Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

phân tích ma trận swot về ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn thương tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.23 KB, 29 trang )

I. Giới thiệu về sacombank
1. Quá trình phát triển
Chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 21/12/1991, ngân
hàng thương mại cổ phân Sài Gòn thương tín (Sacombank) xuất phát điểm là một
ngân hàng nhỏ, ra đời trong giai đoạn khó khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban
đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM.
Sau hơn 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân hàng
TMCP hàng đầu Việt Nam với 5.116 tỷ đồng vốn điều lệ, 6.927 tỷ đồng vốn tự
có; Gần 250 chi nhánh và phòng giao dịch tại 44/63 tỉnh thành trong cả nước, 01
VPĐD tại Trung Quốc và 01 Chi nhánh tại Lào; 10.644 đại lý thuộc 278 ngân hàng
tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng
động và sáng tạo và hơn 60.000 cổ đông đại chúng;
Trong 17 năm hoạt động, Sacombank đã nhận được rất nhiều các bằng khen
và giải thưởng có uy tín. Điển hình như: "Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam
2008” do Asian Banking & Finance bình chọn; “Ngân hàng nội địa tốt nhất
Việt Nam 2008” do The Asset bình chọn; “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008”
do Global Finance bình chọn; “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Finance
Asia bình chọn; “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007” do Euromoney bình chọn;
“Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2007” do Asian Banking and Finance
bình chọn; “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam về cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
2007” do Cộng đồng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Châu Âu (SMEDF) bình
chọn; “Ngân hàng có hoạt động ngoại hối tốt nhất Việt Nam năm 2007” do
Global Finance bình chọn; ngoài ra Sacombank còn được đánh giá và xếp loại A
(loại cao nhất) trong bảng xếp loại của Ngân hàng Nhà nước cho năm 2006 và xếp
thứ 04 trong ngành tài chính ngân hàng tại Việt Nam do chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc UNDP đánh giá cho năm 2007; Ngân hàng còn nhận được các
bằng khen khác như: Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ về những thành tích dẫn
đầu phong trào thi đua ngành ngân hàng trong năm 2007; Bằng khen của Thủ tướng
chính phủ dành cho các hoạt động từ thiện trong suốt các năm qua; Bằng khen của
1
Thủ tướng Chính phủ năm 2008 vì có những đóng góp tích cực vào các hoạt động


kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế….
Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử
hình thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính
Sacombank. Hiện nay tập đoàn tài chính Sacombank có sự góp mặt của các thành
viên: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), đóng vai
trò hạt nhân điều phối hoạt động của Tập đoàn và các thành viên trực thuộc: Công
ty Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank-SBS); Công ty Cho
thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank-SBL); Công ty Kiều
hối Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank-SBR); Công ty Quản lý nợ và
khai thác tài sản Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank-SBA); Công ty
Vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank-SBJ); Và các thành
viên hợp tác chiến lươc: Công ty cổ phần Đầu tư Sài Gòn Thương Tín (STI); Công
ty cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal); Công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu Tân Định (Tadimex); Công ty cổ phần Đầu tư - Kiến trúc - Xây dựng Toàn
Thịnh Phát; Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư Việt Nam (VFM).
Ngoài ra Sacombank có 03 đối tác chiến lược nước ngoài uy tín đang nắm gần
30% vốn cổ phần: Dragon Financial Holdings thuộc Anh Quốc, góp vốn năm
2001; International Financial Company (IFC) trực thuộc World Bank, góp vốn
năm 2002; và Tập đoàn Ngân hàng Australia và Newzealand (ANZ), góp vốn năm
2005.
Sacombank hợp tác hiệu quả với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước như
Hoàng Anh Gia Lai, Hữu Liên Á Châu, Trường Hải Auto, COMECO, Trường Phú,
ISUZU Việt Nam, Prudential Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, EVN,
SJC, Bảo Minh, Habubank, Military Bank, Baruch Education Group Ltd BVI
(BEG) – đại diện của City University of New York (CUNY)
2
2. Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Thương Tín
Sacombank đã và đang cung cấp rất nhiều các loại sản phẩm, dịch vụ phong
phú nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng.

• Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm,
tiền gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi.
• Tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước; cho vay ngắn, trung và dài hạn; chiết khấu thương phiếu, công trái và
các giấy tờ có giá;
• Đầu tư vào các tổ chức kinh tế;
• Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
• Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc;thanh toán quốc tế, đầu tư chứng khoán;
• Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, các dịch vụ về quản lý nợ và khai thác tài
sản,cung cấp các dịch vụ Ngân hàng khác.
II. Sử dụng mô hình swot phân tích sacombank
1. Điểm mạnh (S)
1.1. Sacombank được xem là một trong những ngân hàng có quy mô vốn tự
có lớn, uy tín hàng đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam và được
phát huy trong nhiều năm qua.
Đến cuối năm 2008, tổng tài sản của Sacombank đạt 68.439 tỷ đồng, tăng 6%,
trong đó nguồn vốn huy động đạt 59.343 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm và quản
lý thanh khoản luôn nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ. Đồng thời, ngân hàng tăng
vốn điều lệ lên 5.116 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu là 7.759 tỷ đồng bằng hình thức
phát hành cổ phiếu trả cổ tức. Sacombank trở thành một trong những ngân hàng
thương mại cổ phần có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam.Ngoài ra, Sacombank thực
hiện mua cổ phiếu quỹ để hỗ trợ thị trường theo chủ trương của chính phủ, đến cuối
năm đạt 352 tỷ đồng.
Tổng dư nợ cho vay đạt 35009 tỷ đồng, giảm nhẹ so với đầu năm bởi nhiều
nguyên nhân. Về khách quan, do tình hình kinh tế khủng hoảng, doanh nghiệp gặp
3
khó khăn trong SXKD và lãi suất cho vay thị trường khá cao đã làm giảm đáng kể
nhu cầu tín dụng. Về chủ quan, nhằm nâng cao khả năng thanh khoản cho Ngân
hàng trong bối cảnh huy động với lãi suất khá cao, Sacombank lựa chọn giải pháp
chủ động kéo giảm dư nợ với việc điều hành linh hoạt và cân nhắc trên nhiều khía

cạnh, vừa giải quyết bài toán hiệu quả, vừa giữ vững hệ khách hàng truyền thống và
giảm quy mô về tín dụng nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng trong bối cảnh
hoạt động SXKD đình trệ, thu nhập của người lao động giảm sút và tình trạng thất
nghiệp đang gia tăng.
Trong điều kiện kinh tế khủng hoảng, doanh nghiệp gặp khó khăn nhưng
Ngân hàng vẫn kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn và nợ xấu. Tỷ lệ nợ quá hạn duy trì
0,966% tổng dư nợ.Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của Ngân hàng
đạt 31,48%, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là 12,16%.
Theo nhận xét của công ty cổ phần chứng khoán Tp.HCM, Sacombank là
ngân hàng được đánh giá tốt trong hệ thống ngân hàng nói chung của Việt Nam và
hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng. Sacombank là một trong hai
ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam được tổ chức định mức tín nhiệm Fitch
Ratings xếp hạng mức D năm 2004, mức cao nhất trong hệ thống ngân hàng này ở
Việt Nam. Năm 2007 Sacombank vinh dự là một trong số các ngân hàng TMCP
được đánh giá & xếp loại A (loại cao nhất) trong bảng xếp loại của ngân hàng nhà
nước năm 2006 đối với các ngân hàng TMCP. Đồng thời, theo kết quả nghiên cứu
của chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP được thực hiện từ đầu năm
2006 vừa được công bố vào ngày 1/10/2007, Sacombank được xếp hạng 26 trong
tổng số 200 công ty lớn nhất tại Việt Nam; xét trên các khía cạnh: nguồn lao động,
tài sản, doanh thu và mức thuế nộp cho nhà nước.
Đối với kế hoạch kinh doanh- tài chính năm 2009, Đại hội đồng cổ đông
thường niên họp ngày 16/3 vừa qua đã thông qua các chỉ tiêu chủ yếu: vốn điều lệ
tính đến cuối 2009 dự kiến là 6700 tỷ đồng (tăng 31% trên vốn điều lệ hiện hữu),
tổng nguồn vốn huy động đạt trên 83000 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay không dưới
50000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt khoảng 95500 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn tối đa 2,5%/
tổng dư nợ cho vay…
4
1.2. Thương hiệu Sacombank đã lan rộng khắp thị trường trong nước đồng
thời đã và đang vươn ra thị trường quốc tế.
Ngày 13/10/2008 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chính

