Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng và đóng
vai trò là một hoạt động quan trọng trong quá trình vận hành của các tổ chức
tín dụng. Trong thực tiễn có rất nhiều tiêu chí để phân biệt các hình thức cho
vay này. Dưới đây là phân loại cho vay và ý nghĩa pháp lý của việc phân loại
đó:
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng:
1. Một số khái niệm:
- Theo quy định tại khoản 1 điều 4 luật các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định: “Tổ chức tín dụng(TCTD) là doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
- Căn cứ vào khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
quy định “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi”.
2. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay của các TCTD:
Để phân biệt cho vay với tư cách là một hoạt động của các TCTD- với
giao dịch vay tài sản trong đời sống dân sự thông thường, cũng như phân
biệt cho vay với các hình thức cấp tín dụng khác của TCTD chúng ta dựa
trên các đặc trưng cơ bản sau đây:
-Thứ nhất về chủ thể thì chủ thể cho vay là TCTD. Khác với các giao dịch
vay tài sản thông thường, chủ thể vay có thể là bất kì ai có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự và sở hữu tài sản vay, trong hoạt động cho vay, bên cho vay
phải là tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động hợp pháp, có đủ điều
kiện để tiến hành hoạt động cho vay. Ở đây, hoạt động cho vay không phải
là một giao dịch dân sự đơn thuần mà thực chất là một hoạt động kinh
doanh, trong đó, tổ chức tín dụng muốn có được lợi nhuận thông qua hoạt
động cho vay. Bên cạnh yếu tố về mục đích, hoạt động cho vay của tổ chức
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
tín dụng còn được thực hiện một cách chuyên nghiệp, liên tục và có tính
chuyên môn nghiệp vụ sâu sắc.
Chính vì hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng là hoạt động mang tính
chuyên nghiệp cao nên chủ thể thực hiện hoạt động cho vay là các TCTD
phải được thành lập hợp pháp, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
cụ thể là các quy định của luật các TCTD năm 2010, bộ luật dân sự năm
2005, luật doanh nghiệp năm 2005…vv, và chịu sự giám sát chặt trẽ của
ngân hàng nhà nước (NHNN).
- Thứ hai là: đối tượng cấp tín dụng trong hoạt động cho vay là vốn (tiền tệ).
Khác với hoạt động cho thuê tài chính, đối tượng cấp tín dụng là tài sản; đối
với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, đối tượng cấp tín
dụng là giá trị của các giấy tờ có giá thì đối tượng của hoạt động cho vay
luôn luôn là vốn (tiền tệ). Vốn ở đây có thể là đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ.
Trong hoạt động cho vay bằng ngoại tệ, tổ chức tín dụng cần đáp ứng thêm
một số yêu cầu khác của pháp luật.
- Thứ ba: thời hạn trong hoạt động cho vay rất đa dang, có thể là ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Trong hoạt động cho vay, mục đích của TCTD là cấp
cho bên đi vay một khoản tiền để họ sử dụng vào hoạt động sản suất kinh
doanh hoặc tiêu dùng. Yếu tố mà tổ chức tín dụng xem xét để quyết định cho
vay chính là tính hiệu quả của việc sử dụng tiền vay và căn cứ vào các biện
pháp đảm bảo tiền vay. Nói cách khác, khi tiến hành cho vay TCTTD sẽ
không bị phụ thuộc vào thời hạn tối đa hay tối thiểu phải tuân thủ. Căn cứ
vào nhu cầu xin vay của bên đi vay, TCTD có thể tiến hành cho vay với
nhiều thời hạn khác nhau, thậm chí thời hạn vay có thể chỉ là một vài ngày
(trong trường hợp cho vay qua đêm). Đây chính là điểm khác biệt giữa hoạt
động cho vay và các hoạt động cấp tín dụng khác của TCTD. Cụ thể, trong
hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn vay phụ thuộc vào thời gian khấu hao
của tài sản thuê. Trong chiết khấu giấy tờ có giá, TCTD phải căn cứ vào thời
hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá để quyết định có nên mua lại hay
không. Còn đối với hoạt động bao thanh toán, thời hạn cấp tín dụng phải căn
cứ vào thời gian phát sinh các khoản phải thu của bên được cấp tín dụng.
