TỔ CHỨC TỐT MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ KHAI THÁC PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG NGUỒN TÀI NGUYÊN VEN BIỂN CỦA BẾN TRE
Trần Thị Thu Nga
PGĐ Sở Nông nghiệp và PTNT
Bến Tre
Phần I. GIỚI THIỆU
I. Vị trí địa lý
Bến Tre, mảnh đất nơi cuối nguồn của hệ thống sông Cửu Long tiếp giáp với biển Đông
qua bốn cửa Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên; có chiều dài bờ biển trên 65 km và
vùng lãnh hải rộng hơn 26.000 km2; Hệ đa dạng sinh học vùng cửa sông ven biển rất phong
phú ( hơn 280 loài tảo đơn bào, 96 giống loài động vật nổi, 16 nhóm giống loài thủy sinh; với
hơn 7.130 ha rừng ngập mặn ven biển có 3.250 ha được bảo tồn …) là điều kiện thuận lợi để
nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản phát triển. Cộng đồng cư dân vùng ven biển từ hằng
trăm năm qua đã gắn bó với nghề truyền thống nầy dựa vào nếp sống cộng đồng để sinh kế và
làm chỗ dựa cho các họat động cách mạng qua các thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước.
II. Cơ hội và thách thức:
Cơ hội: có được sự quan tâm của Đảng và nhà nước các cấp, các tổ chức kinh tế khoa học
xã hội đối với vấn đề bảo vệ phát triển nguồn lợi thủy sản ven biển và nâng cao chất lượng
cuộc sống của cộng đồng trên nhiều lĩnh vực: đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nâng cao nhận thức
quản lý Hợp tác xã, kiến thức Đồng quản lý, An toàn vệ sinh thực phẩm, quan trắc môi trường,
bảo tồn nguồn lợi, giám sát thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh võ, tiêu chí MSC …
Thách thức: số lượng phương tiện khai thác ven bờ còn khá lớn với đa loại hình ngư, lưới
cụ có kích thước mắt lưới không phù hợp; cơ chế chính sách và hình thức quản lý chưa hiệu
quả; nạn nghêu tặc còn diễn ra ở một vài Hợp tác xã quản lý yếu, gây tổn thất nguồn lợi thủy
sản, ảnh hưởng đến chu kỳ phát triển của hệ đa dạng sinh học, mất cân bằng môi trường sinh
thái, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng.
Phần II. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
QUẢN LÝ KHAI THÁC NGHÊU Ở BẾN TRE
Mô hình đồng quản lý của các Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu ở Bến Tre là mô hình
mà Nhà nước chia sẻ một số quyền hạn cho cộng đồng ngư dân quản lý khai thác và phát triển
1
nguồn lợi nghêu tự nhiên ở vùng ven biển Bến Tre. Cụ thể như: giao quyền sử dụng đất bãi bồi
ven biển để quản lý và khai thác nghêu tự nhiên, quản lý sử dụng lao động là những xã viên của
hợp tác xã vào hoạt động quản lý khai thác nghêu, quản lý thu chi tài chính theo Luật ngân
sách, Luật hợp tác xã và điều lệ và phương thức hoạt động đã được xã viên hoặc đại biểu xã
viên của Hợp tác xã thống nhất thông qua trong các kỳ đại hội.
I. Quá trình hình thành cơ chế và hệ thống tổ chức quản lý của các Hợp tác xã khai thác
nghêu ở Bến Tre:
Từ năm 1980 trở về trước nghề nuôi nghêu hãy còn là nghề tự phát, người dân nơi đây chỉ
dựa vào các bãi nghêu giống tự nhiên thu nhặt về làm thực phẩm hoặc mang đi bán lẻ ở các chợ
nông thôn để đổi lấy mắm, muối và một ít lương thực, thực phẩm về trang trải cho cuộc sống
gia đình. Cuối năm 1980 một số thương gia Hồng Kông, Đài Loan thông qua các doanh nghiệp
chế biến xuất khẩu thủy sản trong nước đến khảo sát đặt quan hệ mua bán nghêu nhưng chỉ ở
qui mô nhỏ lẻ theo dạng buôn chuyến thì phong trào nuôi nghêu bằng con giống tự nhiên mới
bắt đầu phát triển. Từ các bãi nghêu giống tự nhiên ở Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận,
Thừa Đức - Bình Đại người ta thu nhặt và mang đi rải nuôi ở các khu vực lân cận với qui mô,
sản lượng phát triển lớn dần theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ ở một vài quốc gia của Châu
Á dưới dạng sản phẩm nghêu luộc cấp đông.