thức nhận giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Global Finance
bình chọn. Giải thưởng dựa trên đánh giá hoạt động của Sacombank trong năm
2007 và nửa đầu năm 2008 theo các tiêu chí: Khả năng tăng trưởng bền vững và ổn
định, giá trị thương hiệu, tầm nhìn chiến lược, năng lực quản lý rủi ro, tiềm năng
phát triển trong tương lai, tính bền vững của nguồn thu, năng lực bán hàng, khả
năng sáng tạo sản phẩm, khả năng thâm nhập thị trường và chính sách đầu tư vào
nguồn nhân lực. Sau Finance Asia, Global Finance là tổ chức quốc tế thứ 2 bình
chọn Sacombank là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” trong năm 2008. Cũng trong
năm 2008, Global Finance còn trao tặng giải thưởng “Ngân hàng có hoạt động
ngoại hối tốt nhất Việt Nam 2007” cho Sacombank.
Cùng với những giải thưởng quốc tế khác Sacombank đã vinh dự nhận được
từ các tổ chức uy tín trên thế giới, giải thưởng “Best Bank in Vietnam 2008” của
Global Finance một lần nữa đã khẳng định khả năng phát triển bền vững và vị thế
của Sacombank tại thị trường tài chính Việt Nam và trong khu vực.
Năm 2008, trước tình trạng một số định chế tài chính quốc tế sụp đổ liên tiếp
hoặc nhận cứu trợ khẩn cấp của chính phủ, đối diện trước thách thức khó khăn
khách quan và những hạn chế bất cập nội tại vốn có của hệ thống NHTM trong
nước, cùng với nhận thức Sacombank là một đơn vị niêm yết có quy mô về năng
lực tài chính, uy tín, thương hiệu và tinh thần thượng tôn pháp luật, ngân hàng luôn
thể hiện trách nhiệm cùng với chính phủ và NHNN thực hiện các chính sách bình
ổn kinh tế vĩ mô, đồng thời thấu cảm các kỳ vọng của nhà đầu tư và chia sẻ khó
khăn với hệ thống khách hàng truyền thống. Đứng trước thách thức về thanh khoản
và giữ vững hệ khách hàng, các khối nghiệp vụ đã linh hoạt tham mưu, ban hành đa
dạng các sản phẩm dịch vụ, phát huy uy tín thương hiệu Sacombank trong việc tiếp
thị các định chế tài chính trong và nước ngoài để tăng cường nguồn vốn huy động,
giải quyết các cam kết tài trợ cho khách hàng, tổ chức nối tiếp các chương trình
khuyến mại “Cơn lốc quà tặng”, “ Tháng tri ân khách hàng”…tổ chức đánh giá
thăm dò mức độ hài lòng của khách hàng. Với nhận thức sức mạnh cạnh tranh nằm
5
ngay trong quy định, quy trình nghiệp vụ, sự nhanh nhạy, tinh thông nghiệp vụ và

hỗ trợ kịp thời cho các đơn vị bán hàng; do đó, thời gian tới Ngân hàng sẽ tập trung
chấn chỉnh các Khối/Phòng nghiệp vụ tại Hội sở để nâng cao năng lực cạnh tranh
và tăng cường giám sát, quản lý tập trung các lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Chiến lược phát triển mạng lưới của Sacombank đã và đang thực hiện thành
công với hệ thống mạng lưới bắt đầu phát huy hiệu quả, nhanh chóng tận dụng cơ
hội để chiếm lĩnh thị phần, mở rộng thị trường tạo ra lợi thế cạnh tranh trong tương
lai. Sự xuất hiện của Văn phòng đại diện tại Trung Quốc, Chi nhánh tại Lào và sắp
tới là Chi nhánh tại Campuchia nhằm khai thác triệt để tiềm năng thị trường còn bỏ
ngỏ và nâng cao uy tín thương hiệu Sacombank trong Khu vực. Sau một thời gian
dài tích cực mở rộng mạng lưới, đã đến lúc ngân hàng phải đánh giá toàn diện công
tác này bao gồm đánh giá lại hiệu quả hoạt động từng điểm giao dịch, khả năng
triển khai đa dạng các sản phẩm dịch vụ; định biên nhân sự và năng suất lao động;
hiệu quả sử dụng mặt bằng trụ sở làm việc và tài sản được trang bị; hình ảnh,
thương hiệu Sacombank và công tác quản lý rủi ro, công tác tự kiểm tra chấn chỉnh
nội bộ để từ đó có chính sách hỗ trợ cho từng điểm giao dịch, xem đây là nhiệm vụ
quan trọng trong năm tới.
Hoạt động quảng bá thương hiệu của Ngân hàng ngày càng chuyên nghiệp,
hiệu quả và tiết kiệm chi phí cho Ngân hàng. Trong năm, đã thực hiện nhiều loại
hình quảng bá trên các kênh truyền thông cấp quốc gia, báo chí, Bản tin Nhà đầu
tư, Bản tin nội bộ, trang Web, các chương trình hội nghị, hội thảo chuyên đề, các
chương trình sự kiện, hoạt động khai trương điểm giao dịch, chương trình khuyến
mãi… để giới thiệu hình ảnh của Sacombank đến với công chúng. Ngoài ra, Phòng
Đối ngoại luôn tăng cường mối quan hệ với các cơ quan Chính quyền địa phương,
NHNN, cơ quan truyền thông, tổ chức quốc tế… nhằm hậu thuẫn và hỗ trợ trong
việc phòng chống khủng hoảng thông tin, đem lại giá trị thiết thực trong hoạt động
truyền thông của Ngân hàng. Kết quả là trong năm 2008, Ngân hàng đã nhận được
11 giải thưởng lớn có giá trị gồm 05 giải thưởng trong nước và 06 giải thưởng quốc
tế, tăng gấp hai lần số giải thưởng trong năm 2007. Điều này chứng tỏ thương hiệu
và uy tín của Sacombank ngày càng được khẳng định trong nước, khu vực cũng
như quốc tế. Sacombank vinh dự nhận 03 giải thưởng “Ngân hàng có hoạt động

