiếm 17% -> chênh lệch quá lớn.
* Thuận lợi & khó khăn:
+ Thuận lợi:
- Với qui mô dân số đông nước ta có nguồn lao động dồi dào, đáp ứng cho việc phát triển KT-
XH.
- Với qui mô dân số trên, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công tương đối rẻ so với các nước
khác trong khu vực, do đó thu hút được đầu tư nước ngoài vào VN, đặc biệt là ở những ngành công
nghiệp cần nhiều công nhân.
- Cơ cấu dân số trẻ, có người lao động trẻ, khoẻ dễ tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến
trên thế giới, hăng say làm việc.
- Tạo lợi thế cho nước ta về lao động, xuất khẩu lao động ra nước ngoài, thu hút đầu tư, giảm
giá thành sản phẩm tăng sức cạng tranh của sản phẩm. Sản phẩm của VN thường có giá thành rẻ hơn
so với các sản phẩm cùng loại, cùng chất lượng với sản phẩm của các nước trong khu vực.
+ Khó khăn:
- Với qui mô dân số quá đông như vậy đã gây sức ép về lao động và việc làm, với sự tăng nhanh
của lực lượng lao động, mỗi năm tăng thêm 1,2 triệu lao động mà trong đó tăng trưởng kinh tế chưa

đáp ứng tương xứng với tăng dân số, tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp còn cao (khoảng 68%)
đặc biệt là thất nghiệp ở lứa tuổi trẻ.
- Mặc dù lực lượng lao động của ta trẻ, khoẻ tuy nhiên lực lượng lao động này lại chưa được
đào tạo, tay nghề chưa cao do đó không đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.
- Cơ cấu đào tạo bất cập, không đáp ứng được nhu cầu thực tế dẫn đến một số đào tạo rồi nhưng
khó tìm được thị trường cho lĩnh vực được đào tạo đó, một số lĩnh vực cần nhiều lao động nhưng lại ít
lao động đáp ứng được dẫn đến việc đề ra các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gặp nhiều khó
khăn.
3
Câu 2: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh, nhân tố nào tác động làm mức sinh
đột biến ở nước ta ở giai đoạn 2000 – 2005.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh:
Mức sinh chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau và ảnh hưởng riêng biệt của từng yếu tố
cũng thể hiện ở các mức độ khác nhau giữa các quốc gia và giữa các thời kỳ của một quốc gia. Các yếu
tố ảnh hưởng đến mức sinh bao gồm:
Các yếu tố tự nhiên sinh vật: Mọi sinh vật, trong đó có con người, theo quy luật tự nhiên đều
trải qua các giai đoạn sinh ra, trưởng thành, phát triển và diệt vong. Khả năng sinh sản chỉ có ở 1 nhóm
tuổi nhất định. Thông thường lứa tuổi sinh đẻ của phụ nữ được xác đinh từ 15 đến 49 tuổi. Nơi nào số
người trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ con, thì mức sinh đẻ càng cao và ngược lại. các nước đang
phát triển có cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ lớn, đó là một trong những nguyên
nhân làm cho mức sinh cao.
Tập quán và tâm lý xã hội: Mỗi nước, mỗi thời kỳ, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có các tập
quán và tâm lý xã hội khác nhau. Những tập quán và tâm lý này xuất hiện và tồn tại trên cơ sở thực tế
khách quan nhất định. Khi những cơ sở này thay đổi thì tập quán và tâm lý xã hội sớm muộn cũng thay
đổi theo. Tâm lý muốn có nhiều con, thích có con trai, tập quán kết hôn sớm đó là tập quán và tâm lý
chung của xã hội cũ đặc biệt ở vùng nông thôn truyền thốn đã làm tăng mức sinh. Kết hôn muộn, gia
đình ít con, bình đẳng giữa nam và nữ cả trong gia đình và ngoài xã hội là tiêu biểu của tập quán và
tâm lý xã hội mới. Những yếu tố này đã tạo điều kiện cho quá trình sinh giảm mạnh.
Những yếu tố kinh tế: Nhóm yếu tố này rất đa dạng và tác động theo nhiều hướng khác nhau.
Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của nó đối với mức sinh. Trên bình diện chung đã chứng

minh rằng, đời sống thấp thì mức sinh cao và ngược lại. tuy nhiên, ở cấp độ hộ gia đình, đời sống vật
chất đâyd đủ có tác động trực tiếp làm mức sinh cao hơn và tác động gián tiếp làm mức sinh giảm đi.
khi phân tích ảnh ưởng của các yếu tố kinh tế đến mức sinh phải thấy mối quan hệ phức tạp, tác động
lẫn nhau giữa yếu tố này với yếu tố khác, cả trực tiếp và gián tiếp, cả thuận và nghịch.
Chính sách dân số: là những chủ trương và biện pháp của Nhà nước nhằm điều tiết quá trình
biến đổi dân số. Đây là công cụ quan trọng và thực tế đã phát huy tác dụng rất to lớn trong việc điều
tiết quá trình biến động dân số theo hướng cần thiết. Chính sách dân số có thể là khuyến khích hoặc
hạn chế mức sinh, tuỳ theo điều kiện của từng nước trong từng thời kỳ. Một số quốc gia Châu âu có
chính sách hoặc chủ trương khuyến khích sinh đẻ, trong khi đó đa số các nước đang phát triển có chính
sách điều tiết và giảm sinh như Trung quốc, Thái Lan, Việt Nam
Mức sinh chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nhưng nó vẫn diễn ra theo một xu hướng
nhất định, có tính quy luật. Trong cùng một thời kỳ, đối với các nước, các vùng khác nhau, sự biến
động mức sinh cũng khác nhau. Các chỉ số về tỷ suất sinh thô và tổng tỷ suất sinh của các nước đang
phát triển thường cao hơn ở các nước đều có xu hướng giảm mạnh nhưng khoảng cách giữa 2 nhóm
nước trên vẫn chưa thu hẹp nhiều.
* Các nhân tố tác động làm mức sinh đột biến ở nước ta giai đoạn 2001 – 2005 .
1. Mức sinh của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á, song có sự dao
động trong 2 năm qua.
Mặc dù mức sinh năm 2003 có tăng so với 2002, song vẫn nằm trong xu thế giảm nếu xét cả thời kỳ 5-
năm 1998-2003. Đây là trường hợp khá phổ biến khi mức sinh (của nước ta) vừa đạt mức thay thế vào
năm 2002. Việc phấn đấu đạt mức sinh thay thế và giữ ổn định nó đỏi hỏi phải đầu tư đồng bộ và liên
tục trong một thời gian nhất định.
Về độ lớn, TFR=2,23 con/phụ nữ vào năm 2003 đã xấp xỉ mức sinh thay thế, thuộc loại thấp so với các
nước trong khu vực. Nhận xét này phù hợp với quan điểm đánh giá mới đây của một số chuyên gia
hàng đầu thế giới về lĩnh vực nhân khẩu học và của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA).
2. Tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên giảm liên tục với tốc độ chậm, đến cuộc điều
tra 1/4/2004 còn 20,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ này hiện vẫn còn cao. Điều này khẳng định lý do làm tăng
mức sinh năm 2003 hoàn toàn không phải vì tăng tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm 2003.
3. Mức sinh năm 2003 tăng lên chủ yếu vì 2 loại nguyên nhân sau:
4

• Thay đổi cơ cấu tuổi của dân số. Mức sinh và số lượng trẻ em gái sinh trong thời kỳ 1975-
1985 rất lớn, nay đã lần lượt bước vào nhóm 20-29 tuổi là nhóm phụ nữ có mức mắn đẻ cao nhất và
khá ổn định (vì số phụ nữ này thường chưa đạt số con mong muốn). Kết quả điều tra cho thấy nhóm
phụ nữ 20-29 tuổi đã tăng mạnh vào năm 2003 (sau đó giảm nhẹ vào năm 2004);
• Khả năng dự báo, nắm bắt và xử lý tình hình còn yếu. Trong báo cáo điều tra biến động dân số
-KHHGĐ 1/4/2002 gửi Ủy ban DSGĐ&TE và các ngành, các cấp, Tổng cục Thống kê đã cảnh báo
mấy nguy cơ làm cho mức sinh có thể tăng mạnh vào năm 2003: (1) Năm 2003 là năm Quý Mùi nên
mức sinh có thể tăng mạnh theo phong tục truyền thống của Việt Nam; (2) Số phụ nữ 20-29 tuổi tăng
rất mạnh trong khi tỷ lệ phụ nữ sử dụng các biện pháp tránh thai năm 2002 lại giảm, tỷ lệ không sử
dụng biện pháp tránh thai vì hai lý do “đang mang thai” và “muốn có con” đã tăng khá vào năm 2002;
(3) Tỷ lệ nạo /phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt đã giảm mạnh vào năm 2002; (4) Tuổi kết hôn lần
đầu không tăng nhưng tỷ lệ kết hôn năm 2002 đã tăng khá nhanh. Đây là “các yếu tố trực tiếp quyết
định mức sinh”, theo mô hình Boongaarts chúng chiếm khoảng 96% sự thay đổi mức sinh.
Trong 2 loại nguyên nhân nói trên, các nguyên nhân thuộc khía cạnh “nhân khẩu học” (tăng phụ
nữ 20-29 tuổi) là nằm ngoài tầm kiểm soát của ta, còn “các yếu tố trực tiếp quyết định mức sinh” đều
thay đổi theo hướng làm tăng mức sinh năm 2003. Tuy nhiên, kết quả thu được từ hai cuộc điều tra
1/4/2003 và 1/4/2004 cho thấy có sự thay đổi của cả 2 loại nguyên nhân trên theo hướng làm cho mức
sinh sẽ giảm vào năm 2004.
5
Câu 3: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết của trẻ sơ sinh. Tại sao nói mức chết
của trẻ sơ sinh có ảnh hưởng rất lớn đến gia tăng dân số và phát triển kinh tế xã hội.
* Các yếu tố ảnh hưởng:
-Yếu tố sinh học: Sự khác biệt mức chết có thể do những sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ:
cơ cấu giới và tuổi khác nhau.
-Yếu tố môi trường: đây là điều kiện trực tiếp tới sức khỏe của người dân và ảnh hưởng mức
chết của trẻ sơ sinh
-Trình độ phát triển kinh tế- xã hội
Mức sống: mức sống càng cao -> thể lực càng tăng trưởng, con người càng có khả năng chống
đỡ bệnh tật -> mức chết giảm và ngược lại.
Trình độ dân trí: trình dộ dân trí cao, tiếp thu được khoa học, y học hiện đại, biết nuôi dưỡng,

