Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Giáo trình chiết và cô lập các hợp chất tự nhiên, chương 6 sắc ký gel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.04 KB, 16 trang )

CHƯƠNG 6: SẮC KÝ GEL
I. ĐỊNH NGHĨA, NGUYÊN TẮC
Sắc ký gel được Mould D.L phát triển từ năm 1954 dùng để tách các hợp chất
không mang điện tích theo thứ tự trọng lượng phân tử của chúng. Nguyên tắc sắc ký
không thay đổi nhưng tên gọi của chúng thay đổi theo thời gian. Năm 1959, tác giả Porath
và Flodin gọi là Gel filtration; đến năm 1964, Moor gọi là Gel permeation
Chromatography. Cuối cùng, cũng năm 1964 người ta gọi là Gel chromatography và danh
từ “sắc ký gel” được sử dụng thống nhất trong bài này.
Trong sắc ký gel, pha tĩnh là mạng polimer có lỗ rỗng, các lỗ rỗng này được
phủ đầy bởi dung môi dùng làm pha động. Kích thước của các lỗ rỗng phải đồng nhất, bởi
vì kỹ thuật sắc ký gel dùng để tách các chất theo trọng lượng phân tử. Các phân tử có kích
thước lớn hơn kích thước lỗ rỗng sẽ không lọt vào trong lỗ rỗng và bị dung môi làm pha
động cuốn ra khỏi cột. Còn các phân tử có kích thước nhỏ hơn kích thước lỗ rỗng sẽ chui
vào trong các lỗ rỗng và bị giải ly ra khỏi cột chậm hơn.
Như vậy, các thành phần khác nhau trong hỗn hợp cần phân tích sẽ ra khỏi cột
lần lượt theo trọng lượng phân tử, phân tử lớn bị giải ly ra cột trước phân tử nhỏ sẽ lần
lượt ra sau.
(a) : hỗn hợp mẫu được nạp trên đầu cột với (.) là phân tử có kích thước nhỏ và
(•) là các phân tử có kích thước lớn.
(b) : việc tách đang xảy ra một phần, phân tử lớn bắt đầu tách ra khỏi phân tử
nhỏ.
(c) : việc tách xảy ra hoàn toàn, phân tử lớn chuẩn bị ra khỏi cột.
Tất cả các phân tử lớn cùng bị giải ly ra khỏi cột một lượt nhưng không thể
tách riêng ra được. Tương tự, các phân tử nhỏ chui vào lỗ gel cũng không tách riêng ra
được. Các phân tử có kích thước trung bình sẽ bị giữ lại trong cột tùy theo mức độ chui
vào lỗ rỗng của hạt. Nếu các hợp chất có chứa cùng nhóm chức hóa học, chúng sẽ giải ly
ra khỏi cột theo trọng lượng tương đối giữa chúng.
Lức hấp thu trên bề mặt hạt Gel được bỏ qua nên sắc ký gel được xem như một
loại sắc ký phân chia. Pha tĩnh lỏng là chất lỏng nằm trong hệ mạng và pha động là dung
môi di động, phủ tất cả các phần còn lại trong cột sắc ký. Nói một cách khác, đây là loại
cột sắc ký phân chia giữa 2 pha lỏng (pha tĩnh và pha động) mà cả 2 pha có cùng thành