- Thứ tư: quan hệ cho vay được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật ngân
hàng. Với bản chất là hoạt động ngân hàng nên quan hệ pháp luật về cho vay
giữa TCTD và khách hàng chịu sự điều chỉnh trước tiên và trên hết bởi các
quy định của pháp luật ngân hàng . Luật các TCTD đã có nhiều quy định về
hoạt động cho vay như điều kiện vay vốn, nội dung hợp đồng tín dụng, các
biện pháp bảo đảm tiền vay, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
tín dụng.vv… Để cụ thể hóa các quy định này của luật các TCTD, NHNN đã
ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban
hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước và được sửa đổi bổ xung bởi các quyết định số
127/2005/QĐ-NHNN và số 738/2005/QĐ-NHNN), điều chỉnh khá chi tiết
các nội dung của quan hệ cho vay. Chính vì vậy, mặc dù cũng có bản chất là
quan hệ pháp luật dân sự, nhưng bộ luật dân sự chỉ đóng vai trò là luật
chung, còn luật các TCTD là luật chuyên ngành. Do đó, chỉ những vấn đề
không được luật các TCTD điều chỉnh, các bên mới vận dụng các quy định
trong bộ luật dân sự để áp dụng.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động cho vay của các TCTD:
Để hoạt động cho vay được đảm bảo an toàn, phù hợp với lợi ích của
cả bên cho vay và bên vay, hoạt động cho vay của TCTD được thực hiện
trên những nguyên tắc nhất định, và các nguyên tắc này có ảnh hưởng quan
trọng đến việc xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động cho vay. Các nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc hoàn trả: cơ sở lý luận của nguyên tắc này dựa vào đặc điểm,
với tư cách là chủ thể trung gian tín dụng, TCTD chủ yếu sử dụng số tiền
huy động được từ các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay.
Ở giai đoạn huy động vốn, TCTD tham gia với tư cách là người đi vay, do
vậy phải có nghĩa vụ hoàn trả cho người gửi tiền đúng hạn cả gốc và lãi,
muốn thực hiện được điều này, với tư cách là chủ thể cho vay, TCTD có
quyền yêu cầu bên đi vay hoàn trả cho mình đúng hạn cả gốc và lãi. Ngay cả
khi chính TCTD( bên cho vay) là chủ thể vi phạm hợp đồng thì bên vay vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Những vi phạm của bên cho vay sẽ chịu
những chế tài sử lý như phạt vi phạm hoặc bồi thường thệt hại chứ không thể
bù trừ vào số tiền bên vay phải trả.
Để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả, pháp luật có các quy định nhằm yêu
cầu TCTD phải đánh giá khả năng của bên vay, xây dựng các phương án
phòng ngừa rủi ro cũng như giám sát khoản vay hiệu quả. Bên cạnh đó, pháp
luật cũng cho phép các bên có những thỏa thuận sửa đổi hợp đồng phù hợp
như gia hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ để bên vay thực hiện tốt nghĩa vụ
hoàn trả của mình.
- Nguyên tắc tín nhiệm: tín nhiệm là nền tảng của tín dụng, tức là việc
chuyển giao nguồn vốn chỉ được thực hiện khi TCTD( bên cho vay) có niềm
tin vào khả năng trả nợ của bên vay. Nguyên tắc tín nhiệm sẽ đảm bảo cho
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
TCTD quyết định cho vay một cách chính xác và hiệu quả, không làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của TCTD đối với các khoản vốn đã huy động từ
nhận tiền gửi và các hình thức huy động khác.