chăm sóc con cái, mức chết giảm.
Trình độ phát triển của y học: mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh môi trường góp
phần làm giảm dịch bệnh, giảm mức chết.
Tâm lý tập quán lối sống: nó có sự tác động khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh
cụ thể của từng đất nước.
* Tại sao nói mức chết của trẻ sơ sinh có ảnh hưởng rất lớn đến gia tăng dân số và phát
triển kinh tế xã hội
+ Ảnh hưởng đến gia tăng dân số: tỷ suất chết của trẻ sơ sinh càng giảm thì gia tăng dân số càng
nhanh và ngược lại tỷ suất chết trẻ sơ sinh càng nhanh thì gia tăng dân số chậm.
+ Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế- xã hội: Tỷ suất chết trẻ sơ sinh ảnh hưởng rất lớn tới phát
triển kinh tế- xã hội. Nếu tỷ suất chết trẻ sơ sinh càng thấp thì nó thể hiện một nền kinh tế phát triển, và
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân được đảm bảo mạng lưới y tế công cộng phát triển rộng
khắp, cuộc sống của người dân được đảm bảo và được nâng cao. Nền kinh tế phát triển và trình độ dân
trí của người dân ngày càng được nâng cao, chăm sóc sức khỏe con cái một cách khoa học, giảm tỷ lệ
chết. và ngược lại nếu tỷ suất chết trẻ sơ sinh cao thì nó thể hiện đó là một nền kinh tế kém phát triển,
lạc hậu, đời sống của người dân quá thấp, các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em không đáp
ứng được nhu cầu do đó mà tỷ suất chết trẻ sơ sinh cao.
Ví dụ: ở các nước Châu Phi có mức chết trẻ sơ sinh cao, do đó nghèo đói và thiếu dinh dưỡng.
* Giải pháp nào làm giảm mức chết:
- Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ lệ sinh dần dần tiến tới
mức sinh ổn định, dân số ổ định.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội nâng cao đời sống cho người dân.
- Tăng cường các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân.
- Tuyên truyền cách sống khoa học, chăm sóc con cái đúng cách để giảm tỷ lệ chết.
6
Câu 4: Trình bày thực trạng dân số Việt Nam hiện nay. Phân tích ảnh hưởng của thực trạng
đó đến qui mô, chất lượng nguồn nhân lực xã hội và giải pháp việc làm ở nước ta hiện nay.
* Thực trạng dân số Việt Nam:
+ Quy mô dân số:
- Ngày càng lớn và mặc dù tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm đã giảm nhưng nhịp độ tăng

dân số ở Việt Nam là rất lớn và ngày càng nhanh.
- Quy mô dân số lớn tính đến năm 1999 là 76,3 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, đứng thứ
7 Châu Á và thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2005 là 80,5 triệu người.
- Mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm nhưng vẫn còn cao, từ 1,86% (1991) xuống 1,65% năm
(1995), 1,36% (2000) và 1,33% (2005). Quy mô dân số năm 2005 là 8.3121,7 nghìn người, tăng
1.5879,3 nghìn người so với năm 1991, bình quân 1 năm tăng 1.058,6 nghìn người.
Trong thời gian 80 năm, dân số Việt Nam tăng 4,5 lần (1995), 7,0 lần (1999) với số lượng là 76
triệu người (năm 1999) và 80,5 triệu người (năm 2005). Giai đoạn 1921 – 1955 (35 năm) tăng 9,5 triệu
người. Giai đoạn 1955 – 1999 (45 năm) tăng 67 triệu người. Trong những năm gần đây, do đẩy mạnh
chính sách dân số, tốc độ tăng dân số tuy giảm nhưng vẫn còn cao, dự báo đến năm 2004 là 95,13 triệu
người ở phương án thấp và 104,28 triệu người ở phương án cao nhất.
+ Cơ cấu dân số:
- Đang có xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi và tăng tỷ lệ người già trong tổng số dân
(hiện nay là dưới 15 tuổi giảm 33,1% và trên 15 – 16 tuổi là 59,3%) trên 60 là tăng 7,6%.
- Trong cơ cấu giới đang có sự mất cân đối giữa nam và nữ.
- Trong cơ cấu dân số tỷ lệ biết đọc tăng nhưng không đáng kể, có sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ
biết đọc của nam và nữ ở đô thị và nông thôn.
- Dân số nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là đông nhất (83%) và 53 dân tộc còn lại
chiếm 17% -> chênh lệch quá lớn.
+ Sự phân bố dân cư:
- Mật độ dân số Việt Nam tăng lên nhanh chóng và thuộc loại cao trong khu vực và thế giới.
Hiện nay khoảng 230 người/km
2
.
- Có sự chênh lệch và phân bố không điều giữa các vùng lãnh thổ khu vực trong cả nước, các
tỉnh với nhau.
- Mật độ giữa vùng đông dân nhất với vùng thưa dân nhất có chênh lệch rất lớn là 17,2 lần
(đồng bằng sông Hồng 1.157 người/km
2
– Tây Nguyên 67 người/km

2
), giữa các tỉnh cũng có chênh
lệch rất lớn là 17,6 lần (Hà Nội 1.180 người/km
2
– Sơn La, Lai Châu: 67 người/km
2
).
+ Chất lượng dân số thể hiện qua chỉ số HDI:
HDI là chỉ số phát triển con người, được thể hiện qua 3 lĩnh vực cơ bản trong sự phát triển của
con người, đó là: mức số, trình độ học vấn, sức khỏe. Trong đó:
- Mức sống: thu nhập trong nước tính theo đầu người (GDP/người).
- Trình độ học vấn: là tổng hợp của 2 chỉ tiêu: tỷ lệ dân số biết chữ (chỉ tính từ 15 tuổi trở lên)
và số năm bình quân đã được nhận đến trường học của người từ 25 tuổi trở lên.
- Sức khỏe: tuổi thọ bình quân, tuổi sống trung bình của người dân trong phạm vi cả nước.
-> Chỉ số phát triển của người Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2005:
Tổng quát HDI có xu hướng tăng dần, năm 2005 đạt 0,704 tăng thêm 0,022 so với năm 2001
trung bình mỗi năm tăng 0,0044 (0,44%). Mức tăng này là chậm vì tốc độ tăng hiện có thì dự báo HDI
của nước ta sau 5 năm đến báo cáo phát triển con người 2010 của UNDP chỉ tăng thêm 0,022 đạt giá
trị 0,726. Như vậy, dự báo HDI của nước ta khi kết thúc “chiến lược kinh tế xã hội giai đoạn 2001-
2010” chỉ ở mức 0,735. Mức chỉ số của các quốc gia phát triển cũng không đứng yên mà tăng lên.
Đồng thời các thành phần trong HDI vận động không đều, chỉ số tuổi thọ, kinh tế tăng lên trong khi
giáo dục giảm đi bằng 3/5 mức tăng của chỉ số kinh tế.
- Chỉ số tuổi thọ: năm 2005 là 0,758, mỗi năm tăng trung bình là 0,009 (0,9%). Chỉ số giáo dục:
năm 2005 là 0,815 so với năm 2001 giảm 0,29 (2,9%) -> Trung bình mỗi giai đoạn giảm 0,006 (0,6%)
- Chỉ số kinh tế: năm 2005 là 0,537 tăng 0,05 so với 2001 -> Trung bình mỗi năm tăng 0,01
(1%)
7
* Ảnh hưởng:
+ Tích cực:
Là nguồn nhân lực có quan hệ nhân quả: dân số hôm nay là nguồn nhân lực trong tương lai. Sự

biến động trong dân số là sự biến động trong nguồn nhân lực. Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân
lực cho xã hội, cho đất nước.
- Với dân số tới dưới 80 triệu người đây là nguồn hình thành nguồn nhân lực tự nhiên của nước
ta, nước ta có quy mô nguồn nhân lức đông đảo có khoảng dưới 40 triệu trong độ tuổi lao động
- Dân số nước ta là dân số trẻ, do đó có nguồn nhân lực dồi dào, mỗi năm nước ta tăng thêm
khoảng 1 đến 1,2 triệu lao động, hiện nay nước ta có khoảng 40 triệu người trong độ tuổi lao động.
- Dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào tạo động lực để phát triển đất nước, phát triển kinh tế- xã
hội, thu hút được nhiều sự đầu tư của nước ngoài do giá nhân công ở nước ta tương đối rẻ so với các
nước khác trong khu vực, đồng thời nguồn nhân lực nước ta có sức khỏe, ham học hỏi, tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến rất nhanh của thế giới.
+ Tiêu cực:
- Ngoài ra cũng có những tác động tiêu cực, với dân số động và tăng nhanh trong đó kinh tế lại
chưa phát triển tiến kịp với phát triển dân số do đó đã tạo ra sức ép về việc làm dẫn đến tình trạng thất
nghiệp còn cao dưới 6% số người chưa có việc làm trong tổng số người lao động. Từ không có việc
làm kéo theo những vấn đề xã hội.
- Nguồn lao động nước ta tương đối dồi dào tuy nhiên nguồn lao động chưa qua đào tạo vẫn
chiếm tỷ trọng lớn do đó chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa được đảm bảo, chưa đáp ứng được với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó cũng gây không ít khó khăn trong công tác đào tạo, đào tạo
lại cho người lao động và hiệu quả đạt được cũng không cao. Chất lượng lao động thấp cũng ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của lao động Việt Nam với các nước khác trên thế giới nhất là trong lĩnh vực
xuất khẩu lao động.
+ Ảnh hưởng đến việc làm: quy mô gây áp lực cho giải quyết việc làm, phân bổ dân số, cơ cấu
dân số, chất lượng lao động đến ảnh hưởng tới việc làm, nhu cầu của công việc, vấn đề hoàn thành và
chất lượng công việc. Việc làm có vai trò rất quan trọng đối với vấn đề dân số. Vì việc làm góp phần
tạo ra thu nhập giúp ổn định cuộc sống, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Vấn
đề giải quyết việc làm hiện nay đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn xã hội, nó vừa mang tính
cấp bách vừa mang tính lâu dài.
8
Câu 5: Phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa dân số với nguồn nhân lực xã hội và việc làm
ở nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp góp phần đảm bảo hợp lý mối quan hệ trên.