6
thanh toán quốc tế tốt nhất năm 2008” do Standard Chartered Bank, Wachovia
Bank và The Bank of New York Mellon trao tặng. Tính chuyên nghiệp trong hoạt
động thanh toán quốc tế của Sacombank được đánh giá qua tỷ lệ thành công của
các giao dịch trên 95%, định dạng chuẩn và xử lý tự động, không qua chỉnh sửa
bằng tay.
1.3. Sacombank có hệ thống mạng lưới bán lẻ phủ đều khắp các tỉnh,
thành phố trong cả nước.
Đến nay, Sacombank tiếp tục là ngân hàng TMCP có hệ thống mạng lưới hoạt
động lớn nhất Việt Nam với gần 250 chi nhánh và phòng giao dịch với gần 6000
nhân viên tại 44/63 tỉnh thành trong cả nước, 1 văn phòng đại diện tại Trung Quốc
và 1 chi nhánh tại Lào. Có 10644 đại lý thuộc 278 ngân hàng tại 80 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2009, Sacombank đã lên kế hoạch mở thêm
khoảng 50 Chi nhánh và Phòng giao dịch; trong đó, Chi nhánh Campuchia dự kiến
khai trương vào tháng 6. Ngày 23/02/2009 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) chính thức khai trương hoạt động Chi nhánh Nghệ An. Chi nhánh
Nghệ An là đơn vị mở đầu cho chiến lược mở rộng mạng lưới của Sacombank
trong năm 2009. Có thể nói, với mục tiêu đem lại những tiện ích ngân hàng tốt nhất
đến tận tay người dân, Sacombank không những coi trọng, nâng cao chất lượng các
loại sản phẩm, dịch vụ mà còn chú trọng đến việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
hiện đại, khang trang để minh chứng cho việc cam kết phục vụ lâu dài của ngân
hàng đối với tất cả các khách hàng của mình. Đồng thời, Ngân hàng cũng đang tập
trung cho kế hoạch triển khai dự án Contact Center nhằm phục vụ cho các đối
tượng khách hàng cá nhân về tiền gửi, tiền vay và các dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Phấn đấu đến cuối năm 2010, mạng lưới chi nhánh của Sacombank sẽ có mặt
tại tất cả các tỉnh, thành miền Nam, miền Trung và tại tất cả các tỉnh thành kinh tế
trọng điểm miền Bắc. Dự kiến mạng lưới hoạt động của Sacombank vào năm 2010
sẽ đạt trên 320 điểm.
1.4. Sacombank xây dựng được một đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực và
nhiều tâm huyết để thực hiện các mục tiêu kinh doanh và định hướng phát triển

trong thời gian tới của Ngân hàng.
7
Sacombank hiện thu hút đội ngũ nhân sự có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại
học, trên đại học 4.601 người, chiếm 77% tổng nhân sự. Cơ cấu nhân sự khá trẻ,
dưới 30 tuổi là 4.085 người, chiếm 68% tổng nhân sự. Nhằm củng cố và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhân sự, Sacombank đã từng bước thiết lập hệ thống kiểm tra
kiến thức nghiệp vụ định kỳ đối với các Nhân viên nghiệp vụ tại Chi nhánh/Sở
Giao dịch để làm cơ sở cho công tác đào tạo và quy hoạch đội ngũ nhân sự tiềm
năng. Đồng thời, Trung tâm đào tạo của Sacombank đã tổ chức liên tục các khóa
đào tạo chuyên môn cũng như các khóa đào tạo kỹ năng được thiết kế chuyên biệt,
phù hợp đối với từng cấp độ CBNV. Bên cạnh những hoạt động này, CBNV tại Chi
nhánh/Sở Giao dịch còn được định hướng phát triển sự nghiệp bằng những sơ đồ
thăng tiến dành cho từng chức danh. Thông qua các chương trình này, CBNV có cơ
hội để xác định mục tiêu nghề nghiệp một cách rõ ràng, từ đó hoạch định con
đường phát triển sự nghiệp cũng như cơ hội thăng tiến cho bản thân. Năm 2008 là
một năm đầy biến động và khó khăn của nền kinh tế thế giới nói chung và ngành tài
chính ngân hàng nói riêng. Trong khi một số ngân hàng trong và ngoài nước điều
chỉnh giảm lương, cắt giảm nhân sự, Sacombank vẫn đảm bảo việc làm và thu nhập
của đội ngũ Cán bộ nhân viên (CBNV) thông qua việc điều chỉnh tăng lương đồng
loạt từ 10% - 40% vào đầu năm 2008 và bố trí công việc phù hợp cho CBNV trong
suốt thời gian khó khăn của năm qua.
1.5. Ngân hàng tiếp tục xây dựng nhiều mối quan hệ với khách hàng ngày
càng vững chắc, thiết lập mối quan hệ liên kết với nhiều đối tác chiến lược trong
và ngoài nước.
Giữ gìn và nâng cao sự hài lòng của khách hàng là mục tiêu hàng đầu cần
được duy trì nhằm hướng đến việc phát triển hệ khách hàng ổn định vốn được xem
là nền tảng vững chắc để Sacombank trở thành sự lựa chọn hàng đầu của khách
hàng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khách hàng hiện hữu được đánh giá là tài
sản vô hình quý giá nhất mà Sacombank xây dựng được trong suốt quãng thời gian
từ lúc thành lập cho đến nay; vì thế việc triển khai dự án “Lắng nghe khách hàng”

trong năm 2008 vừa qua đã góp phần đánh giá chính xác hơn những khía cạnh hoạt
8
động của Ngân hàng. Đây cũng là cơ hội quý giá nhằm nâng cao trách nhiệm và kỹ
năng chăm sóc khách hàng của mỗi Cán bộ nhân viên (CBNV) nhằm từng bước
đưa Sacombank hoàn thành những định hướng hoạt động chiến lược trong tương
lai.Và kết quả nhận được là mức độ hài lòng của khách hàng đối với Sacombank
đạt 151.944 điểm (chiếm 86,83%) trên tổng điểm tối đa 174.995. Trên tổng toàn
Ngân hàng, với độ tin cậy 99%, mức độ hài lòng của khách hàng nằm trong khoảng
giá trị [4.3327,4.3500] = 4.3414 ± 0.0087. Sacombank được khách hàng đánh giá
tốt về (1) Thái độ phục vụ của Nhân viên, (2) Trình độ và kỹ năng của Nhân viên
giao dịch, (3) Điều kiện cơ sở vật chất của một Chi nhánh bởi Sacombank đã (1)
Luôn duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp trong thái độ phục vụ khách hàng mà
Ngân hàng đã xây dựng được, (2) Không ngừng đẩy mạnh công tác đào tạo và nâng
cao kỹ năng bán hàng của Nhân viên giao dịch, (3) Tiếp tục đẩy mạnh công tác mở
rộng mạng lưới, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết kế không gian giao dịch nhằm tạo lập
một hình ảnh Sacombank chuyên nghiệp, hiện đại, gần gũi trên cơ sở đảm bảo sự
hài lòng của khách hàng ở mức cao nhất. Kết quả khảo sát cho Sacombank một cái
nhìn khách quan và chính xác hơn thông qua sự đánh giá của khách hàng hiện hữu.
Sự hài lòng của khách hàng là một tín hiệu khả quan, đồng thời cũng là một thách
thức lớn khi đặt nó vào định hướng chiến lược phát triển của Ngân hàng.bank có 03
đối tác chiến lược nước ngoài uy tín đang nắm gần 30% vốn cổ phần: Dragon
Financial Holdings thuộc Anh Quốc, góp vốn năm 2001; International Financial
Company (IFC) trực thuộc World Bank, góp vốn năm 2002; và Tập đoàn Ngân
hàng Australia và Newzealand (ANZ), góp vốn năm 2005. Ngoài ra Sacombank
còn hợp tác hiệu quả với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước như Hoàng Anh
Gia Lai, Hữu Liên Á Châu, Trường Hải Auto, COMECO, Trường Phú, ISUZU
Việt Nam, Prudential Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, EVN, SJC, Bảo
Minh, Habubank, Military Bank, Baruch Education Group Ltd BVI (BEG) – đại
diện của City University of New York (CUNY)
2. Điểm yếu(W)