Do đặc điểm con nghêu là nguồn tài nguyên sinh học có khả năng tái tạo nhưng rất dễ bị
tổn thương, nguồn lợi có thể bị cạn kiệt, môi trường thiên nhiên sẽ suy thoái nếu cộng đồng
ngư dân không gắn liền với khai thác sử dụng với bảo vệ nguồn lợi. Mặt khác con nghêu còn là
mặt hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị nếu đảm bảo các nguyên tắc an toàn vệ sinh thực phẩm
thông qua qui trình kiểm soát quản lý nghiêm ngặt của hệ thống kiểm soát chất lượng được
quốc tế công nhận. Đối với cộng đồng ngư dân nghèo ven biển con nghêu còn là đối tượng phát
triển phù hợp với mục tiêu xóa đói giảm nghèo bỡi đặc tính dễ nuôi, ít dịch bệnh và vốn đầu tư
thấp. Vì vậy nếu giao quyền cho cá nhân quản lý khai thác sẽ dễ dẫn đến sự tranh chấp và rất
khó thực hiện qui trình kiểm soát thu hoạch và bảo tồn nguồn lợi.
Dựa vào các yếu tố đặc thù trên, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có chủ trương thành lập các Tổ
hợp tác, Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu để quản lý tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên quí
giá, có giá trị xuất khẩu và mang lại hiệu quả cao đối với chương trình xóa đói giảm nghèo cho
cộng đồng ngư dân vùng ven biển nhằm thực hiện tốt các qui trình kiểm soát và tổ chức tốt việc
phân phối lợi nhuận cho cộng đồng ngư dân nghèo, trích nộp thuế cho nhà nước đồng thời giao
cho Ủy ban nhân dân các xã quản lý hoạt động của các Tổ hợp tác, Hợp tác xã.
Sau khi có chủ trương của tỉnh một số địa phương có quan tâm đã nhanh chóng nắm bắt cơ
hội này hình thành tổ chức tổ hợp tác, hợp tác xã thủy sản để quản lý và khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên quí báu của địa phương như Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận - Bình
Đại,… nhưng sau đó các Tổ hợp tác, Hợp tác xã lại liên tục bị phá vỡ, nguồn lợi tiếp tục bị hủy
diệt.. Do thuở ấy đời sống ngư dân còn quá nghèo khó, cán bộ quản lý chưa có nhiều kinh
nghiệm, phương thức quản lý còn mang nặng hình thức bao cấp, thị trường còn bấp bênh, ngư
dân ở các huyện ven biển trong tỉnh kéo theo cả người ngòai tỉnh đến các bãi nghêu của tổ hợp
tác, hợp tác xã tranh nhau khai thác nghêu thịt, nghêu giống mang đi bán khắp nơi với giả cả rẻ
mạt 300-500đ/kg nghêu thịt chỉ nhằm thu lợi trước mắt.
Mãi cho đến giữa những năm 1990 Liên minh hợp tác xã tỉnh đựơc thành lập để quản lý
hoạt động của các Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, bao gồm cả Hợp tác xã thủy sản. Chính
nhờ đó Liên minh các Hợp tác xã tỉnh đã phối hợp với Sở Thủy sản xây dựng kế hoạch tổ chức
củng cố lại các hợp tác xã quản lý khai thác nghêu trong tỉnh.Trải qua nhiều mô hình quản lý,
nhiều lần tổ chức Đại hội bầu lại Ban chủ nhiệm, xây dựng lại phương thức phân phối lợi
nhuận cho xã viên nhưng họat động Hợp tác xã vẫn bất ổn. Nguyên nhân chủ yếu là do năng
lực cán bộ quản lý không ngang tầm với nhiệm vụ, cơ chế công khai dân chủ không được thực
2
hiện một cách đầy đủ và đồng bộ, phương án ăn chia bất hợp lý kéo dài cho nên đã không
được sự đồng thuận của bà con xã viên.