1. Phân tích mối quan hệ giữa dân số, nguồn nhân lực xã hội và việc làm:
a) Tình hình dân số hiện nay của Việt Nam:
+ Quy mô dân số:
- Ngày càng lớn và mặc dù tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm đã giảm nhưng nhịp độ tăng
dân số ở Việt Nam là rất lớn và ngày càng nhanh.
- Quy mô dân số lớn tính đến năm 1999 là 76,3 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, đứng thứ
7 Châu Á và thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2005 là 80,5 triệu người.
- Mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm nhưng vẫn còn cao, từ 1,86% (1991) xuống 1,65% năm
(1995), 1,36% (2000) và 1,33% (2005). Quy mô dân số năm 2005 là 8.3121,7 nghìn người, tăng
1.5879,3 nghìn người so với năm 1991, bình quân 1 năm tăng 1.058,6 nghìn người.
Trong thời gian 80 năm, dân số Việt Nam tăng 4,5 lần (1995), 7,0 lần (1999) với số lượng là 76
triệu người (năm 1999) và 80,5 triệu người (năm 2005). Giai đoạn 1921 – 1955 (35 năm) tăng 9,5 triệu
người. Giai đoạn 1955 – 1999 (45 năm) tăng 67 triệu người. Trong những năm gần đây, do đẩy mạnh
chính sách dân số, tốc độ tăng dân số tuy giảm nhưng vẫn còn cao, dự báo đến năm 2004 là 95,13 triệu
người ở phương án thấp và 104,28 triệu người ở phương án cao nhất.
+ Cơ cấu dân số:
- Đang có xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi và tăng tỷ lệ người già trong tổng số dân
(hiện nay là dưới 15 tuổi giảm 33,1% và trên 15 – 16 tuổi là 59,3%) trên 60 là tăng 7,6%.
- Trong cơ cấu giới đang có sự mất cân đối giữa nam và nữ.
- Trong cơ cấu dân số tỷ lệ biết đọc tăng nhưng không đáng kể, có sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ
biết đọc của nam và nữ ở đô thị và nông thôn.
- Dân số nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là đông nhất (83%) và 53 dân tộc còn lại
chiếm 17% -> chênh lệch quá lớn.
+ Sự phân bố dân cư:
- Mật độ dân số Việt Nam tăng lên nhanh chóng và thuộc loại cao trong khu vực và thế giới.
Hiện nay khoảng 230 người/km
2
.
- Có sự chênh lệch và phân bố không điều giữa các vùng lãnh thổ khu vực trong cả nước, các
tỉnh với nhau.

- Mật độ giữa vùng đông dân nhất với vùng thưa dân nhất có chênh lệch rất lớn là 17,2 lần
(đồng bằng sông Hồng 1.157 người/km
2
– Tây Nguyên 67 người/km
2
), giữa các tỉnh cũng có chênh
lệch rất lớn là 17,6 lần (Hà Nội 1.180 người/km
2
– Sơn La, Lai Châu: 67 người/km
2
).
b) Mối quan hệ giữa dân số - nguồn nhân lực – việc làm:
Trong cơ chế thị trường, việc làm và thất nghiệp là 2 phạm trù có liên quan chặt chẽ với nhau và
có liên hệ mật thiết tới dân số và nguồn nhân lực xã hội.
+ Mối liên hệ giữa việc làm và nguồn nhân lực - dân số:
Sự phân bố dân cư: Việc làm và thu nhập chính là 1 trong những yếu tố cơ bản tạo nên các luồn
di dân từ nông thôn lên thành thị, các khu chế xuất, khu công nghiệp, thậm chí là sang nước ngoài, đi
xuất khẩu lao động.
Ở đâu có sự phát triển kinh tế - xã hội có công ăn việc làm là nơi đó thu hút dân cư đến làm ăn,
dù diện tích hay vấn đề kinh tế - xã hội ở nơi đó ra sao.
- Chất lượng dân số, việc làm đem lại thu nhập cho dân số, đảm bảo cho người dân có điều kiện
tái sản xuất sức lao động, có điều kiện hưởng các dịch vụ giáo dục
9
Câu 6: Phân tích và làm rõ nhận định: “Các yếu tố dân số kết hợp với sự nghèo đói và thiếu
hụt nguồn nhân lực ở một số khu vực cộng với sự tiêu dùng quá mức và mô hình sản xuất lãng phí
ở các khu vực khác đã gây ra suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng đến phát
triển bền vững”.
* Mối quan hệ giữa dân số, môi trường và phát triển bền vững
Trong khái niệm phát triển bền vững, có ba yếu tố cơ bản: bền vững về kinh tế, bền vững về xã
hội và bền vững là nhiệm vụ trọng tâm. Như vậy, dân số và môi trường vừa là mục tiêu, vừa là những

nội dung quan trọng của phát triển bền vững.
Dân số, môi trường và phát triển có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế là
điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa với phát triển. Phát triển chỉ dựa trên tăng trưởng
đơn thuần thì sự tăng trưởng đó không lâu bền. Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển
không tương ứng hoặc chỉ đáp ứng tăng nhu cầu cho dân số hiện đại nhưng ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của dân số tương lai, phát triển dựa trên vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên,
không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì sự phát triển đó không thể gọi là bền vững.
Tăng trưởng kinh tế là mục đích để phát triển con người, tạo điều kiện để nâng cao đời sống con
người, bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. Bảo vệ môi trường kết hợp bảo đảm hài hoà những mục
tiêu khác của con người là cần thiết để đạt được sự phát triển bền vững.
Dân số và môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Không thể có phát triển bền vững
nếu môi trường bị huỷ hoại, suy thoái, chất lượng cuộc sống và sức khoẻ của người dân bị sa sút. Sự
phát triển bền vững tuỳ thuộc rất lớn vào công tác dân số và bảo vệ môi trờng. Nhiều khi, giá phải trả
cho chi phí về môi trường nhiều hơn những cái mà con người thu về từ thiên nhiên.
Như vậy, dân số, môi trường và phát triển tạo thành vòng quay tuần hoàn khép kín, ảnh hưởng
và chi phối lẫn nhau. Khi các nhân tố này không tạo ra được sự phát triển hợp lý thì vòng quay đó sẽ bị
hỗn loạn, gây tác động tiêu cực ngược trở lại, phá vỡ cấu trúc và làm tổn hại đến nhau. Thực tế cho
thấy, cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạp ra áp lực làm kiệt quẹ tài
nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường - cơ sở tồn tại của chính bản
thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối
mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không
lường trước được. Các nước công nghiệp phát triển đã mất hàng chục năm để nhận ra rằng sự phát
triển theo kiểu truyền thống đã đến giới hạn của "vạch cấm". Do vậy, cần có sự thay đổi, điều chỉnh để
có thể phát triển lâu bền.
Thực ra, ý tưởng về một thế giới bền vững, cân bằng đã có từ thế kỷ XIX, do nhà khoa học
người Anh Giôn Xtu-át Min (1806 - 1873) một trong những người đầu tiên thừa nhận sự thống nhất
giữa kinh tế và các giới hạn tự nhiên ủa trái đất. Nửa thế kỷ sau, một nhà khoa học khác L. Mem-phót
đã viết: "Phát triển, nhân bản, hợp tác, cộng sinh - đó là những vấn đề then chốt của nền văn hoá thế
giới mới"(1). Nhưng từ nhận thức cho đến khi xuất hiện một chương trình nghị sự hành động cho cả
thế giới thì phải mất đến hàng mấy chục năm. Vấn đề môi trường từ lâu đã trở thành vấn đề cấp bách

của các nước công nghiệp phát triển, nhưng phải đến năm 1972, Hội nghị Xtốc-khôm về môi trường
mới được tổ chức lần đầu tiên, với lời kêu gọi bảo vệ ngôi nhà trái đất. Năm 1980, hiệp hội thế giới
bảo tồn thiên nhiên (IUCN) đưa ra "chiến lược bảo tồn thế giới" đã đề xuất việc sử dụng lâu bền các
loài và các hệ sinh thái. Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới đưa ra bản báo cáo
Tương lai chung của chúng ta, trong đó khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc đến. Và
đến năm 1992, trong Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển tổ chức tại Ri-ô đờ Gia-nê-rô
(Braxin), khái niệm phát triển bền vững cính thức được đưa ra. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh của
Liên Hợp quốc về môi trường và phát triển đã được tổ chức tại Giô-han-ne-xbớc (Nam Phi).
Tuy nhiên, kể từ sau các Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu đến nay, thế giới đang phát triển thiếu
bền vững, như công bố của bản Báo cáo phát triển bền vững do Chương trình bảo vệ môi trường Liên
Hợp quốc (UNEP) đưa ra cuối năm 2004.
Đó là tình trạng 1/5 dân số thế giới có mức thu nhập chưa đến 1 đô la/ngày; 80 triệu người ở các
nước đang phát triển bị suy dinh dưỡng; hàng năm có tới 10 triệu người chết vì các bệnh có thể phòng
tránh được và hơn 150 triệu trẻ em không được đến trường do nghèo đói; 1/5 dân số thế giới không
10
được sư dụng nước sạch v.v Gia tăng dân số đã tạo ra áp lực to lớn đối với thiên nhiên. Sự thay đổi
khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các nguồn nước; hiện tương sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự
suy thoái về rừng; sự tuyệt chủng của các loài sinh vật đã va đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến
sự sống trên trái đất. Gần 1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người. Người ta gọi sự xói
mòn đất đai nhanh chóng là "cuộc khủng hoảng thầm lặng của hành tinh", là mối đe doạ to lớn đối với
sự sống trên trái đất.
Từ thực trạng trên cho thấy, sự khủng hoảng về tài nguyên và môi trường, suy cho cùng là nằm
trong phạm vi hoạt động của con người, do con người gây ra, và dẫn đến đe doạ chính bản thân sự sinh
tồn của loài người. Chính loài người hiện nay đang từng bước, từng giờ chịu hậu quả của cung cách
phát triển không bền vững.
Đương nhiên, cần khẳng định là những thành tựu khoa học - kỹ thuật của loài người thường trên
cơ sở dựa vào thiên nhiên, chinh phục và cải tạo thiên nhiên để sản xuất, khai thác. Nhưng tiềm năng
trái đất có hạn, trong khi đó quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, dân số và nhu cầu của con người
không ngừng tăng lên. Khoa học dù hiện đại đến đâu, loài người dù có tạo ra những sản phẩm văn
minh tiên tiến đến mấy cũng không thể hoàn toàn thay thế được những sản phẩm từ tự nhiên. Và cũng