phần.
Sắc ký gel đầu tiên được dùng để tách các phân tử sinh học, thí dụ như hệ gel
dextran nối mạng ngang chỉ phù hợp khi giải ly với dung môi là nước. Năm 1964, hệ gel
polystyrene nối mạng ngang được chế tạo để giải ly với các hệ dung môi hữu cơ và được
sử dụng để tách riêng các hợp chất đồng thời còn được dùng để xác định một cách tương
đối nhanh chóng trọng lượng phân tử cảu các hợp chất.
II. PHÂN LOẠI HẠT GEL DÙNG TRONG SẮC KÝ GEL
Việc tách trong sắc ký gel tùy thuộc vào đặc điểm của lỗ rỗng trong hệ mạng
không gian 3 chiều. Hạt gel phải có kích thước khác nhau, trơ về mặt hóa học, bền cơ học
và các lỗ rỗng phải có cấu trúc với hình dạng đồng nhất.
Mỗi loại gel có khoảng giới hạn về khả năng tách (theo kích thước phân tử) tùy
theo kích thước lỗ rỗng của loại gel đó. Do đó để tách một hỗn hợp mẫu có chứa nhiều
loại hợp chất có trọng lượng phân tử khác nhau, người ta có thể dùng nhiều loại gel khác
nhau, mỗi loại gel tách riêng ra một loại hợp chất nào đó.
Các nhà sản xuất đã có những loại gel thương mại rất tốt, tuy nhiên những loại
gel này không chịu được điều kiện có tính acid hoặc baz quá mạnh. Các nhà sản xuất ít có
những loại gel có lỗ rỗng lớn vì những loại này thường kém bền cơ học, khi tiến hành sắc
ký với áp suất nhỏ thì hạt keo dễ bị bóp méo, biến dạng làm ảnh hưởng tới vận tốc dòng
chảy của pha động. Giống như các loại sắc ký khác, hạt gel dùng trong sắc ký gel có dạng
hình cầu. Kích thước hạt gel càng nhỏ càng tốt nhưng phải đảm bảo dòng chảy thích hợp.
Có 2 loại nguyên liệu chính để chế tạo gel: xerogel và aerogel. Xerogel là loại
gel cổ điển, gồm một polymer có nối mạng ngang. Khi tiếp xúc với dung môi sẽ trương
nở tạo thành một mạng gồm những lỗ rỗng tương đối mềm, trong đó các lỗ trống là
khoảng trống giữa những chuỗi dây polymer trong hệ mạng. Nếu dung môi được tách
riêng ra khỏi hệ mạng, cấu trúc gel này sẽ xụp đổ, đôi khi cấu trúc này cũng được tái tạo
khi cho dung môi trở lại.
Ngược lại, aerogel là một nguyên liệu rắn chắc và không phải là gel thực sự.
Đó là loại chất rắn có lỗ rỗng, dung môi chui vào trong lỗ rỗng này, vì thế nó không bị
sụp đổ khi người ta loại bỏ dung môi khỏi hạt gel. Thí dụ, thủy tinh có lỗ rỗng và Silica
có lỗ rỗng. Một vài loại nguyên liệu khác là sự pha trộn giữa xerogel và aerogel, loại này

có cấu trúc tương đối rắn chắc, nhưng có thể trương nở trong dung môi giống như nhựa
trao đổi ion.
II.1. Del dextran
Gel dextran với tên thương mại là Sephadex Gel (hãng Pharmacia, Sweden) là loại
được điều chế đầu tiên và hiện vẫn còn thông dụng. Nguyên liệu là polisaccharid tự nhiên
mạch thẳng, tức là chuỗi dây poliglucose nối nhau bởi nối α-1,6. Nguyên liệu không tan
trong môi trường nước .
Các chuỗi dây polysaccharid của dextran khi được cho phản ứng với hợp chất
epiclorohidrin, trong điều kiện kiềm, ở trong một môi trường dung môi hữu cơ, sẽ nối
mạng ngang với nhau bởi cầu nối glyceril giữa các nhóm –OH (hình 2), để tạo thành chất
rắn, dạng chuỗi không tan trong nước, nhưng có tính ái nước do mang nhiều nhóm
hydroxi. Đây là yếu tố giúp cho gel có thể trương nở trong dung dịch có nước; gel có thể
giữ nước với số lượng là 1-20 ml/g gel.
Khi thay đổi tỉ lệ giữa dextran và epiclorohidrin thì độ tạo mạng ngang sẽ thay đổi.
Nhờ vậy người ta có thể điều chế nhiều loại gel Sephadex với lỗ rỗng có kích cỡ khác
nhau, để có thể áp dụng tách riêng các hợp chất theo nhiều trọng lượng phân tử khác
nhau. Gel Sephadex không tan trong nước, bền trong nước, trong các dung dịch muối,
dung dịch kiềm và trong môi trường dung môi hữu cơ. Gel có thể ổn định an toàn trong
khoảng pH từ 2-12, mặc dù trong môi trường acid mạnh vẫn có sự thủy giải nối glycosid.
Tồn trữ Gel: Cột gel có thể được sử dụng nhiều lần cho nhiều thí nghiệm, khi không
sử dụng nữa, tồn trữ bằng cách giữ nguyên trong cột (bịt chặt đầu cột để luôn có một lớp
dung môi trên bề mặt gel), nhưng nếu để nguyên như thế gel có thể bị các vi sinh vật làm
hư hại. Có thể tránh bằng cách thêm azid natri NaN
3
vào dung dịch giải ly cuối với nồng
độ 0,02%. Ngoài ra, sau khi sử dụng xong có thể làm gel trở lại dạng bột khô như ban đầu
bằng cách sau:
- Cho gel vào một phễu lọc xốp để rữa sạch muối; tiếp theo rữa với EtOH 50% để
làm giảm thể tích còn phân nữa.
- Cho gel này vào EtOH 99% với tỉ lệ thể tích gel:EtOH là 1:2. Cho tiếp xúc trong