Nắm bắt được nguyên nhân trên tỉnh đã cho chủ trương thành lập Ban chỉ đạo củng cố tổ
hợp tác, hợp tác xã bao gồm các thành phần: đại diện Ban chủ nhiệm Liên minh Hợp tác xã
tỉnh, Ban Giám đốc Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Ủy ban nhân
dân huyện, Ủy ban nhân dân xã đã trực tiếp tham gia tổ chức củng cố lại Hợp tác xã. Bắt đầu từ
việc lấy ý kiến nhân dân thông qua cơ sở tổ nhân dân tự quản cho đến từng đơn vị Ấp, đơn vị
Xã về qui mô phát triển xã viên, về việc bầu chọn nhân sự vào Ban chủ nhiệm hợp tác xã và cả
phương án phân phối lợi nhuận của hợp tác xã.
Ban chỉ đạo cùng Ban chủ nhiệm hợp tác xã thống nhất lại cơ cấu tổ chức quản lý, qui mô
phát triển và phương thức phân phối lợi nhuận. Mãi cho đến tháng 7 năm 1997 Hợp tác xã kiểu
mới Thới Thuận - Bình Đại chính thức được thành lập lấy tên là Hợp tác xã Thủy sản Rạng
đông. Đặc trưng của Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông là huy động tòan thể các hộ dân trong xã
tham gia vào Hợp tác xã với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là quản lý khai thác và tiêu thụ nguồn
lợi nghêu tự nhiên trên diện tích 900ha đất bãi triều ven biển, do nhà nước địa phương quyết
định tạm cấp, nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, phân phối lợi nhuận hợp lý và từng
bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các hộ xã viên, góp phần đẫy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế xã hội của địa phương.
Một phương thức sản xuất và một cung cách quản lý mới được xác lập trên nền tảng của
cơ chế đồng quản lý và nguyên tắc công khai dân chủ được Ban chủ nhiệm Hợp tác xã nghiêm
túc thực hiện đã mang lại sự đồng thuận cao trong hằng ngàn xã viên của Hợp tác xã.
II. Hệ thống tổ chức quản lý theo mô hình đồng quản lý của các Hợp tác xã khai thác
nghêu ở Bến Tre:
Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý Hợp tác xã, Tập đòan quản lý khai thác nghêu Bến Tre
Theo sơ đồ hệ thống quản lý trên đây cho thấy sự quan tâm rất cao và rất chặt chẽ của các
ngành, các cấp đối với cộng đồng nuôi và khai thác nghêu Bến Tre. Cụ thể:
Chính phủ và các Bộ: đã ban hành Luật Hợp tác xã, Luật tài nguyên khoáng sản, Luật môi
trường, Luật Thủy sản và các thông tư hướng dẫn của các Bộ quản lý chuyên ngành … đã có
tác dụng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật hướng đến mục tiêu phát triển bền vững nhưng
đồng thời cũng chỉ ra một số quyền căn bản của tổ chức kinh tế hợp tác được vận dụng trong
quá trình sản xuất nhằm khuyến khích và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng.
3
RIAs
UNI
NGO
ODA
Others
Ủy ban nhân dân tỉnh: quyết định các chính sách về giao đất, giao rừng cho các hợp tác xã
quản lý khai thác và ban hành cơ chế phân phối lợi nhuận, nâng cao chất lượng cuộc sống cho
cộng đồng ; Ban hành các quyết định về quản lý và khai thác có chú ý yếu tố bảo tồn nguồn lợi,
bảo vệ môi trường và môi sinh …
Các ngành chức năng phối hợp cùng Ủy ban nhân dân các huyện: tham mưu cho Ủy ban
nhân dân tỉnh xây dựng các chính sách, chủ trương phù hợp với yêu cầu bảo vệ và tái tạo nguồn
lợi, môi trường, môi sinh và phát triển của cộng đồng.