không thể chi trả hết món nợ, không bù lại được những thất thoát và những tổn thất mà loài người đã
gây ra đối với môi trường. Như lời tác giả cuốn sách Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI: huỷ hoại
những hình thể của sự sống là chúng ta đã phạm vào một tội ác lớn hơn là đốt cháy các thư viện.(2)
Những vấn đề toàn cầu bức thiết này đòi hỏi phải xem xét lại toàn bộ hoạt động của con người
đối với môi trường thiên nhiên, từ nhận thức, hành động cho đến cách thức phát triển bằng cách thay
đổi lối sống, ít phụ thuộc hơn vào các nguồn tài nguyên có hạn của trái đất. Nếu không có những biện
pháp hữu hiệu, cứ giữ nguyên phương thức sản xuất và lối tiêu thụ như hiện nay mà không có sự thay
đổi, điều chỉnh tích cực nào thì loài người sẽ tiêu huỷ ngày càng nhanh những nguồn tài nguyên đã
phải mất rất nhiều thiên niên kỷ mới có được. Và điều này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta có lỗi và
mắc nợ thế hệ tương lai. Tuyên ngôn Ma-ni-la cũng đã nêu rõ: Ngày nay cần có một mô thức phát triển
cũ. Một mô thức phát triển thực sự phải nâng cao được tính bền vững của cộng đồng. Mô thức ấy phải
được hiểu như là một quá trình thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và không nhất thiết phải bao gồm
tăng trưởng. Chỉ có thể có được những cộng đồng nhân loại bền vững bằng con đường phát triển lấy
con người làm trung tâm.
Đã đến lúc phải thay đổi lối tư duy, nhận thức về thế giới. Làm cách nào để ngăn ngừa những
hiểm hoạ do chính con người gây nên? Phát triển như thế nào để "thoả mãn những nhu cầu hiện tại mà
không làm phương hại đến khả năng các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của thế hệ họ". Do vậy,
xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững. Đó là xu
thế tất yếu trong tiết trình phát triển. Dân số và môi trường trong chiến lược phát triển bền vững trở
thành một trong những vấn đề cấp bách toàn cầu, một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
11
Câu 7: Phân tích và làm rõ tình hình dân số hiện nay. Trình bày mục tiêu của chiến lược
dân số VN 2001 – 2010.
* Tình hình dân số hiện nay:
- Ở Việt Nam mỗi năm có thêm khoảng 1,39 triệu trẻ em. Tỷ lệ nam, nữ nhìn chung chệnh lệch
không lớn: nữ giới VN có tuổi thọ bình quân 69 tuổi trong khi năm giới 64 tuổi.
- Tuổi thọ bình quân của nước ta khá cao so với mức thu nhập thấp của nền kinh tế và tiếp tục
tăng từ 66 tuổi năm 1989, lên 68 tuổi năm 1999 và 71 tuổi năm 2002. Tuổi thọ bình quân của nam
thường thấp hơn nữ 4 tuổi, trong khi mức chênh lệch tuổi thọ giữa nam và nữ ở Nhật bản là 6 tuổi, ở

các nước Châu Âu tới 8 tuổi. LHQ đánh giá VN là 1 trong 10 nước có tuổi thọ tăng nhanh nhất trong
thời kỳ 1950 - 2000. Tuy nhiên, tuổi thọ bình quân khỏe mạnh của nước ta lại thấp đi rất nhiều, chỉ là
58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với 174 nước trên thế giới.
- Tính đến thời điểm 01/4/1999, cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ
đến trường, trong đó có 5,3 triệu người hoàn toàn không biết chữ. Tỷ lệ số người đã qua đào tạo ngề
nghiệp và chuyên môn kỹ thuất chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó có 2,3% là công nhân
kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp, 0,7% cao
đẳng, 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên ĐH. Cơ cấu đào tạo bất hợp lý, quan hệ tỷ lệ đào tạo giữa
3 loại trình độ chuyên môn kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế là đại học và trên đại học 1; trung học
chuyên nghiệp 4; công nhân kỹ thuật 10, thì nước ta là 1-1,13-0,92.
Để tránh nguy cơ tụt hậu, cùng với việc giải quyết vấn đề quy mô dân số đòi hỏi chúng ta phải
xây dựng và thực thi 1 chiến lược dài hạn nhằm nâng cao chất lượng dân số VN cả thể lực và trí lực.
* Mục tiêu tổng quát: là thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc; nâng cao chát lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
* Mục tiêu cụ thể:
- Mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi cặp vợ
chồng có 02 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21.
+ Duy trì xu thế giảm sinh một cách vững chắc để đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn
quốc để quy mô dân số và phân bố dân cư phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội vào năm 2010;
+ nâng chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần, phấn đấu đạt chỉ số phát triển con
người (HDI) ở mức trung bình tiên tiến thế giới vào năm 2010.
+ Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em.
+ Giảm tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục, hạn chế các bệnh lây truyền qua đường sinh dục
(HIV)
+| Mở rộng nâng cao chất lượng các chương trình sức khoẻ sinh sản KHHGĐ.
12
Câu 8: Trình bày mục tiêu và biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách dân số Việt Nam hiện
hành. Tại sao nói biện pháp thông tin giáo dục, tuyên truyền là cơ bản trong thực hiện mục tiêu
chính sách dân số Việt Nam ở nước ta

* Mục tiêu:
* Mục tiêu tổng quát: là thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc; nâng cao chát lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
* Mục tiêu cụ thể:
- Mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi cặp vợ
chồng có 02 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21.
+ Duy trì xu thế giảm sinh một cách vững chắc để đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn
quốc để quy mô dân số và phân bố dân cư phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội vào năm 2010;
+ nâng chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần, phấn đấu đạt chỉ số phát triển con
người (HDI) ở mức trung bình tiên tiến thế giới vào năm 2010.
+ Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em.
+ Giảm tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục, hạn chế các bệnh lây truyền qua đường sinh dục
(HIV)
+ Mở rộng nâng cao chất lượng các chương trình sức khoẻ sinh sản KHHGĐ.
* Biện pháp:
+ Các biện pháp tổ chức, thông tin – giáo dục – tuyên truyền: Tăng cường công tác thông tin,
giáo dục truyền thông dân số làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích của kế hoạch hóa gia đình, chấp nhận
gia đình quy mô nhỏ như một chuẩn mực xã hội, là giải pháp hàng đầu để thực hiện các mục tiêu dân
số.
Công tác thông tin, giáo dục tuyên truyền cần được tiến hành mạnh mã, thường xuyên, liên tục,
rộng khắp đến mọi đối tượng bằng những nội dung, hình thức và phương án phong phú đa dạng.
+ Các biện pháp kinh tế, xã hội: gồm việc đảm bảo tài chính cho việc thực thi chính sách dân số
mà phần chủ yếu từ ngân sách nhà nước, các biện pháp kinh tế để hướng các gia đình vì lợi ích kinh tế
mà quan tâm đến việc thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình và những khuyến khích về vật
chất, tinh thần để động viên kịp thời những người đi đầu trong việc thực hiện chính sách. Nhà nước sẽ
sửa đổi và ban hành loại chính sách xã hội hỗ trợ cho chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình:
chính sách tạo việc làm, chính sách di dân, xóa nạn mù chữ, phát triển nông thôn, nâng cao dân trí và
quyền bình đẳng của phụ nữ, bảo hiểm sức khỏe người già.
+ Các biện pháp kỹ thuật y tế: tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện hành vi dân số

của mình. Ý thức và chấp nhận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình có ý nghĩa quyết định hàng đầu
nhưng nếu không có sự hỗ trợ và đảm bảo của các phương tiện kỹ thuật và y tế thì mới dừng lại ở ý
muốn.
+ Các biện pháp hành chính – pháp luật: trước hết bảo đảm những thủ tục hành chính thuận lợi
cho người dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ lợi ích, tín mạng và sức khỏe cho người dân tực
hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, đề cao trách nhiệm của viên chức và các tổ chức tham gia
thực hiện các chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, cũng như ngăn chặn những hành vi cố tình
phá hoại chính sách dân số quốc gia. Các biện pháp này phần lớn quy định trong một số bộ luật và
trong các điều lệ quy định riêng biệt trong việc thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Nhìn
chung, việc triển khai một cách đồng bộ và có kết quả các chương trình dân số trong những năm tiếp
theo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi nghĩa vụ phát triển kinh tế - xã hội
của các quốc gia.
* Tại sao nói giải pháp thông tin, giáo dục, tuyên truyền là cơ bản: Vì đây là biện pháp thể
hiện bản chất của nhà nước ta (là một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, thể hiện chính sách chủ đạo
của quản lý nhà nước về dân số: “Phòng bệnh” hơn “Chữa bệnh”. Là biện pháp chủ yếu trong mọi biện
pháp nhằm nâng cao ý thức của người dân từ đó tạo sự biến chuyển nội sinh trong nhân dân.
13
Câu 9: Phân tích quan điểm của Đảng về chính sách dân số Việt Nam. Tại sao nói đầu tư
cho công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách dân số:
Chiến lược Dân số VN giai đoạn 2001- 2010 được xây dựng nhằm phát huy những kết quả đã
đạt được của Chiến lược DS- KHHGĐ đến năm 2000. Ch/lược này là một bộ phận của Ch/lược phát
triển KT-XH, là nền tảng quan trọng trong Chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta.
Chiến lược này cũng nhằm giải quyết những vấn đề dân số gắn với phát triển trên cơ sở những ưu tiên
phát triển của đất nước trong thập kỷ đầu của thế kỉ 21 và định hướng của Hội nghị quốc tế về dân số
và phát triển năm 1994. Thực hiện tốt các mục tiêu của Chiến lược Dân số là trực tiếp góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho tiến trình công
nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010,
Đảng và Nhà nước ta xác định rõ những quan điểm về chính sách dân số cho giai đoạn này như sau:
1. Công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản để

nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội, góp phần quyết định
để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng với chất
lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân lực, giữa phân bố và di chuyển dân cư
với phát triển kinh tế- xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng
khó khăn có mức sinh cao, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao
mức sống nhân dân.
3. Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế-
xã hội trực tiếp và rõ rệt. Nhà nước cần đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác dân số, đồng thời huy động
sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về dân số và phát triển, kết hợp với việc thực hiện
đầy đủ, có hiệu quả chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản kế hoạch hoá gia đình, tăng cường vai trò
của gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản kế hoạch hoá gia đình là các
giải pháp cơ bản để đảm bảo tính bền vững của chương trình dân số và phát triển.
5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và ch/quyền các cấp đối với công tác d/số đẩy
mạnh xã hội hóa là yếu tố q/định đảm bảo sự thành công của chương trình d/số và ph/triển.
Trong 5 quan điểm trên, ta thấy quan điểm “Đầu tư cho công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình
là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao” là một quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta. Chính vì thế từ năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã có Nghị quyết về
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình và trên cơ sở Nghị quyết này, Thủ tướng chính phủ đã ra
Quyết định phê duyệt “Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000”. Chiến lược phát
triển dân số của nước ta có mục tiêu chung là ổn định mức tăng dân số, giữ tỷ lệ gia tăng dân số phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mức độ tăng trưởng kinh tế, tiến tới ổn định quy mô dân
số. Phân đấu để dân số nước ta đạt cơ cấu độ tuổi và phân bố dân cư hợp lý, chất lượng dân số về các
mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần của từng người dân được nâng cao. Ổn định dân số
để phát triển là vấn đề rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước
bởi khi dân số tăng nhanh, số dân sẽ là trở ngại cho sự phát triển sản xuất, dân số tăng nhanh cũng là
tác nhân gây xuống cấp nhiều mặt xã hội như chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, kỹ năng lao
động, đảm bảo nhà ở và việc làm. Nâng cao chất lượng dân số cũng là tiền đề cho phát triển nguồn
nhân lực. Mục tiêu nâng cao chất lượng dân số được thể hiện qua các mục tiêu về chăm sóc sức khỏe

bà mẹ và trẻ em, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của hệ thống
giáo dục đào tạo.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân số - kế hoạch hoá gia đình của nước ta đã
thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: Nhận thức của toàn xã hội đã có bước
chuyển biến rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp nhận ngày càng rộng rãi; Nhịp độ
gia tăng dân số nhanh đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm
từ trên 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn
14
1,32%. Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Việt Nam đã giải quyết
cơ bản vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta.
Với những thành công trong chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, Việt Nam đã giảm được
tốc độ gia tăng dân số, qua đó, chúng ta đã tiết kiệm được một khối lượng lớn các nguồn lực mà lẽ ra
phải chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, chữa bệnh và việc làm và đã góp phần rất quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xóa đói, giảm nghèo và nâng
cao mức sống của nhân dân cùng các vấn đề quan trọng khác như:
+ Các nhà kinh tế và xã hội học đã xác lập được mối quan hệ giữa tỷ lệ gia tăng dân số với tỷ lệ
gia tăng thu nhập quốc dân và tỷ lệ gia tăng GDP/đầu người như sau:
Tỷ lệ gia tăng GDP tính trên đầu người = Tỷ lệ gia tăng GDP - Tỷ lệ gia tăng dân số
+ Tăng trưởng d/số có tác động rất lớn đến nhu cầu học tập, giáo dục trong độ tuổi học sinh. Sự
giảm nhanh mức sinh sẽ giảm áp lực về nhu cầu giáo dục của học sinh trong đội tuổi và Ngân sách sẽ
giảm được khoản chi cho xây dựng thêm trường lớp, tăng giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị, sách
giáo khoa, phương tiện dạy và học.
+ Các chính sách và chương trình d/số - KHH gia đình tác động đến việc chấp nhận kết hôn
muộn, số lần sinh giảm và khoảng cách giữa các lần sinh cách xa nhau là những yếu tố làm tăng khả
năng sức khỏe của mẹ và con, góp phần làm cho tình trạng sức khỏe tốt hơn, đồng thời giảm sức ép đối
với ngành y tế. Trên cơ sở đó tạo điều kiện gia tăng sự tham gia của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và
lực lượng lao động của đất nước.
+ Số dân tăng lên thì nhu cầu cơ bản cho đời sống lấy từ môi trường cũng tăng lên, đi cùng với
nó là quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nếu quá trình khai thác này diễn ra một cách bừa bãi
do dân số gia tăng thì sẽ nhanh chóng làm cho môi trường tự nhiên cạn kiệt và suy thoái.

Với những thành tựu của công tác dân số và KHH gia đình, năm 1999 Việt Nam đã được nhận
Giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc.
Trong bối cảnh KT-XH VN ở thập kỉ đầu của thế kỷ 21, khi mức sinh tiến gần mức thay thế,
muốn duy trì được xu thế giảm sinh vững chắc, thì không thể chỉ tập trung giải quyết vấn đề qui mô
d/số như trong thời gian qua, mà cùng với giảm sinh phải giải quyết đồng bộ, từng bước, có trọng điểm
các vấn đề về chất lượng, cơ cấu dân số và phân bố dân cư theo định hướng "Dân số- sức khoẻ sinh sản
và phát triển". Đảng và N/nước ta tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chiến lược d/số VN giai đoạn
2001-2010. Coi việc thực hiện KHH gia đình và giảm tỷ lệ sinh là một trong những biện pháp quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng dân số, bảo vệ tài nguyên và phát triển bền vững. Chú trọng công tác
truyền thông về KHH gia đình cho các cặp vợ chồng ở độ tuổi có mức sinh cao, đặc biệt là cho nam
giới. Sử dụng đa dạng và hiệu quả các kênh truyền thông và các hình thức thông tin giáo dục truyền
thông khác, tiếp cận mọi đối tượng để nâng cao nhận thức và cam kết thực hiện KHH gia đình, duy trì
quy mô gia đình hợp lý. Ph/triển sự chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Bảo đảm tính công bằng
và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ KHH gia đình. Đấu tranh phòng, chống tệ nạn XH,
đặc biệt là nạn ma túy. Từng bước nâng cao chất lượng d/số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp
dân cư. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và thực hiện KHH dân số phải trên quan điểm ph/triển bền
vững, hướng tới mục tiêu DG, NM, XHCB, DC, VM./.
15
Câu 10: Phân tích và liên hệ việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về dân số kế
hoạch hóa gia đình ở nước ta hiện nay.
* Xây dựng, t/c chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và các
biện pháp thực hiện công tác dân số
- Xây dựng chiến lược phát triển DS – KHHGĐ giai đoạn 2001-2010.
- Nhà nước đưa ra quy hoạch, kế hoạch phát triển dân số và quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của trung ương và địa phương.
- Cơ quan, tổ chức trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm
đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch thực hiện dân số vào kế hoạch hoạt động, phát triển sản xuất kinh doanh,
dịch vụ của chính quyền, đơn vị mình và định kỳ kiểm tra đánh giá việc thực hiện.
* Ban hành và tổ chức thực hiện các VB, QPPL về dân số:
- Ban hành những văn bản QPPL quan trọng như Pháp lệnh dân số năm 2003, Nghị định