Để đảm bảo nguyên tắc tín nhiệm, pháp luật đã quy định bên vay phải
thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được quyền vay vốn. Bên cạnh đó,
pháp luật cũng cho phép TCTD được quyền đánh giá về khả năng tài chính
của khách hàng rồi mới quyết định cho vay. Để có được sự tín nhiệm của
TCTD, bên vay cần chứng tỏ năng lực tài chính, khả năng sử dụng vốn vay
và có những cam kết chắc chắn về khả năng trả nợ. Để tăng them sự tín
nhiệm, trong nhiều trường hợp, các bên có thể thỏa thuận về các biện pháp
bảo đảm khả năng trả nợ như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh.
Tuy nhiên, cơ sở của lòng tin( sự tín nhiệm) này không đơn thuần dựa
vào ý chí củ quan của người ra quyết định cho vay mà cần thiết phải có
những tiêu chí nhất định. Những tiêu chí này pháp luật cho phép TCTD
được quyền quy định trong quy chế cho vay của mình. Do đó trên thực tế có
những trường hợp chủ thể có đủ điều kiện vay vốn theo quy định của pháp
luật nhưng TCTD vẫn cảm thấy có yếu tố rủi ro thì vẫn có thể bị từ chối cho
vay.
II. Phân loại các hình thức cho vay và ý nghĩa pháp lý của từng hình
thức phân loại:
Như ta đã biết, vấn đề phân loại cho vay của TCTD cần phải căn cứ
vào nhiều tiêu chí cơ bản khác nhau, và mỗi cách phân loại đó lại đem đến
những ý nghĩa và mục đích nhất định. Dưới đây là những cách thức phân
loại cơ bản nhất và ý nghĩa pháp lý của từng cách phân loại đó:
1. Phân loại cho vay của TCTD dựa vào tiêu chí thời hạn vay:
Căn cứ vào tiêu chí này, hoạt động cho vay của TCTD có thể được chia
thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. Chỉ có các
TCTD là ngân hàng được thực hiện tất cả các hình thức cho vay trên, còn
các TCTD phi ngân hàng thì chỉ được thực hiện hoạt động cho vay trung và
dài hạn. Điều này cho ta thấy phạm vi về thời hạn cho vay của TCTD là
ngân hàng thường diễn ra rộng hơn, phổ biến hơn so với các loại hình TCTD
khác. Và để đảm bảo khả năng chi trả của TCTD, pháp luật có quy định
TCTD không được dành quá nhiều vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung
và dài hạn. Theo quy định mới nhất của NHNN, thông tư số 15/2009/TT-
NHNN quy định: đối với ngân hàng thương mại, không được sử dụng quá
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn; đối với quỹ tín dụng
nhân dân trung ương là 20%, tỷ lệ này đối với công ty tài chính và công ty
cho thuê tài chính là 30%.
Dưới đây là từng hình thức cho vay cụ thể:
1.1.Hình thức cho vay ngắn hạn:
Theo quy định tại khoản 1 điều 8 của quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của thống đôc NHNN thì “ Cho vay ngắn hạn là các khoản
vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng”. Như vậy ta có thế thấy đây là loại
hình cho vay có thời hạn dưới một năm, vì thế mà mục đích của loại hình
cho vay này thường là nhằm tài chợ cho việc đầu tư vào tài ản lưu động, đáp
ứng nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc
thỏa mãn các nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời gian ngắn mà
cụ thể ở đây là không quá 12 tháng.
- Các loại cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của TCTD:
+ Cho vay mua hàng dự trữ : là loại cho vay để tài trợ mua hàng tồn kho
như nguyên liệu, bán thành phẩm, giá thành. Đây là loại hình cho vay ngắn
hạn chủ yếu của TCTD là ngân hàng. Đặc điểm của loại hình cho vay này là
việc ngân hàng sẽ xem xét cho vay từng lần theo từng đối tượng cụ thể, và kì
hạn nợ của loại cho vay này bắt đầu từ lúc bỏ tiền mua hàng tồn kho và
chấm dứt khi hàng tồn kho đã tiêu thụ và thu được tiền. Phương thức cho
vay đối với dự trữ hàng tồn kho được áp dụng là phương pháp cho vay ứng
trước, thời hạn cho vay gắn liền với chu kì ngân quỹ của doanh nghiệp.