Ủy ban nhân dân các xã: tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính
sách Nhà nước đối với các hợp tác xã, ổn định tình hình trật tự xã hội, thực hiện cơ chế đồng
quản lý nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nâng cao chất lượng
cuộc sống của cộng đồng.
Ban chủ nhiệm các hợp tác xã: tổ chức quản lý khai thác nguồn lợi theo qui định pháp
luật và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan chuyên ngành. Tổ chức phân phối lợi nhuận và
quản lý lao động theo cơ chế đồng quản lý, thực hiện nhiệm vụ được phân cấp của cơ quan
chuyên ngành và đảm bảo nguyên tắc hợp pháp, công bằng, công khai, dân chủ.
III. Về hiệu quả của mô hình đồng quản lý theo hình thức hợp tác xã quản lý khai thác
nghêu ở Bến Tre:
Tài nguyên, nguồn lợi, hệ sinh thái,… được bảo tồn và phát triển bền vững.
Việc áp dụng qui trình kiểm soát thu hoạch sản phẩm và quan trắc cảnh báo môi trường đã
mang lại hiệu quả SX ngày càng cao.
Bộ máy tổ chức và cơ chế phân phối lợi nhuận được xây dựng hợp pháp, hợp lý, dân chủ;
Quyền lợi của cộng đồng được chia sẻ đảm bảo theo nguyên tắc minh bạch, công khai đã
tạo được sự đồng thuận nhất trí cao trong cộng đồng.
Nguồn thu nhập của CĐ ngày càng tăng, các vấn đề về bình đẳng giới và quyền trẻ em
được HTX và chánh quyền các cấp chú trọng.
Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và mở rộng thị trường. Đời sống văn hóa
xã hội không ngừng được nâng cao.
Lễ kỹ niệm 10 năm thành lập Hợp tác xã Rạng Đông Họat động xã hội của Hợp tác xã
Từ hiệu quả họat động của hợp tác xã kiểu mới như Rạng Đông đã thu hút sự quan tâm
của nhiều vị lãnh đạo thuộc cấp nguyên thủ quốc gia và các tổ chức quốc tế đã về thăm Hợp tác
xã Thủy sản Rạng Đông, đã đánh giá cao mô hình Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông là mô hình
hợp tác xã tiên tiến xứng đáng để phổ biến kinh nghiệm học tập cho các địa phương khác trong
tỉnh và cả nước. Nhiều giải thưởng, bằng khen, huân chương lao động đã được Đảng, Nhà
nước, các tổ chức Công đoàn và Đoàn thể các cấp trao tặng cho Hợp tác xã Rạng Đông. Mô
hình Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông đã được xem là mô hình điển hình từ những năm 1997 và
giữ vững cho đến ngày hôm nay.
Trên cơ sở hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông các Hợp tác xã Thủy sản Đồng Tâm - Bình Đại;
Bảo Thuận, Bảo Thạnh, Tân Thủy, Lạc Địa – Ba Tri; Bình Minh, Đòan kết, Thạnh Lợi, Hải
Dương, Phong Hải - Thạnh Phú; Vĩnh Tiến - Chợ Lách lần lựợt được thành lập và đi vào họat
4
động. Cuối năm 2006 Bến Tre đã có tất cả 13 Hợp tác xã Thủy sản và 35 tập đoàn nuôi nghêu được
hình thành với 9.744 hộ xã viên đã đi vào họat động ổn định trên địa bàn các huyện Bình Đại, Ba
Tri, Thạnh Phú và Chợ Lách; với diện tích mặt đất được nhà nước giao cho là 7.800 ha, trong đó,
4.970ha đã được các HTX đưa vào khai thác và thu họach. Diện tích còn lại do thiếu giống, thiếu
vốn nên chưa được khai thác hết, hơn nữa một số Hợp tác xã do yếu kém trong khâu quản lý, bảo
vệ sân nghêu hiệu quả chưa cao nên chưa dám gia tăng diện tích.