104/2003/NĐ-CP.
- Tuy nhiên, hệ thống PLDS ban hành chưa đầy đủ, chưa tạo được cơ sở pháp lý để điều chỉnh
các vấn đề về quy mô dân số, nâng cao chất lượng dân số, phân bổ dân cư, các biện pháp thực hiện
công tác dân số và QLNN về công tác dân số, mà các văn bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh chậm ban
hành gây tác động không nhỏ đến việc thực hiện công tác dân số.
* Tổ chức thực hiện công tác dân số giữa các cơ quan, đoàn thể, người dân và tổ chức, cá
nhân tham gia công tác dân số:
- Cơ quan QLNN về dân số có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện công tác dân số, phối hợp với
MTTQ VN triển khai công tác dân số, thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về dân số.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác
dân số trong cơ quan, trong hệ thống tổ chức của mình bằng hình thức phù hợp; ban hành các nội dung,
quy chế hoặc các hình thức khác để thực hiện mục tiêu, chính sách dân số.
* Quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý nhà nước về dân số:
- Tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ cơ bản về KHHGĐ.
- Tuy nhiên ở nước ta thì:
+ Đội cán bộ còn thiếu, chưa được đào tạo cơ bản về DSGĐTE
+ Nhiều địa phương còn khó khăn về dội ngũ cả về số lẫn chất lượng nhất là ở cơ sở.
+ Nhiều dịa phương phân bổ chỉ tiêu biên chế cho UBDSTE tỉnh – huyện còn hạn chế, dẫn đến
thiếu cán bộ, phần lớn cán bộ kiêm nhiều nhiệm vụ khác
+ Năng lực tham mưu, chỉ đạo của 1 bộ phận lãnh đạo tổ chức thu6ọc UBDSGD các cấp, cán bộ
địa phương còn yếu.
+ Một số cán bộ các cấp có tư tưởng ỷ lại, ngại khó không tích cực tham gia học tập, nghiên cứu
công tác.
* Tổ chức quản lý công tác thu thập, xử lý, khai thác, lưu trữ thông tin, số liệu về dân số,
công tác đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu về dân cư, tổng điều tra về dân số theo định kỳ.
- Nhà nước tổ chức, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất trong
phạm vi cả nước.
- Hệ cơ sở dữ liệu là tài sản quốc gia, việc xây dựng, quản lý, khai thác, cung cấp thông tin dữ
liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật.
- Chính phủ quy định trình tự, thủ tục, nội dung về đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân số.
* Tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác dân số:
- Nhà nước có chính sách dân số, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ các cấp làm công tác dân số, chú trọng đối với cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số ở
cấp cơ sở.
- UBND các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ làm công tác dân số, đội ngũ
cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số ở cơ sở phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của dịa phương.
- Tuy nhiên hiện nay chế độ đối với cán bộ DSGĐTE ở cơ sở chưa phù hợp nhất là đối với cộng
tác viên.
16
- Cán bộ DSGĐTE cấp xã có nhiều biến động, trình độ đội ngũ còn hạn chế.
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa hoàn thiện tính hệ thống chưa cao, đội ngũ chuyên trách
chưa đồng đều, sự phối hợp tổ chức thực hiện KHHGD chưa chặt chẽ, khoa học.
* Tổ chức Quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ
trong lĩnh vực dân số.
- Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu
khoa học, chú trọng các đề tài nâng cao chất lượng DS nhất là những vùng có kinh tế - xã hội khó
khăn.
- Tuy nhiên việc nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng được việc xây dựng DS, ứng dụng kết quả
khoa học còn hạn chế, việc xây dựng cơ chế, chương trình, mục tiêu quốc gia chưa phù hợp, luôn xảy
ra trường hợp chỉ tiêu thấp hơn kế hoạch, cắt giảm kinh phí bố trí cho công việc ngoài ngành.
* Tổ chức quản lý thực hiện tuyên truyền, vận động người dân thực hiện pháp luật về dân
số: các cơ quan nhà nước trong phạm vi thẩm quyền, quyền hạn của mình có trách nhiệm lồng ghép
các yếu tố dân số trong quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, tuyên truyền vận động cong tác dân số,
cung cấp các dịch vụ tực hiện công tác dân số.
* Thực hiện phối hợp, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số:
- Nhà nước có chính sách, biện pháp mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số với quốc gia
khác trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng.
- Nhà nước khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
tổ chức quốc tế, hiệp hội quốc tế tham gia công tác dân số Việt Nam.

- Hợp tác trong các lĩnh vực, phạm vi là xây dựng và thực thi chương trình, dự án các lĩnh vực
dân số; tham gia tổ chức quốc tế; ký kết, gia nhập điều ước quốc tế trong lĩnh vực dân số, nghiên cứu
ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong lĩnh vực dân số; đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm
trong lĩnh vực dân số.
* Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về dân số.
- Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước, cán bộ các cấp có thẩm quyền trong việc thi hành chính sách và pháp luật về dân số.
- Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật
dân số.
- Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo thực hiện theo quy định của pháp luật
về khiếu nại tố cáo.
- Cá nhân, tổ chức vi phạm thì tùy theo tính chất của hành vi vi phạm pháp luật mà xử lý kỷ
luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật.
17
Câu 11: Phân tích và liên hệ việc thực hiện phương thức quản lý nhà nước về dân số kế
hoạch hóa gia đình ở việt nam hoặc địa phương anh (chị) sinh sống hoặc công tác. Cần phải làm gì
để làm tốt hơn trong thời gian tới.
* Phương thức quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ:
- Đòi hỏi phải giải quyết tốt được 2 mối quan hệ rất cơ bản trong phân bố và sử dụng nguồn lực
là: quan hệ phân cấp giữa Trung ương với địa phương, và quan hệ phối hợp giữa ngành với ngành.
- Quan hệ giữa trung ương với địa phương: Công tác dân số muốn thành công phải được tiến
hành ở địa phương và do vậy phải đưa đến tay người dân và phân bổ công khai toàn bộ ngân sách nhà
nước được Quốc hội thông qua theo chương trình mục tiêu trên nguyên tắc tập trung nguồn lực cho cơ
sở.
- Mố quan hệ ngành ngành: Mối quan hệ giữa ngành với ngành thường được sử dụng từ trước
đến nay là quan hệ phối hợp theo chức năng. Theo cơ chế này có thể có ngành tham gia tích cực hoặc
không. Vì vậy, cần áp dụng quan hệ thông qua hợp đồng trách nhiệm trên cơ sở chức năng và thế mạnh
của từng ngành.
Để giải quyết hai mố quan hệ đó, từ khi mới thành lập (1993) với tư cách là cơ quan thuộc

Chính phủ, Ủy ban quốc gia dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã chủ trương lựa chọn và thực hiện
phương thức quản lý nhà nước về công tác quản lý Dân số - Kế hoạch hóa gia đình như sau:
+ Quản lý theo chương trình, mục tiêu, điều phối tổ chức các cơ quan ban ngành thực hiện
thông qua hợp đồng trách nhiệm.
+ Công khai hóa nguồn lực và tập trung tuyệt đại bộ phận nguồn lực về cho cơ sở.
* Cần phải làm gì để làm tốt hơn trong thời gian tới:
18
PHẦN NGUỒN NHÂN LỰC
Câu 12: Phân tích đặc điểm chủ yếu của nguồn nhân lực. Những đặc điểm đó ảnh hưởng
như thế nào đến sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tiến trình hội nhập ở nước ta.
* Đặc điểm nguồn nhân lực:
VN có nguồn nhân lực dồi dào
VN là nước có dân số đông thứ hai Đông nam á và thứ 13 thế giới ở thập niên 90 nước ta có 35
triệu lao động đến đầu thế kỷ 21 là 40 triệu lao động. Do dân số tăng nhanh từ trước cho nên nguồn
nhân lực tiếp tục tăng với tốc độ cao. Hàng năm có từ 1 đến 1,2 triệu lao động gia tăng. Nguồn nhân
lực trẻ tăng nhanh là một lợi thế đối với sự phát triển của đất nước.
- Nó đảm bảo yếu tố cơ bản cho đầu tư phát triển, phát triển theo chiều rộng và chiều sâu.
- Lao động trẻ có sức bật nhanh thuận lợi cho sự phát triển chuyên môn, có sức khỏe dồi dào
đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Thuận lợi phát triển hoạt động xuất khẩu lao động, một dạng đặc thù của kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên điều đó cũng đặt ra sự thách đố gay gắt đối với vấn đề giải quyết việc làm trong điều
kiện nước ta còn kém phát triển, vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, tạo việc làm còn hạn hẹp.
Tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật vẫn còn thấp kém phần lớn là lao động phổ
thông.
- Do nước ta đi lên từ xuất phát điểm rất thấp, đồng thời trãi qua các cuộc chiến tranh kéo dài,
đầu tư cho giáo dục đào tạo vẫn còn hạn hẹp do đó chất lượng nguồn nhân lực bị hạn chế do không
được đào tạo. Tỷ lệ lao động không qua đào tạo chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số lao động. Năm
2000 không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 72% cả nước. Trong đó ờ nông thôn chiếm 84%.
- Đặc điểm này của nguồn nhân lực VN có ảnh hưởng rất lớn không tốt đối với quá trình CNH-
HĐH và hội nhập quốc tế của nước ta. Nó tạo ra khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trong

khu vực và trên toàn thế giới> Lực lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, không làm chủ được các công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới, không cạnh tranh
được với thị trường lao động của khu vực và trên thế giới do đó nó sẽ kìm hãm sự phát triển của đất
nước.
- Cơ cấu nguồn nhân lực VN vẫn còn rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các nước phát
triển. Người lao động VN còn tập trung quá nhiều ở khu vực nông nghiệp, chiếm tới 62,56%.
Trong đó ở các nước phát triển thì tỷ lệ này là rất thấp.
Tỷ lệ ở các ngành công nghiệp và dịch vụ thì lại chiếm rất ít: 13,5% và 24,29%. Trong đó ở
Anh công nghiệp 30%, Nhật 34%.
Có tình trạng phân bố cơ cấu nguồn nhân lực như vậy là do kinh tế của ta chưa phát triển, nông
nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ mới đang bước đầu phát triển .
Trong những năm tới cơ cấu nguồn nhân lực sẽ có sự thay đổi tăng dần tỷ trọng lao động công
nghiệp và dịch vu, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá .
Muốn làm được điều đó thì chúng ta phải phát triển đồng bộ tất cả lĩnh vực kinh tế xã hội văn
hoá, ytế giáo dục Để đưa đất nước ta lên. Phân công lại lao động trong các thành phần kinh tế, ngành
kinh tế, vùng kinh tế để phát triển phù hợp với tình hình mới. Chính vì nguồn nhân lực là mục tiêu và
là động lực chủ yếu của sự phát triển, nên trong nghị quyết đại hội VIII đã nêu: nâng cao dân trí, phát
huy nguồn nhân lực to lớn của Việt Nam là nhân tố quyết định nền công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguồn nhân lực thể hiện rất rõ qua các chủ trương,
chính sách nhằm tác động đến nguồn nhân lực như kế hoạch hoá gia đình, xuất khẩu lao động, đào tạo
và đào tạo lại với chương trình ngắn hạn, dài hạn cho phù hợp và cân đối, cùng với tính cần cù chịu
khó, thông minh, sẽ tạo ra nguồn lực trong tương lai có đủ khả năng đáp ứng sự phát triển kinh tế xã
hội cho đất nước.
19
Câu 13: Phân tích và làm rõ nhận định: trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, dân số -
nguồn nhân lực có vai trò quan trọng vừa là mục tiêu vừa là động lực vừa là nhân tố quyết định
cho sự phát triển.
Nguồn nhân lực là mục tiệu tác động chính của sự phát triển.
Nói đến vai trò nguồn nhân lực là nói đến vai trò của con người trong sự phát triển. Con người