+ Cho vay vốn lưu động: Là loại cho vay nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu dự
trữ hàng tồn kho và đặc điểm gần giống cho vay mua hàng dự trữ, tuy nhiên
đặc điểm của loại hình cho vay này khác ở chỗ đối tượng cho vay là toàn bộ
nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt, hạn mức tín dụng là cơ sở để ngân hàng cho
vay và giải ngân, và không có kì hạn cụ thể cho từng lần giải ngân mà chỉ có
thời hạn cho vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vố vay. Chi phí của
món vay gồm có chi phí trả lãi và chi phí ngoài lãi như phí cam kết sử dụng
hạn mức. Thời hạn cho vay tùy theo đặc điểm về chu kì sản xuất kinh doanh
và khả năng tài chính của từng khách hàng mà thời hạn có thể là vài ngày
đến một năm
+ Cho vay dựa trên tài sản có: là loại cho vay dựa trên cơ sở số dư của các
khoản phải thu, tồn kho nguyên liệu, thành phẩm. Tài sản bảo đảm cho các
khoản vay này là các tài sản được tài trợ. Đối với các khoản phái thu, hoạt
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
động cho vay này được thực hiện thông qua nghiệp vụ triết khấu hoặc
nghiệp vụ mua nợ.
+ Cho vay ngắn hạn công trình xây dựng: đối với các doanh nghiệp hoạt
đọng trong lĩnh vực xây dựng, sau khi nhận được các công trình xây dựng
thì cần phải ứng vốn mua nguyên liệu, thuê thiết bị…để thực hiện thi công
và khi công trình, hạn mục công trình hoàn thành thì mới được chủ đầu tư
thanh toán theo thỏa thuận ở hợp đồng nhận thầu, vì vậy, cho vay ngắn hạn
đối với các doanh nghiệp xây dựng để đáp ứng nhu cầu vốn trong quá yrinhf
thi công thì cần chú ý các đểm sau: Việc xem xét cho vay phải chủ yếu dựa
vào từng hợp đồng nhận thầu; đối tượng cho vay là tiền thuê nhân công,
thiết bị, …để thực hiện thi công theo hợp đồng nhận thầu; kì hạn nợ được
xác định dựa vào kế hoạch thi công theo hợp đồng nhận thầu; nguồn thu nợ
là tiền thanh toán của nhà đầu tư; hợp đồng nhận thầu là cơ sở bảo đảm cho
khoản tiền vay.
Ngoài ra, hoạt động cho vay ngắn hạn của TCTD còn được áp dụng đối với
các loại vay để kinh doanh chứng khoán, vay để kinh daonh bán lẻ và cho
vay đối với các định chế tài chính khác.
+ Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn
được thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ cho tổ
chức tín dụng để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức triết khấu.
Chứng từ có giá là những phương tiện chuyển tải và dự trữ giá trị do những
đơn vị được phép phát hành hợp pháp và được pháp luật thừa nhận như: kì
phiếu, trái phiếu. tín phiếu, thương phiếu…
+ Thấu chi: là một nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ xung vón lưu động nhằm
cân đối ngân quỹ hàng ngày trên tài khoản vãng lai của khách hàng. Nghiệp
vụ thấu chi được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được dư nợ tài
khoản vãng lai một số tiền nhất định và trong một thời gian nhất định.
1.2. Hình thức cho vay trung hạn và cho vay dài hạn:
Khoản 2 điều 8 quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
thống đốc NHNN quy định: “ Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời
hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng”. Đây là loại hình cho vay trong
đó các bên thỏa thuận thời hạn sử dụng vốn vay là từ 1 đến 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định hay
được sử dụng để mua sắm các loại tài sản mà khách hàng( bên vay ) cần
trong kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, đi học hoặc tiêu dùng…