30 phút, thỉnh thoảng khuấy đảo nhẹ. Lọc thu gel, rồi lại ngâm vào EtOH như thế
nhiều lần. Sấy khô gel ở nhiệt độ 60-80
o
C sẽ thu được bột khô rời dạng hạt. Nếu
bột khô không rời là do còn EtOH trong hạt gel thì tiếp tục sấy tiếp, chú ý khi nhiệt
độ sấy khoảng 120
o
C thì hạt gel biến thành màu nâu.
Trong các loại gel Sephadex, thường có kèm theo một chỉ số để chỉ lượng nước
mà gel khô cần hút để thành gel trương nở. Bảng 2 cho thấy gel Sephadex G-15 sẽ hút
3ml nước/g gel khô. Trong khi đó loại G-100 có độ hút nước là 15ml/g gel khô. Vậy gel
G-15 chặt chẽ hơn G-100 nên được dùng để tách các hợp chất có khối lượng phân tử nhỏ
hơn.
Các gel có độ nối mạng cao như Gel-10, Gel-15 trương nở trong nước và có thể
trương nở trong các dung môi hữu cơ sau: dimetil formamid (DMF), dimetil sulfoxid
(DMSO), etilen glycol; methanol-nước, nên gel thường được sử dụng để tách các hợp
chất tự nhiên thuộc các hợp chất có thể tan được trong nước như: carbohydrat, các peptid
nhỏ. Cơ chế tách chủ yếu theo kiểu sắc ký gel, nhưng cũng có cơ chế khác như cơ chế hấp
phụ.
Bảng 18: Các loại gel Sephadex Gel và khả năng phân đoạn của gel
Loại gel
Sephadex
Khả năng tách các hợp chất
theo trọng lượng phân tử
Thể tích trương nở trong nước (ml/g
gel khô)
G-10 0-700 2.5
G-15 0-1.500 3
G-25 100-5.000 5
LH-20 100-4.000