là trung tâm của mọi sự phát triển, mọi sự phát triển đều hướng vào mục tiêu duy nhất là phục vụ con
người .
Vai trò của con người được thể hiện ở hai mặt: Trước hết con người là người tiêu dùng đồng
thời con người cũng là chủ thể sản xuất ra các sản phẩm .
Sự tiêu dùng của con người là nguồn góc của sự phát triển, với nhu cầu ngày càng phát triển và
đòi hỏi đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng nâng cao, Sản xuất là để phục vụ tiêu dùng và tiêu
dùng là động lực thúc đẩy sản xuất .
Con người thông qua quá trình lao động sản xuất đã ngày càng đáp ứng hơn nhu cầu tiêu dùng
của mình, thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn,
chỉ có thông qua lao động sản xuất con người mới sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, lao động
của con người đóng vai trò quyết định.
Vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa :
- Nghị quyết Đại hội Đảng VIII khẳng định “ Nâng cao dân trí và phát huy nguồn nhân lực to
lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi CNHHĐH.”
- Việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất đã đem lại những bước tiến thần
kỳ cho sự phát triển kinh tế , thực tế đã chứng minh sự phát triển vượt bậc của những Quốc gai có
chiến lược về công nghệ đúng đắn. Tài nguyên tri thức là nguồn tài nguyên vô giá mà quốc gia nào sử
dụng được tài nguyên này thì quốc gia đó đã nắm được chìa khóa của sự phát triển .
- Những tri thức và công nghệ chính là sản phẩm sáng tạo của con người hay nói cách khác
chính là sản phẩm của nguồn nhân lực qua quá trình lao động, Con ngừơi chính là chủ thể của quá
trình CNHHĐH, việc thực hiện sự nghiệp CNHHĐH có thành công hay không là do chính sách sữ
dụng nguồn nhân lực có hiệu quả hay không, có làm phát huy mọi tiềm năng của con người để sáng
tạo và cống hiến cho đất nước hay không .
- Mọi sự phát triển phải lấy con người làm trung tâm là tác nhân và mục đích của sự phát triển .
Con người đi đến sự phát triển là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt về trình
độ khoa học kỹ thuật và bản sắc văn hoá tốt đẹp, phù hợp. Trong đó khâu cải tiến đột phá quan trọng
nhất là cải tiến giáo dục đào tạo.
20
Câu 14: Tại sao nói nguồn nhân lực và con người Việt Nam là lợi thế và là nguồn lực quan
trọng nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội.

* Nguồn nhân lực là mục tiệu tác động chính của sự phát triển.
- Nói đến vai trò nguồn nhân lực là nói đến vai trò của con người trong sự phát triển. Con
người là trung tâm của mọi sự phát triển, mọi sự phát triển đều hướng vào mục tiêu duy nhất là phục
vụ con người .
- Vai trò của con người được thể hiện ở hai mặt: Trước hết con người là người tiêu dùng đồng
thời con người cũng là chủ thể sản xuất ra các sản phẩm .
- Sự tiêu dùng của con người là nguồn góc của sự phát triển, với nhu cầu ngày càng phát triển
và đòi hỏi đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng nâng cao, Sản xuất là để phục vụ tiêu dùng và
tiêu dùng là động lực thúc đẩy sản xuất .
- Con người thông qua quá trình lao động sản xuất đã ngày càng đáp ứng hơn nhu cầu tiêu dùng
của mình, thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn,
chỉ có thông qua lao động sản xuất con người mới sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, lao động
của con người đóng vai trò quyết định.
* Nguồn nhân lực và con người Việt Nam là lợi thế đối với sự phát triển:
- VN là nước có dân số đông thứ hai Đông nam á và thứ 13 thế giới ở thập niên 90 nước ta có
35 triệu lao động đến đầu thế kỷ 21 là 40 triệu lao động. Do dân số tăng nhanh từ trước cho nên nguồn
nhân lực tiếp tục tăng với tốc độ cao. Hàng năm có từ 1 đến 1,2 triệu lao động gia tăng. Nguồn nhân
lực trẻ tăng nhanh là một lợi thế đối với sự phát triển của đất nước.
- Dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào tạo động lực để phát triển đất nước, phát triển kinh tế- xã
hội, thu hút được nhiều sự đầu tư của nước ngoài do giá nhân công ở nước ta tương đối rẻ so với các
nước khác trong khu vực, đồng thời nguồn nhân lực nước ta có sức khỏe, ham học hỏi, tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến rất nhanh của thế giới.
* Nguồn nhân lực Việt Nam đang ngày càng được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện tốt xu hướng xuất khẩu lao động, có trình độ khoa
học kỹ thuật, thu hút ngoại tệ.
- Đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các nhà tuyển dụng để có thể giải quyết tốt vấn đề
việc làm, hạn chế nạn thất nghiệp, nâng cao thu nhập cho người dân, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, người dân có điều kiện chăm lo, phát triển đời sống, hưởng các dịch vụ xã hội, giảm
bớt các tiêu cực do các tệ nạn xã hội gây ra.
- Tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế nước nhà.

- Người lao động sẽ chú rọng nâng cao trình độ tay nghề để có việc làm góp phần giảm bớt thời
gian đào tạo lại, giảm bớt chi phí không cần thiết của nhà nước để góp phần phát triển kinh tế quốc
dân.
* Người dân Việt Nam yêu dân tộc, cần cù, chịu khó, thông minh nhanh nhạy nắm bắt các kiến
thức khoa học, cách thức làm việc mới:
- Phát triển những ngành nghề đòi hỏi sự cần cù, khéo léo, chăm chỉ… tạo ra những mặt hàng
xuất khẩu, đáp ứng tiêu dùng và phát triển kinh tế xã hội.
- Tạo điều kiện phát triển các ngành kỹ thuật mới để phát triển kinh tế nước nhà, nâng cao thu
nhập và đời sống của nhân dân.
- Áp dụng nhanh, thành thạo cách thức làm việc mới, khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất,
nhằm rút ngắn thời gian sản xuất, tạo ra các ngành nghề mới, mặt hàng mới để phát triển kinh tế.
21
Câu 16: Phân tích vai trò của giáo dục, đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực nói chung,
nguồn nhân lực xã hội nói riêng, cần đổi mới chính sách giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam như thế nào?
Đảng và Nhà nước ta đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục
và đào tạo là nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra lớp người có trí
tuệ, sưc khoẻ và đạo đức trong sáng. Do đó Nhà nước cần phải đầu tư nhiều hơn nữa cho sự nghiệp
giáo dục của Quốc gai, cần tiến nhanh hơn nữa xã hội hoá giáo dục.
Trong những năm qua hệ thống đào tạo giáo dục nước ta phát triển tương đối mạnh mẽ có nhiều
loại hình trường lớp được më rộng, cơ cấu giáo dục cũng được thay đổi, chất lượng giáo dục ngày càng
nâng cao.
Xuất phát từ vai trò to lớn của Nhà nước đối với GDĐT, NN phải đảm bảo công bằng cho các
hoạt động GD, phát triển GD, đảm bảo chất lượng giáo dục; thông qua mục tiêu phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo từng bước nâng cao dân trí đào tạo NNL, bồi dưỡng nhân tài nhằm đào tạo ra lớp
người có trình độ, sức khỏe phẩm chất đạo đức tốt. Coi đầu tư cho GD là một hướng cơ bản đầu tư cho
phát triển, làm cho GD đi trước một bước, tạo điều kiện cho GD phát huy vai trò tác dụng của nó trong
sự phát triển XH. Cần ưu tiên đúng đắn cho GD tạo cho đội ngũ giáo viên an cư lạc nghiệp, từng cơ
quan, từng xí nghiệp phải có ý thức đầu tư, quan tâm đến GD. Bên cạnh đó, NN đã xác định được trách
nhiệm là phải tổ chức xã hội hóa đối với sự nghiệp GD và ĐT; khẳng định 1 cách rõ ràng GD là sự

nghiệp của toàn dân, huy động toàn xã hội làm GD, XHH GD, tạo cơ hội cho người dân tham gia giáo
dục đào tạo theo cơ chế hợp lý.
Trên nền tảng những định hướng trong chính sách GD ĐT nêu trên, CP hoạch định hàng loạt
các chính sách cụ thể về giáo dục ĐT như: Chính sách nhằm nâng cao dân trí, chính sách phổ cập giáo
dục, chính sách xóa mù chữ và chống tái mù chữ, chính sách giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, chính sách
cơ cấu đào tạo, chính sách ưu đãi đối với người làm công tác giáo dục và ĐT, chính sách thi tuyển vào
các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước.
Chúng ta đã phát triển nhiều loại hình đào tạo rất đa dạng cả công lập lẫn dân lập, bán công tư
thục , đây là những cơ sở đào tạo tay nghề chính cho nguồn nhân lực nước ta.
Chúng ta đã cơ bản xoá được nạn mù chữ, phổ cập giáo dục Tiểu học, đây là tiền đề quan trọng
để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ có chất lượng và tiếp thu nhanh được khoa học công nghệ tiên
tiến của khu vực và Thế giới. Các cấp bậc học, ngành học ngày càng được mỡ rộng, các trường Trung
học chuyên nghiệp, dạy nghề được phát triển rộng khắp, đây là cơ sở để đào tạo tay nghề trực tiếp cho
nguồn nhân lực nước ta .
Đội ngũ cán bộ giảng dạy ngày càng được nân cao về trình độ chuyên môn đây là đội ngũ rất
quan trọng để phát triển chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo
ngày càng được nâng cao đáp ứng ngày càng tốt hơn cho sự nghiệp giáo dục và nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực. Các chương trình giảng dạy ngày càng được cải tiến cho phù hợp với tình hình
mới, đây là điều kiện để nước ta hội nhâp với khu vực và trên thế giới
Liên hệ thực tế :
Tuy nhiên trong thực tiển hiện nay thì vấn đề giáo dục đào tạo còn có rất nhiều điều cần phải
bàn về chất lượng giáo dục, cơ sở vật chất, chính sách, ngân sách. Tuy chúng ta đã phát triển mỡ rộng
được các loại hình đào tạo, tuy nhiên chất lượng của các trường dân lập, bán công bổ túc vẫn còn rất
nhiều hạn chế Mặc dù các cấp học bậc học đã được mỡ rộng tuy nhiên hệ thống các trường Trung học
chuyên nghiệp, trung học dạy nghề vẫn còn thiếu rất nhiều, nguồn nhân lực chưa qua đào tạo. Chế độ
đào tạo giảng dạy đã rất củ mà chưa được đổi mới về giáo trình, bài giảng vẫn đến không tiếp cận
những chương trình giảng dạy của khu vực và thế giới .
Hướng giải quyết :
- Tiến hành xã hội hoá giáo dục nhanh hơn nữa trong thời gian tới, khuyến khích các thành phần
tham gia vào sự nghiệp giáo dục của Nhà nước, dưới sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, nguồn