Kinh tế trong nước còn khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, mà chịu ảnh hưởng nặng nề nhất có thể là lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư nước
9
ngoài, dịch vụ du lịch và đặc biệt là ngành tài chính - ngân hàng Là một ngân
hàng lớn tuy nhiên Sacombank không tránh khỏi những yếu điểm nhất định.
2.1. Tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng tài sản.
Trước đây các ngân hàng đều chú trọng vào mảng kinh doanh chính là cho
vay với tỷ lệ dư nợ thường chiếm trên 50% tổng tài sản. Tuy nhiên, suy thoái kinh
tế làm gia tăng các rủi ro tín dụng đã buộc các ngân hàng thay đổi cơ cấu bảng cân
đối tài sản. Tỷ lệ dư nợ đã giảm tương đối, dư nợ của Sacombank cũng chỉ chiếm
50% tổng tài sản thay vì 55% như năm 2007, tương đương 33.677 tỉ đồng. Như
vậy, mặc dù tỷ trọng tín dụng có giảm nhưng vẫn chiếm đến 50% trong cơ cấu tổng
tài sản của Sacombank. Năm 2008 vừa qua Sacombank có tổng dư nợ cho vay
không dưới 50.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn tối đa 2,5%/tổng dư nợ cho vay. Với
tỷ lệ nợ xấu cao như vậy cũng buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều
hơn.
2.2. Thị phần chưa thực sự rộng lớn.
Trong khối ngân hàng thương mại cổ phần, Sacombank là một trong hai ngân
hàng có thị phần hàng đầu trong cả huy động vốn và cho vay (Sacombank đứng thứ
2 sau ACB). Tuy nhiên, nếu so với toàn ngành ngân hàng thì tỷ lệ này vẫn còn ở
mức khiêm tốn vì thực tế, phần lớn thị trường ngân hàng hiện nay ở Việt Nam vẫn
nằm trong tay các Ngân hàng thương mại Nhà nước.
2.3. Quản trị rủi ro.
Hiện Sacombank là ngân hàng thương mại cổ phần có hệ thống mạng lưới
hoạt động lớn nhất Việt Nam, với gần 250 điểm giao dịch tại 45/63 tỉnh thành tuy
nhiên Sacombank cũng chung tình trạng với các ngân hàng Việt Nam là quản trị
các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh khá yếu kém. Điều này là một nguy cơ
không nhỏ ảnh hưởng đến quy mô vốn. của ngân hàng. Mặc dù so với các ngân
hàng trong nước, Sacombank có quy mô vốn tương đối lớn nhưng nếu so với các
ngân hàng nước ngoài thì còn quá nhỏ bé là là một trong những điểm yếu khi phải

cạnh tranh trong tiếp trình hội nhập kinh tế của Việt Nam
10
Ngoài ra có thể kể đến các hạn chế khác như : Nguồn lực Công nghệ thông tin
của Ngân hàng thiếu cả về nhân lực và máy móc thiết bị, hiểu biết về thị trường tài
chính trên thế giới còn nhiều hạn chế; cơ cấu thu nhập chưa thực sư đa dạng, dễ bị
ảnh hưởng bới những biến động lãi suất và trên thị trường tín dụng.
3. Thời cơ (O)
3.1. Đại bộ phận dân cư chưa tiếp xúc nhiều với các hoạt động cũng như
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa tiếp cận
một cách đầy đủ với nguồn vốn của ngân hàng.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế mới bước vào thời hội
nhập, người dân mới bắt tay vào công cuộc đổi mới kinh tế không lâu. Mặc dù phát
triển mạnh trong những năm gần đây, lĩnh vực ngân hàng bán lẻ của Việt Nam vẫn
còn nhỏ bé. Tài sản của các ngân hàng tính đến thời điểm năm 2006 mới chỉ đạt
khoảng 75 tỷ USD (tương đương 123% GDP), trong khi con số này ở Thái Lan là
226 tỷ USD (110%) và ở Malaysia là 302 tỷ USD (195%).
Ông Tạ Quang Tiến - Cục trưởng Cục Công nghệ tin học NHNN VN cho
biết: “Hiện còn đến 75% dân số chưa được tiếp cận với các dịch vụ NH, 25% còn
lại chưa chắc được tiếp cận hoàn toàn các dịch vụ.Thực tế này chính là mảnh đất
màu mỡ còn đầy tiềm năng cho thị trường ngân hàng bán lẻ phát triển.
Mật độ phục vụ của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam còn rất thấp so với các
nước trong khu vực. Hiện nay mật độ sử dụng hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
trung bình chỉ đạt 5-6%, ở một số đô thị mật độ này cao hơn, khoảng 22%. Trong
khi đó, mật độ này ở Thái Lan hay Malaysia là 70-80%. Điều này cho thấy cơ hội
của thị trường của ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam là rất lớn.
Dự đoán trong vòng 10 năm tới, tốc độ tăng trưởng của ngân hàng bán lẻ sẽ là
30-40% và sẽ đạt mật độ sử dụng dịch vụ ngân hàng của người dân sẽ ngang bằng
với Thái Lan hay Malaysia. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng có những chủ
trương khuyến khích ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, kể cả ngân hàng
nước ngoài, tham gia sâu hơn vào hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.

3.2. Nhu cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng gia tăng, các sản phẩm dịch
vụ của ngân hàng ngày càng được nhiều người dân quan tâm.
11
Theo một nghiên cứu gần đây của công ty dịch vụ nghiên cứu toàn cầu
McKinsey, nghiên cứu về thị trường ngân hàng bán lẻ được thực hiện tại 11 quốc
gia và vùng lãnh thổ ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Thái Lan,
Philippines, Malaysia… với 13.000 khách hàng, thì Việt Nam được đánh giá là rất
có tiềm năng phát triển trong thời gian tới. Doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ
ở Việt Nam có thể tăng trưởng trên 25% hàng năm trong vòng 5 - 10 năm tới, đưa
Việt Nam trở thành một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ tăng
trưởng cao nhất ở châu Á. Đây là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, thu
nhập của các hộ gia đình tăng lên và mức độ thâm nhập hiện còn thấp của các dịch
vụ ngân hàng.
Cuộc thăm dò của McKinsey cho thấy, hiện có trên 70% các hộ gia đình ở
thành thị Việt Nam có mức thu nhập bình quân hàng năm trên 57 triệu đồng. Thu
nhập tăng là một nhân tố quan trọng trong việc khiến người dân quan tâm nhiều
hơn tới các dịch vụ ngân hàng. người dân đã chuyển dần thói quen dùng tiền mặt
sang chuyển khoản ngân hàng. Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương
tiện thanh toán giảm từ 18% (cuối năm 2007), xuống còn 14% (cuối 2008). Hệ
thống thanh toán điện tử liên ngân hàng có sự tham gia của 443 đơn vị, thuộc 83
ngân hàng thành viên, với lượng giao dịch trung bình 35.000-45.000 món/ngày,
vốn luân chuyển khoảng 35.000 tỷ đồng/ngày.
Mặt khác, Việt Nam là một đất nước có dân số trẻ. So với các thế hệ đi trước,
những người trẻ ở Việt Nam có thái độ cởi mở hơn rất nhiều đối với các dịch vụ
ngân hàng nói chung và các dịch vụ ngân hàng hiện đại nói riêng. Khoảng cách thế
hệ này ở Việt Nam là lớn hơn ở bất kỳ một thị trường nào khác được điều tra.
những người Việt Nam trong độ tuổi từ 21 - 29 sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong việc định hình thị trường ngân hàng bán lẻ.
Thứ nhất: Những người trẻ tuổi ở Việt Nam sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng
hơn những người trung niên và cao niên. Điều tra cho thấy, những khách hàng có