Trong quá trình phát triển của các Hợp tác xã thủy sản (nhuyễn thể) luôn được sự quan
tâm của lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo Bộ và các cấp các ngành. Nhiều chính sách và dự án, đề tài,
chương trình nghiên cứu khoa học đã được các Viện trường, các tổ chức kinh tế xã hội trong và
ngòai nước quan tâm hợp tác với ngành thủy sản Bến Tre tổ chức thực hiện như:
Chính sách:
Ủy ban nhân dân tỉnh giao đất cho hợp tác xã quản lý khai thác (1997); Cục thuế áp dụng
chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (2004); Liên minh Hợp tác xã tỉnh hướng dẫn họat
động theo Luật Hợp tác xã (1997); Sở Thủy sản hướng dẫn áp dụng cơ chế đồng quản lý
(2003); Liên minh Hợp tác xã tỉnh phối hợp với Sở Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT)
hướng dẫn xây dựng Liên hiệp các Hợp tác xã Thủy sản ( 2008); đào tạo tập huấn về nghiệp vụ
chuyên môn quản lý kiểm soát thu họach, quản lý bệnh, quản lý môi trường, quản lý tài chính
…
Thể chế:
+ Quản lý môi trường và tài nguyên:Ngòai việc áp dụng Luật Thủy sản, Luật tài nguyên và
khóang sản, Luật Hợp tác xã ; các Hợp tác xã thủy sản trong tỉnh còn thực hiện các qui định
chuyên ngành như: qui định của Sở thủy sản (1997) về tỷ lệ, kích cở và mùa vụ khai thác nghêu
giống, nghêu thịt ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về những vùng cấm khai thác để
bảo vệ đàn nghêu bố mẹ ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về bảo tồn rừng ngập mặn,
qui định của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004) về cấm khai thác động vật hoang
dã …
+ Quản lý an tòan vệ sinh thực phẩm: 7/1997 Bộ Thủy sản ban hành qui chế kiểm soát An
toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ, giao nhiệm vụ cho NAFIQACEN phối
hợp với Sở thủy sản triển khai chương trình tại Tiền Giang và Bến Tre. Tháng 3/2000 EU công
nhận chương trình kiểm soát của Việt Nam ; đây là nền tảng để nghêu Bến Tre được xuất khẩu
sang thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,… cho đến hôm nay.
IV. Bài học kinh nghiệm từ mô hình Đồng quản lý theo hình thức Hợp tác xã quản lý và
khai thác nghêu ở Bến Tre
Cần phải có sự tập trung hỗ trợ của Đảng bộ, nhà nước các cấp, các ngành chức năng và
quá trình thời gian để tổ chức vận động sự hưởng ứng của cộng đồng ngư dân thực hiện chương
trình phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cần xây dựng và phát triển mô hình quản lý dựa vào cộng đồng theo cơ chế đồng quản
lý để tạo được sự đồng thuận cao của người dân bằng cơ chế và chính sách pháp luật phù hợp
với nguyện vọng của cộng đồng.
Cần có sự phối hợp giữa nhà nước các cấp với CĐ xây dựng một hệ thống thể chế thống
nhất cho việc chia sẻ quyền và lợi ích hợp lý, hợp pháp, dân chủ
Cần hình thành Ban chỉ đạo các cấp và Ban quản lý mô hình gồm những cán bộ vừa có
tầm vừa có tâm, được chọn lựa và đào tạo để gánh vát trách nhiệm điều hành.
Cần có chính sách đầu tư nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và vận động để
cộng đồng tự nguyện tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương và của quốc gia.
Cần đưa pháp luật vào cuộc sống cộng đồng: ví dụ: qui định bảo tồn nghêu bố mẹ, qui
định kích cỡ thu hoạch nghêu giống, hệ đa dạng sinh học, chương trình kiểm soát thu họach
5