nhân lực có thể đào tạo từ những hướng khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá .Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhiều hơn nữa và có trọng
điểm để có thể đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học của người dân. Tất cả mọi người đều có thể đi học.
22
- Tiến hành hơn nữa việc cải cách các chương trình giáo dục đào tạo.
23
Câu 17: Các hình thức phát triển nguồn nhân lực xã hội trong hệ thống các trường dạy
nghề? Liên hệ thực tiễn Việt Nam? Cần đổi mới các hình thức đó để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như thế nào?
* Các hình thức trường lớp dạy nghề:
+ Các trường, các trung tâm dạy nghề của Nhà nước (gọi chung là trường dạy nghề).
- Do Nhà nước đầu tư và quản lý (có 2 loại là do Chính phủ - trực tiếp là Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đầu tư và quản lý và loại trường do các Bộ, ngành Trung ương trực tiếp đầu tư
và quản lý)
- Trước đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung gần như độc quyền trong việc đào tạo công
nhân kỹ thuật. Trong cơ chế thị trường vẫn phát triển mạnh nhưng không còn độc quyền.
- Là hệ thống đào tạo chính quy, có trang bị tương đối đầy đủ, hiện đại, có đội ngũ cán bộ giảng
dạy có trình độ, kinh nghiệm; chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu.
- Nắm bắt nhanh đòi hỏi của các ngành nghề và công nghệ mới từ đó tạo lợi thế cao cho học
viên khi ra trường.
- Kinh phí đầu tư và đào tạo cao, không đáp ứng được số lượng lớn và nhu cầu của các ngành
nghề đa dạng trong xã hội.
+ Các trung tâm, trường, lớp dạy nghề tư nhân (gọi chung là trung tâm).
- Xuất hiện khi chuyển sang cơ cấu kinh tế thị trường.
- Đáp ứng nhanh chóng nhu cầu cao về số lượng và tính đa dạng của ngành nghề và tạo cơ hội
có việc làm cho đông đảo thanh niên độ tuổi lao động
- Do cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ giảng dạy còn chưa đồng đều, chưa đảm bảo và hoạt
động chủ yếu vì lợi nhuận nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo.
+ Các trường lớp dạy nghề cạnh doanh nghiệp.
- Tại các doanh nghiệp lớn thường tổ chức các trường dạy nghề tại chỗ nhằm đáp ứng trực tiếp

nhu cầu lao động cho doanh nghiệp và bổ túc nghề cho công nhân nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
- Đáp ứng nhanh chóng nhu cầu về số lượng và chủng loại nghề của công nhân cho doanh
nghiệp.
- Chất lượng lý thuyết và tay nghề không cao, hiệu quả đào tạo thấp vì quy mô đào tạo thường
nhỏ.
+ Các trường lớp dạy nghề thuộc các trung tâm giới thiệu việc làm (thường gọi là trung tâm giới
thiệu việc làm và dạy nghề).
- Ngoài việc giới thiệu việc làm còn tổ chức các lớp dạy nghề xã hội nhằm làm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các trung tâm, đáp ứng nhu cầu tức thời của lao động phổ thông.
- Thời gian đào tạo thường ngắn (từ 1 – 3 tháng), chủ yếu là đào tạo kỹ năng.
+ Kèm cặp tại nơi làm việc:
- Giao 1 thợ lành nghề kèm cặp 1 người mới.
- Được chỉ dẫn về lý thuyết lẫn thực hành, tuy nhiên lý thuyết thì tương đối ít, chủ yếu là quen
tay quen việc.
* Đổi mới:
+ Trường dạy nghề: chủ động xã hội hóa để mở rộng loại hình này nhằm gia tăng số lượng được
đào tạo đảm bảo chất lượng.
+ Trung tâm: quy định chặt chẽ về cơ sở vật chất, cán bộ giảng dạy, chuẩn đào tạo… để đảm
bảo chất lượng đào tạo của các trung tâm.
+ Các lớp dạy nghề cạnh doanh nghiệp: khuyến khích nhiều doanh nghiệp cùng tập trung mở 01
trường để tập trung nguồn lực và phát triển, tăng số lượng đào tạo.
+ Trung tâm giới thiệu việc làm và dạy nghề: Gia tăng đào tạo kỹ năng, tìm việc làm cho lao
động phổ thông. Từng bước chuẩn hóa loại hình này.
+ Kèm cặp tại nơi làm việc: Kết hợp kèm cặp tại nơi làm việc kết hợp với việc gởi đào tạo lý
thuyết tại một cơ sở khác.
24
Câu 18: Các hình thức phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên
nghiệp? Liên hệ thực tiễn Việt Nam? Cần đổi mới các hình thức đó để đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như thế nào?
* Các hình thức:

Là hệ thống đào tạo lực lượng lao động tinh túy nhất của xã hội, đội ngũ những người có trình
độ chuyên môn khoa học kỹ thuật có một vai trò quyết định đến sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hiện
nay được tổ chức theo quy định tại Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của chính phủ bao gồm:
+ Các trường trung học chuyên nghiệp (THCN) và trung học dạy nghề, gọi là trung tâm THCN:
Là hệ thống đào tạo ra các lực lượng lao động đảm nhiệm các công việc thực hành về khoa học,
kỹ thuật và nghiệp vụ, cầu nối giữa lực lượng công nhân kỹ thuật (trực tiếp sản xuất) và lực lượng lao
động có trình độ cao đẳng, kỹ thuật và sau đại học. Trong hệ thống công chức, họ được xếp vào ngạch
cán sự, còn trong doanh nghiệp họ còn được xếp vào các chức danh nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ.
Vì chức năng hoạt động của lực lượng lao động này là thừa hành các công việc khoa học, kỹ
thuật và nghiệp vụ (như căn ke bản vẽ, thu thập thông tin, tư liệu, thống kê viên, kế toán viên…) mà
lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao (cử nhân trở lên) giao cho họ thực hiện. Họ được đào
tạo nghiên nhiều về thực hành chứ không phải về lý thuyết. Vì lẽ đó, đối tượng tuyển chọn vào các
trường trung học chuyên nghiệp chủ yếu là nhắm vào các học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở
(9/12). Các kỹ năng thực hành được chú trong trong chương trình đào tạo loại lao động này.
+ Các trường cao đẳng và đại học.
Lực lượng lao động có trình độ cao đẳng và đại học thường giữ vai trò thiết kế, tổ chức, hướng
dẫn và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đất nước ta đang từng bước chuyển từ nền văn
minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp và văn minh trí tuệ (thông tin, xử lý thông tin).
Trong quá trình chuyển tiếp đó, đào tạo cao đẳng, đại học có một vai trò hết sức to lớn:
- Đào tạo ra một đội ngũ cán bộ chuyên môn, kỹ thuật và quản lý có trình độ cao.
- Phát triển những kiến thức mới thông qua nghiên cứu và đào tạo ở trình độ cao, đồng thời
chuyển giao, thích nghi và phổ biến những kiến thức mới.
- Tạo cơ sở cho các diễn đàn, các cuộc thảo luận rộng rãi những vấn đề phát triển và đổi mới đất
nước.
-Tạo ra những thay đổi về chất trong đời sống xã hội.
Những người lao động có trình độ cao đẳng, đại học được đào tạo kỹ lưỡng về tri thức khoa học
kỹ thuật và quản trị, thời gian đào tạo thường dài (4-6 năm). Họ không những am hiểu sâu sắc về lý
thuyết (là một cơ sở của sức sáng tạo) mà còn có khả năng hướng dẫn, tổ chức các hoạt động thực
tiễn).
+ Các cơ sở đào tạo sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ)

Các cơ sở đào tạo sau đại học tạo ra những nhà khoa học có học vị cao nhất trong xã hội, đội
quân kế cận của những nhà khoa học đầu ngành trong tương lai. Trình độ khoa học công nghệ của đất
nước ngày càng cao, đòi hỏi số lượng các nhà khoa học có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ ngày càng nhiều.
Họ không chỉ có trình độ am hiểu cao về lý luận, phương án luận mà còn có khả năng sáng tạo, tham
gia tích cực vào phát triển khoa học – công nghệ, hoạch định chính sách, tổ chức nghiên cứu khoa học.
Tại Việt Nam, từ thập niên 70 của thế kỷ XX trở về trước, việc đào tạo lực lượng lao động này
chủ yếu dựa vào các cơ sở đào tạo nước ngoài thông qua con đường tài trợ và hợp tác. Từ thập niên 80
của thế kỷ XX trở lại đây, phần đông lực lượng lao động có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ được đào tạo tại
các cơ sở đào tạo trong nước, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp phát triển nguồn
nhân lực nước ta.
* Đổi mới:
- Trung học chuyên nghiệp không thu hút nhiều học viên theo học lý do tâm lý thích làm thầy,
không thích làm thợ của người dân. Mặc khác khi ra trường hiệu quả làm việc thấp không được các tổ
chức, doanh nghiệp công và tư nhân ưa chuộng.
- Đại học: đầu vào khó, đầu ra dễ dẫn đến việc sinh viên không cố gắng. Chất lượng cơ sở vật
chất, trang thiết bị, giảng viên chưa đảm bảo do có nhiều trường đại học tư, chỉ tính lợi nhuận. Thường
thuần lý thuyết không có thực hành nên không làm việc hiệu quả khi ra trường.
25

×