độ tuổi 21 - 29 sử dụng 2,3 dịch vụ ngân hàng mỗi người, trong khi đối tượng
khách hàng lớn tuổi hơn chỉ sử dụng 1,9 dịch vụ. Có 91% số người trong nhóm tuổi
này có tài khoản tiết kiệm, so với mức 55% ở nhóm người ở tuổi 30 trở lên. 89%
12
trong số khách hàng trẻ này có thẻ ghi nợ, so với tỷ lệ 40% trong đối tượng tuổi già
hơn.
Thứ hai, những người trẻ tuổi ở Việt Nam cũng hăng hái hơn với những dịch
vụ ngân hàng từ xa, chẳng hạn ngân hàng qua điện thoại di động hoặc Internet, nếu
các ngân hàng đảm bảo được vấn đề an ninh.
Thứ ba, những người trẻ tuổi ở Việt Nam cũng tỏ ra thích thú hơn với việc
vay tiền ngân hàng so với thế hệ đi trước. 45% trong số được hỏi cho rằng, việc
vay tiền có thể giúp họ cải thiện phong cách sống, so với 31% số người ở độ tuổi
già hơn. Họ cũng ít cho rằng, vay ngân hàng là nguy hiểm hoặc thiếu khôn ngoan,
hơn so với những người già. Khoảng cách thế hệ trong vấn đề vay tiền ngân hàng ở
Việt Nam cũng nổi bật hơn tại bất kỳ quốc gia nào khác được điều tra, bao gồm cả
Trung Quốc và Ấn Độ.
Thứ tư, thế hệ trẻ ở Việt Nam cũng cởi mở hơn với các ngân hàng nước ngoài.
60% người Việt Nam được hỏi cho rằng, việc các ngân hàng nước ngoài tới Việt
Nam sẽ có lợi cho họ, trong đó tỷ lệ người trẻ là 73%.
Điều này cho thấy, cơ hội cho các ngân hàng ngoại ở Việt Nam là lớn hơn ở
các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ở Đài Loan, tỷ lệ này chỉ là 22%, còn ở
Phillipines là 54%.
Tuy nhiên, những người Việt Nam được điều tra cũng cho thấy, họ vẫn đề cao
vai trò của các ngân hàng trong nước. Như vậy, người Việt Nam sẵn sàng sử dụng
dịch vụ của bất kỳ ngân hàng nào, dù là trong nước hay ngoài nước, miễn là ngân
hàng đó đêm đến sản phẩm và dịch vụ tốt nhất cho họ.
Và thứ năm, ở Việt Nam còn có sự khác biệt vùng miền trong quan điểm đối
với ngân hàng. Người miền Nam có quan điểm cởi mở hơn so với người miền Bắc,
với 42% số người được hỏi cho biết họ sẽ thử sử dụng dịch vụ ngân hàng qua điện
thoại, so với mức 24% ở Hà Nội. 39% số người được hỏi ở Tp.HCM cho rằng, vay

tiền để mua sắm một thứ gì đó là thiếu khôn ngoan, so với mức 46% ở Hà Nội.
Điều này cho thấy người dân Việt Nam ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt với kết cấu dân số trẻ, thanh niên Việt Nam
có xu hướng sử dụng các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng cao, đi kèm theo
là mức độ quan tâm tới các dịch vụ này cũng cao hơn. Đây thực sự là một cơ hội
13
cho các ngân hàng bán lẻ tìm kiếm những khách hàng tiềm năng, mở rộng quy mô
hoạt hoạt động, phát triển đa dạng hơn các sản phẩm dịch vụ của mình.
3.3. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện hợp tác sâu rộng với các tổ chức và
định chế tài chính quốc tế, nâng cao kỹ năng quản trị, tranh thủ nguồn vốn liên
doanh liên kết để đầu tư kinh doanh và phát triển.
Hội nhập kinh quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ
thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực
ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản
pháp luật trong hệ thống. Hội nhập kinh tế quốc tế còn mở ra cơ hội trao đổi, hợp
tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp và
phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam
trong các giao dịch quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh
thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi
thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường
ra nước ngoài.
Hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn hoá các
nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng
nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các ngân hàng
thương mại Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản
trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất
lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng vàphát
triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở
Việt Nam. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam
cũng sẽ là một cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng kinh doanh. Các NHTM Việt

Nam sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách hàng hơn trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu.
3.4. Uy tín và thương hiệu của Sacombank đã phát triển mạnh mẽ tại thị
trường trong nước và quốc tế.
14
Liên tục trong nhiều năm Sacombank đã đạt được những thành tích đáng kể,
nhận được nhiều giải thưởng từ các tổ chức uy tín trên thế giới. Có thể kể ra vài
giải thưởng như:
Trong năm 2007:
+ giải thưởng "Ngân hàng thực hiện xuất sắc nghiệp vụ thanh toán quốc tế".
+ giải thưởng “Excellent Payment Bank 2007” Bank of America trao tặng
+ giải thưởng "Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam - Vietnam Retail Bank
of the year 2007" do Asian Banking And Finance bình chọn.
+ giải thưởng “Cúp vàng thương hiệu mạnh”
Trong năm 2008:
+giải thưởng “Ngân hàng bán lẻ của năm tại Việt Nam 2008” do tổ chức
Asian Banking and Finance (Vương quốc Anh) trao tặng.
+ “Ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam 2008” do tổ chức The Asset trao
tặng tại Hongkong.
+ giải thưởng quốc tế về tài trợ thương mại (“Outstanding Quality In Payment
Formatting And Straight Through Rate) do Ngân hàng Standard Chartered (Anh
quốc) trao tặng.
+ giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008” do Global Finance bình
chọn
Việc được nhận nhiều giải thưởng uy tín và đạt được những xếp hạng cao
trong những năm gần đây đã xây dựng cho Sacombank 1 thương hiệu vững chắc,
đem lại lòng tin cho người dân, khiến họ tin tưởng Sacombank là một địa chỉ nên
tìm đến khi cần sử dụng dịch vụ ngân hàng. Uy tín và thương hiệu của Sacombank
ko chỉ dừng lại trong quy mô lãnh thổ Việt Nam do nhiều giải thưởng mà
Sacombank nhận được là của những tổ chức lớn trên thế giới. Trong việc mở rộng