Trương nở trong cloroform hoặc
ethanol bằng như trương nở trong nước
G-50 500-10.000
G-100 1000-100.000
Gel Sephadex LH-20 là Gel Sephadex G-25 được hydroxipropil hóa. Việc biến
thành dẫn xuất này giúp cho gel vừa có tính ái nước vừa có tính thân dầu. Gel Sephadex
LH-20 trương nở tốt trong dung môi phân cực: nước, methanol, tetrahydrofuran. Gel
trương nở gấp 4 lần thể tích lúc khô. Nhờ khả năng có thể trương nở tốt trong dung môi
hữu cơ phân cực mà gel Sephadex LH-20 được ưa chuộng trong việc tách các hợp chất tự
nhiên tan được trong dung môi hữu cơ. Các hợp chất có trọng lượng phân tử khoảng
4.000 thường không giữ lại trong gel nên được giải ly ra khỏi cột gel ngay trong thể tích
trống của cột. Khả năng tách các hợp chất theo trọng lượng phân tử khoảng 100-4.000.
III.
IV. II.2. Gel polyacrylamid
Bio-gel là gel polyacrylamid được tổng hợp bằng cách cho ngưng tụ acrylamid
với tác nhân nối mạng ngang là N,N’-metilen bisacrylamid. Kích cỡ các lỗ rỗng có thể
điều chỉnh bằng cách thay đổi tỉ lệ giữa các monomer. Gel polyacrylamid giống như gel
Dextran là có thể giữ được nước với lượng 1,5-18 ml/g gel khô.
So với gel Sephadex, gel polyacrylamid ít bền trong môi trường kiềm và có thể
bị thủy giải nhóm amid thành nhóm acid carboxylic.
V. II.3. Gel polyacryloilmorpholin
Đây là loại gel Enzacryl, được tạo thành khi cho đồng polymer hóa giữa
acryloilmorpholin với N,N’-metil bisacrylamid. Gel trương nở trong nước, cũng trương
nở trong piridin, cloroform nhưng không trương nở trong những alcol thấp.
VI. II.4. Gel polysryren
Polymer styren-divinylbenzen là loại thông dụng trong việc chế tạo các nhựa
trao đổi ion, nhưng để chế tạo gel thì nguyên liệu không được có chứa các nhóm được ion
hóa, sẽ tạo thành gel trong dung môi hữu cơ ít phân cực, Một loại gel này là Bio-Beads S.
Tuy nhiên, loại gel này có kích thước lỗ rỗng rất nhỏ nên việc sử dụng có giới hạn.
VII. II.5. Gel polyvinyl acetat

Đây là gel Merk-O-Gel được tạo thành khi đồng phân hóa giữa vinylacetat với
1,4-divinyloxibutan, sẽ được tạo thành loại gel có khả năng hoạt động trong dung môi
hữu cơ phân cực, kể cả alcol.
VIII. II.6. Gel agarose
Bảng 19: Các loại gel Bio-Gel và khả năng phân đoạn của gel
Gel Bio-Gel Khả năng tách các hợp chất
theo trọng lượng phân tử
Thể tích gel trương nở trong
nước (ml/g gel khô)
P-2 200-2.000 3.8
P-4 500-4.000 6.1
P-6 1.000-5.000 7.4
P-10 1.500-17.000 12
P-30 20.000-50.000 14
P-60 30.000-70.000 18
P-100 40.000-100.000 22
P-150 50.000-150.000 27
P-200 80.000-300.000 47
P-300 100.000-400.000 70
Tất cả các loại Xerogel với loại lỗ rỗng to, khi trương nở sẽ cho gel rất mềm.
Để khắc phục nhược điểm này, người ta điều chế gel agarose. Agarose là polysaccharid
(là những đơn vị gồm các nối 1,3-β-D-galactose hoặc 1,4-β-D-galactose nối với 3,6-
anhydro-α-L-galactose). Ở nhiệt độ >50
o
C , gel tan trong nước và nếu dung dịch để nguội
<30
o
C, gel được thành lập và bấy giờ không tan khi <40
o
C. Trên nhiệt độ này, gel nóng