thị phần ra nước ngoài, Sacombank cũng là NHTM đi đầu. Cho tới nay Sacombank
đã có chi nhánh tại Lào, Campuchia, và ở Nam Ninh_Trung Quốc. Trong tương lai
Sacombank rất có thể sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình ra các quốc gia khác
trong khu vực cũng như toàn thế giới. Đây thực sự là một cơ hội lớn mà
Sacombank đang có được.
4. Thách thức(T)
15
Dựa trên sự phân tích những điều kiện của môi trường vĩ mô ở Việt Nam và
qua sự khái lược về Sacombank có thể thấy Sacombank hiện nay đang phải đương
đầu với không ít những thách thức.
4.1. Vấn đề nguồn nhân lực.
Tuy rằng nước ta có dân số đông nhưng tỷ lệ lao động có trình độ, có chuyên
môn lại không cao.Hơn nữa sự phát triển ồ ạt của hệ thống các ngân hang và các tổ
chức tài chính dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trong việc thu hút nguồn nhân
lực.Các nhà tuyển dụng buộc phải chấp nhận việc chạy đua nóng nhằm chiêu mộ
nhân tài, thông qua việc đăng báo, nhưng đôi khi vẫn phải dùng nhiều kênh khác
nhằm "bốc" những nhân sự giỏi của các NH khác nhờ vào mức lương cao, ưu đãi
mua cổ phần của NH cùng các phúc lợi hấp dẫn khác. Sự cạnh tranh, lôi kéo nhân
lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động của các ngân
hàng bị đội lên, mặc dù chất lượng lao động có thể chưa tương xứng. Vì thiếu
nguồn nhân lực, nhất là các ngân hàng mới ra buộc phải đẩy chi phí này lên, thậm
chí sẽ dẫn đến sự cạnh tranh hỗn loạn trên thị trường nhân lực. Các ngân hàng thâm
niên muốn giữ được người thì buộc phải nâng theo, ngân hàng mới không lấy được
người thì lại tiếp tục đẩy cao”. Trong điều kiện đó, chất lượng nguồn nhân lực ngân
hang hiện nay là một vấn đề đáng bàn. Theo các chuyên gia, do phát triển quá
nóng, quá nhanh, nhân lực trong ngành ngân hàng hiện nay đang có tình trạng vừa
thừa, vừa thiếu, đặc biệt là thiếu những cán bộ chủ chốt, có kinh nghiệm. Không
chỉ vậy, cái thiếu trầm trọng hơn là khả năng thích nghi và ứng dụng của nhân viên
trong môi trường làm việc mới. Để có được đội ngũ cán bộ dự bị và thay thế khi
cần thiết, các ngân hàng trong nước đã ráo riết tìm các giải pháp phát triển nguồn

nhân lực. Điển hình đối với Sacombank đã thành lập riêng cho mình một trung tâm
đào tạo hoặc gửi đi đào tạo ngoài nước hoặc tạo ra những sân chơi cho sinh viên
ngành này thực hành, thực nghiệm như sàn giao dịch chứng khoán ảo. Việc xây
dựng một chiến lược nhân sự dài hạn và đồng bộ là hết sức cần thiết. Thời gian qua,
nhiều ngân hàng đã hướng tới các sinh viên giỏi tại nhiều trường đại học thuộc
ngành ngân hàng, kế toán, tài chính, tin học nhằm bổ sung cho nguồn nhân lực của
mình. Để giải quyết được vấn đề này phải có sự nỗ lực của cả 3 phía: DN, nhà
16
trường và các sinh viên. Trong đó, quan trọng nhất là những người tuyển dụng cần
tham gia vào quá trình đào tạo, phải nói cho nhà trường biết cần kỹ năng gì ở người
học.
Nguồn nhân lực hiện tại đang là một hạn chế đối trên nhiều lĩnh vực nói
chung và tài chính ngân hàng nói riêng. Việc kết hợp giữa các bên là điều kiện cần
thiết để có thể giải quyết bài toán về số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực trong
giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhu cầu sử dụng các dịch vụ và sản phẩm của ngân hàng ngày càng
được nhiều người dân quan tâm và đòi hỏi cao về tính đa dạng, chất lượng sản
phẩm dịch vụ và kỹ năng phục vụ khách hàng.
Đặc biệt là đối với Sacombank khi mà thời gian gần đây có thông tin về việc
nhân viên của Sacombank làm việc thiếu trách nhiệm và coi thường khách hang, để
khách hàng của mình khiếu nại lên Vietnamnet, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy
tín của ngân hàng. Tuy nhiên, phản ứng với vụ việc này Sacombank đã nhận lỗi và
xin lỗi khách hang, đây là một động thái tốt nhưng chỉ là để khắc phục hậu quả,
Sacombank cần có những biện pháp tốt hơn để những việc như thế này không lặp
lại. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế các dịch vụ của Sacombank
như huy động vốn, cho vay khách hang, góp vốn đầu tư…đều có xu hướng giảm.
Điều này được thể hiện rõ trong biểu đồ dưới đây:

17
Ngoài thu nhập lãi tín dụng như truyền thống, một số ngân hàng đã tăng tỷ lệ

thu nhập khác ngoài lãi như thu từ cung cấp dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, kinh
doanh vàng và chứng khoán (bao gồm cả chứng khoán nợ và chứng khoán vốn).
Năm 2008, riêng kinh doanh vàng đã mang về cho Sacombank 1.502 tỉ đồng.
4.3. Đối với hoạt động ngân hàng, môi trường kinh doanh đầy biến động
trong năm 2008 đã gây không ít khó khăn và làm gia tăng các nguy cơ tiềm ẩn
rủi ro, nhất là rủi ro về thanh khoản, rủi ro kỳ hạn, tình trạng nợ quá hạn tăng
cao.
Đây là khó khăn chung của toàn bộ hệ thống, tính thanh khoản của ngân hang
đã có lúc bị đe doạ. Năm 2008 Sacombank phải trích lập dự phòng rủi ro 14%, tăng
gấp đôi so với mức dự phòng năm 2007. Tổng trích lập dự phòng rủi ro này bao
gồm rủi ro tín dụng, rủi ro kinh doanh chứng khoán và các rủi ro khác. Mức trích
lập dự phòng rủi ro đã làm giảm lợi nhuận của ngân hang. Mặc dù Sacombank đã
áp dụng biện pháp thắt chặt tín dụng, giảm tỷ lệ dư nợ, chọn lọc khách hang tốt để
giảm thiểu rủi ro nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn có xu hướng tăng. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) của
Sacombank năm 2007 giảm mạnh còn 0,23% nhưng sang 2008 tăng lên đến 0.5%.
Dưới đây là biểu đồ về nợ xấu của Sacombank và một số các ngân hang khác.
18
4.4. Thị trường chứng khoán
Tuy đã có dấu hiệu hồi phục cụ thể Trong 10 phiên trước ngày 12/3, giá trị
giao dịch trung bình mỗi phiên tại sàn TP HCM không vượt quá 150 tỷ đồng.
Nhưng trong 10 phiên sau đó, giá trị giao dịch qua khớp lệnh của mỗi phiên đạt 327
tỷ đồng, với 17,6 triệu đơn vị được mua bán. Song vào phiên cuối tuần 20/3, nỗ lực
đảo chiều của Vn-Index không thành công trước lực bán lớn, và giá trị giao dịch
giảm xuống 330,15 tỷ đồng qua khớp lệnh. Trước diễn biến của Vn-Index, không ít
chuyên viên phân tích tỏ ra bất ngờ. Họ cho rằng, diễn biến thị trường chưa phản
ánh nội tại nền kinh tế, dù thị trường chứng khoán có xu hướng hồi phục trước kinh
tế khoảng 6 tháng. Điều này thật sự gây ảnh hưởng tới Sacombank nói riêng và hệ
thống các ngân hang nói chung khi mà đầu tư chứng khoán và cho vay đầu tư
chứng khoán là những danh mục đầu tư quan trọng đối với các ngân hang.
Có thể nói thị trường chứng khoán là thách thức khó khăn nhất của

Sacombank, nếu nắm bắt được xu hướng thị trường và đầu tư hiệu quả Sacombank
sẽ thành công vượt mức.
III. Định hướng chiến lược của Sacombank
1. Chiến lược khai thác tối đa các cơ hội hiện có.
Giữ vững vị trí là ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam, Sacombank đã và
đang không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động cả về quy mô lẫn chiều sâu.Mạng
lưới hoạt động hiện nay của Sacombank bao gồm hơn 250 điểm giao dịch tại 45/63
tỉnh thành. Năm 2009, Sacombank lên kế hoạch mở thêm khoảng 50 Chi nhánh và
Phòng giao dịch. Hoạt động kinh doanh ở nước ngoài cũng được chú trọng phát
triển, Sacombank hiện có một VPĐD tại Trung Quốc và một Chi nhánh tại Lào,
19
Chi nhánh Campuchia dự kiến khai trương vào tháng 6 năm nay. Đồng thời, Ngân
hàng cũng đang tập trung cho kế hoạch triển khai dự án Contact Center nhằm phục
vụ cho các đối tượng khách hàng cá nhân về tiền gửi, tiền vay và các dịch vụ ngân
hàng bán lẻ.
Để thu hút khách hàng, Sacombank thực hiện đưa ra nhiều chương trình
khuyến mại, điển hình như chương trình tiết kiệm dự thưởng “Mừng lễ lớn - trúng
thưởng lớn” được Sacombank triển khai trên toàn quốc từ ngày 18/08 đến ngày
18/10/2008 với tổng giá trị giải thưởng của chương trình lên đến 3 tỷ đồng. Tính
đến ngày 18/10/2008 tổng số huy động của Sacombank thông qua chương trình
khuyến mại đạt 5.518 tỷ đồng. Ngoài ra, Sacombank còn áp dụng nhiều chính sách
ưu đãi về lãi suất và phí dịch vụ để thu hút doanh nghiệp cũng như dân chúng. Mới
đây nhất, Sacombank áp dụng chương trình ưu đãi giảm 50% phí báo có đối với
hình thức thanh toán TT dành riêng cho khách hàng là doanh nghiệp xuất khẩu. Dự
kiến trong tương lai sẽ còn có thêm nhiều chương trình khuyến mại để cá nhân
cũng như doanh nghiệp biết đến và lựa chọn giao dịch với Sacombank nhiều hơn.
Về vấn đề nguồn nhân lực của Sacombank. Ngày 24.1, Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank) đã chính thức ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) với
Baruch Education Group Ltd BVI (BEG) - đại diện của City University of New
York (CUNY) về các vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cao cấp, có chất lượng và

được cấp chứng nhận quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đây là lần đầu
tiên một ngân hàng nội địa liên kết với trường đại học nước ngoài đẩy mạnh các
hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng.
Mục đích chính liên kết giữa các bên là nhằm thực hiện các chương trình đào
tạo cấp quốc tế trong lĩnh vực tài chính và đầu tư, quản lý tài sản; các chương trình
đào tạo thạc sỹ về tài chính, các chuyên gia cao cấp về quản lý tài chính, quản trị
kinh doanh… Theo đó, BEG sẽ là đơn vị liên kết chính với Sacombank trong việc
hợp tác tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhân
sự đang làm việc tại Ngân hàng nói riêng và ngành tài chính ngân hàng nói chung.
Sacombank sẽ có nghĩa vụ phổ biến đến nhân sự nội bộ và các đơn vị trực thuộc,
liên doanh, liên kết về các chương trình và các khóa học có liên quan.
20
Biên bản ghi nhớ giữa Sacombank và BEG là tiền đề cho sự hợp tác thành
lập Trường Đại học Sacombank trong thời gian tới và là một động thái tích cực của
Sacombank trong việc giải quyết bài toán nhân sự chất lượng cao cho ngành tài
chính - ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Như vậy, không chỉ thụ động tuyển lựa nhân viên trong số những lao
động trẻ, có năng lực đã tốt nghiệp các trường đào tạo về tài chính ngân hang,
Sacombank còn chủ động đào tạo cho mình và cho ngành ngân hang tương lai
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc. Việc hợp tác đào tạo cũng là một
các quảng bá hình ảnh cho Sacombank.
Với thực lực của mình và cơ hội về việc mở rộng thị trường, tiếp cận với
đa dạng khách hang trong và ngoài nước. Sacombank phát triển nhiều hơn nữa
các sản phẩm dịch vụ nhằm mở rộng hoạt động với chất lượng ngày càng tiến
dần đến chuẩn quốc tế. Điển hình về hoạt động thanh toán quốc tế, vừa qua
Sacombank vinh dự nhận 03 giải thưởng “Ngân hàng có hoạt động thanh toán quốc
tế tốt nhất năm 2008” do Standard Chartered Bank, Wachovia Bank và The Bank
of New York Mellon trao tặng. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động thanh toán
quốc tế của Sacombank được đánh giá qua tỷ lệ thành công của các giao dịch trên
95%, định dạng chuẩn và xử lý tự động, không qua chỉnh sửa bằng tay.

Đa dạng dịch vụ của Sacombank còn được thể hiện qua số lượng các dịch
vụ Sacombank hiện có, ngoài các dịch vụ truyền thống Sacombank còn phát hành
các loại thẻ tín dụng như thẻ tín dụng quốc tế Parkson Privilege, OS Member,
Sacom Passport, Sacom Visa Debit, thẻ tín dụng Sacombank Metro…Dịch vụ ngân
hang điện tử, ngân hang đại lý, ngân hang liên kết…Việc đưa ra nhiều loại dịch vụ
là để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hang. Do đó trong tương lai, Sacombank
sẽ còn đưa ra nhiều dịch vụ hơn nữa, diều quan trọng là cần phải quan tâm cả chiều
sâu của dịch vụ cung cấp.
2. Chiến lược dùng sức mạnh để vượt qua nguy cơ đe doạ.
2.1. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng để thu hút và giữ
uy tín với khách hàng
21
Việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn huy động được của khách
hàng, nếu không thu hút được dòng vốn của khách hàng ngân hàng sẽ không có vốn
để hoạt động tự khắc sẽ bị đào thải. Trong khi đó ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở
ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá nhiều lựa chọn khác như giữ
ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý
(vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Không phải lúc nào lãi suất ngân
hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang
sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến
động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8% một năm. Ngoài
ra đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến cho
người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi
có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương
qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa
điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang
trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm. Sự không thông
dụng của hình thức thanh toán này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người
tiêu dùng muốn giữ và sử dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng vì thế khả

năng bị thay thế của các ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là
khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu
muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
Chính vì thế để có thể giữ được khách hàng ngoài một chính sách lãi suất hợp
lý và hấp dẫn thì việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là rất quan trọng khi
ngân hàng muốn thu hút khách hàng và giữ uy tín của ngân hàng. Thực tế hiện nay
chất lượng phục vụ khách hàng tại các điểm giao dịch trong hệ thống ngân hàng ở
Việt Nam chưa cao, nhiều nhân viên giao dịch có thái độ phục vụ rất kém dẫn đến
sự không hài lòng của khách hàng. Vì thế ngân hàng cần có biện pháp đào tạo
nghiệp vụ thường xuyên, bên cạnh đó cần có sự giám sát và xử phạt thích hợp với
những nhân viên chưa đạt yêu cầu. Ngoài ra cũng cần có những đợt khuyến mãi để
thu hút dân chúng. Bên cạnh đó dịch vụ tư vấn chăm sóc khách hàng cũng là rất
cần thiết để phục vụ khách hàng tốt hơn. Thông qua việc nắm bắt nhu cầu khách
22
hàng từ việc thu thập những phản hồi, tham khảo ý kiến của khách hàng, ngân hàng
sẽ đưa ra biện pháp thích hợp.
Xuất phát từ nhận thức vai trò hạt nhân của khách hàng trong hoạt động kinh
doanh, đồng thời thực hiện chủ trương đẩy mạnh tăng thu từ sản phẩm - dịch vụ,
Sacombank đã không ngừng nghiên cứu, đánh giá để đưa ra những chiến lược cụ
thể nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ Ngân hàng.
Hàng năm, Sacombank tổng kết lại công tác chăm sóc khách hàng suốt năm qua,
đồng thời nghiên cứu để nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Bên cạnh chương
trình khuyến mại với nhiều giải thưởng có giá trị cùng với những dịch vụ tốt nhất
dành cho khách hàng đến giao dịch, lãnh đạo của các Chi nhánh trên toàn hệ thống
còn trực tiếp đến với từng khách hàng doanh nghiệp để thăm hỏi và nghiên cứu sự
hài lòng của khách hàng để có sự điều chỉnh hoạt động cho phù hợp.
Năm 2008, Sacombank đã dành hơn 18 tỷ đồng cho các chương trình
khuyến mại, . Bởi đây không chỉ là một chương trình khuyến mại đơn thuần nhằm
gia tăng lợi ích cho khách hàng, mà còn là một hoạt động tri ân sự đồng hành và
ủng hộ tích cực của khách hàng trong sự phát triển chung của Sacombank. Tăng thị

phần, củng cố lòng tin của khách hàng với doanh nghiệp nhằm xây dựng doanh
nghiệp ngày càng lớn mạnh để cạnh tranh được với các doanh nghiệp cùng ngành.
Ngân hàng cần phải tiếp tục cố gằng trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng, đưa ra nhiều biện pháp hơn nữa nhằm động viên khách hàng tin tưởng vào
ngân hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng.
2.2. Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong
phú của khách hàng, giảm thiểu rủi ro
Việt Nam có quy mô dân số lớn điều đó đồng nghĩa với việc nhu cầu của
khách hàng cũng rất đa dạng và phong phú. Thêm nữa sự đa dạng của các loại hình
ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khiến cho số lượng các loại sản phẩm dịch vụ ngân
hàng cũng trở nên rất đa dạng. Vì thế muốn đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu
Ngân hàng cần phải phát triển thêm nữa các sản phẩm dịch vụ của mình trên cở sở
tìm hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó cung cấp cho khách hàng những sản phẩm
phù hợp mong muốn, các dòng sản phẩm phải không ngừng được đổi mới, cải tiến
và sáng tạo thêm, cố gắng sáng tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới trên thị
23
trường những vẫn phải phù hợp nhu cầu thị trường. Các dịch vụ thanh toán qua thẻ
ở Việt nam còn ở dạng tiềm năng, các loại hình thẻ cũng chưa thật sự nhiều, việc sử
dụng thẻ chưa phổ biến, thông dụng vì thế bên cạnh các sản phẩm tiết kiệm, các sản
phẩm các loại hình thẻ cũng cần được đầu tư phát triến.
Việc đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng gửi tiền sẽ tạo ra một nguồn vốn huy
động thường xuyên cho ngân hàng giảm thiểu rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng
từ đó thúc đẩy năng lực tín dụng cho ngân hàng. Đối với khách hàng đi vay, sản
phẩm đa dạng sẽ giúp cho khách hàng lựa chọn được loại phù hợp với điều kiện
kinh doanh khả năng thanh toán của mình từ đó làm giảm rủi ro tín dụng cho ngân
hàng.
2.3. Tiếp tục mở rộng thị phần, quan hệ voi nhà đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở Việt
Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành

một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ cao nhất châu Á . Tuy
khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu tới ngành
ngân hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng còn rất
lớn. Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của
nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có một
phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ
những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở
rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên nhiều
nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các ngân hàng
trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự
khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách
hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối
với những khách hàng quan trọng của họ. Sacombank có mạng lưới rộng khắp
nhưng thị trường lại chưa thức sự lớn, vì thế trên nền tảng mạng lưới hoạt động ở
24
hầu hết các tỉnh thành trên cá nước ngân hàng cần đề ra những biện pháp cụ thể để
nâng cao thị phần từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh.
3. Chiến lược tranh thủ cơ hội và nắm lấy cơ hội.
3.1. Đào tạo cán bộ để nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp cũng như
hiệu quả hoạt động.
Không chỉ dừng lại ở việc liên tục nâng cao trình độ nghiệp vụ và chất lượng
làm việc của đội ngũ cán bộ nhân viên hiện hữu, Sacombank còn tích cực hợp tác,
hỗ trợ thường xuyên những chương trình học thuật của các trường đại học nhằm tạo
cho các sinh viên cơ hội tiếp xúc môi trường làm việc thực tế, ứng dụng và trau dồi
những kinh nghiệm từ các lý thuyết đã được trang bị tại nhà trường. Ngày 10 tháng
02 năm 2009 vừa qua Sacombank tổ chức buổi tiếp nhận hơn 500 sinh viên của 16
trường đại học, cao đẳng gồm ĐH Ngoại Thương, ĐH Ngân hàng, ĐH Kinh Tế,
ĐH Quốc Gia, ĐH Marketing, ĐH Mở - Bán Công… đến thực tập tại các phòng
nghiệp vụ và các Chi nhánh trên địa bàn TP.HCM của Ngân hàng. Đây là chương

trình hoạt động hàng năm của Sacombank nhằm phối hợp với nhà trường “gắn kết
học với hành” để nâng cao khả năng thích ứng thực tế của các sinh viên Việt Nam
sau khi ra trường.
3.2. Củng cố lại hoạt động hiện có của doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh, mở rộng thị phần:
Thực hiện chiến lược trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu,
kế hoạch của Sacombank là mở rộng mạng lưới hoạt động, tiếp cận với người tiêu
dùng. Trong năm 2008 vừa qua Sacombank đã mở mới 38 phòng giao dịch, 2 chi
nhánh (trong đó có một chi nhánh tại Lào) và 1 văn phòng đại diện ở Trung Quốc.
Chiến lược phát triển của Sacombank từ nay đến năm 2010 là tiếp tục tăng nhanh
về năng lực tài chính; mở rộng hệ thống mạng lưới hoạt động đến nhiều tỉnh, thành
trên toàn quốc, đồng thời vươn đến một số quốc gia ngoài lãnh thổ Việt Nam. Cũng
theo ông Đặng Văn Thành, năm 2009 được nhiều chuyên gia nhận định, kinh tế
trong nước còn khó khăn, thách thức bởi độ ngấm của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, mà chịu ảnh hưởng nặng nề nhất có thể là lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư nước
ngoài, dịch vụ du lịch và đặc biệt là ngành tài chính - ngân hàng. Vì vậy ở năm
25

×