chảy hoặc xụp đổ. Gel agarose có độ bền hóa học giống như gel Dextran.
Có nhiều loại gel agarose thương mại như: Sepharose, Bio-Gel A, Gelarose,
Sagavac. Các loại gel này có thể được sản xuất với lỗ trống rất to. Các gel agarose có độ
bền cơ học cao hơn gel dextran cùng cỡ lỗ. Để làm gel trương nở, cần ngâm gel trong
dung môi trong 2 giờ (gel P-2) đến 24 giờ (gel P-300).
IX. II.7. Gel Silica có lỗ rỗng
Nhiều nhà sản xuất có loại gel silica thương mại với nhiều cỡ lỗ (Porasil,
Merck-O-Gel) và có cấu trúc hạt rắn chắc. Gel có thể sử dụng trong một số dung môi hữu
cơ, nhưng tốt nhất vẫn là sử dụng trong nước. Các loại gel này có độ phân cực tương đối
cao và gel có thể có khuynh hướng bắt giữ các phân tử theo cơ chế hấp thu.
X. II.8. Gel thủy tinh có lỗ rỗng
Có nhiều loại hạt thủy tinh có lỗ rỗng (Corning, Bio-Glass). Hạt gel này có thể
được sử dụng trong sắc ký gel, trong cả hai môi trường nước và dung môi hữu cơ.
Gel có nhược điểm là có thể có hiện tượng hấp thu trên bề mặt silica vì các
nhóm mang một phần điện tích âm. Ưu điểm của gel là có cơ cấu rắn chắc, bền nhiệt, bền
lực, sử dụng được trong cả dung môi nước lẫn hữu cơ.
XI. PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH SẮC KÝ CỘT GEL
XII. III.1.Một số thông số về cột gel
Một cột gel được hình thành khi rót dung dịch huyền phù gồm những hạt gel đã
trương nở trong dung môi vào trong một ống dài, hình trụ đều. Có một cân bằng liên quan
đến các loại thể tích như sau:
V
t
=V
o
+V
i
+V
m
V

t
: tổng thể tích của cột gel có thể đo được (Bed volume)
V
o
: thể tích trống, thể tích chết, thể tích dung môi nằm trong cột gel. Thể tích
dung môi cần thiết để đuổi hợp chất có màu, có trọng lượng phân tử lớn, không bị giữ
trong lỗ gel, ra khỏi cột gel (Void volume, Dead volume).
V
i
: thể tích của một hợp chất tan (solute) của mẫu cần sắc ký
V
m
: thể tích các hạt gel đã trương nở nằm trong cột.
XIII. III.2. Các nguyên tắc cơ bản để thực hành sắc ký cột gel
Cột sắc ký gel thường được chuẩn bị theo kiểu nhồi cột sệt với huyền phù
nguyên liệu gel trong một lượng dung môi phù hợp. Huyền phù gel trong dung môi (có
thể loại bỏ những hạt cực mịn bằng cách lắng, gạn) được điều chỉnh sao cho thật sệt
nhưng vẫn bảo đảm khi rót vào cột vẫn có thể chảy được thành dòng. Muốn có huyền phù
gel phải ngâm gel trong dung môi theo điều kiện trong bảng 4.
Bảng 20: Thời gian ngâm gel Sephadex trong dung môi để trương nở
Loại gel Thời gian ngâm ở t
o
p
Thời gian ngâm ở 100
o
C
G-10, G-15, G-25, G-50 3 giờ 1 giờ
G-75 24 giờ 3 giờ
G-100, G-150, G-200 3 ngày 5 giờ
• Khi rót huyền phù gel vào cột xong, ổn định cột bằng cách cho dung môi giải ly

chảy ngang qua cột. Lượng dung môi có thể tích bằng 2-3 lần thể tích cột, tốc độ
chảy có thể nhanh hơn một ít so với khi thực nghiệm thực sự.
• Tiếp theo cột được kiểm tra bằng cách cho một lượng mẩu kiểm tra, thường là
Dextran Blue 2000, vào đầu cột. Thể tích dung dịch mẫu <105 thể tích cột. Cho
dung môi giải ly để đuổi hoàn toàn lượng mẫu ra khỏi cột: mẫu có mù xanh dương
nên có thể theo dõi bằng mắt thường. Nếu cột được nhồi một cách chặt chẽ và đều
đặn thì mẫu kiểm tra ra khỏi cột bằng một dãy hẹp nằm ngang.
Cách thử này cũng dùng để đo thể tích trống V
o
của cột (void volume). V
o

thể tích dung môi cần thiết để đuổi một hợp chất màu (không bị giữ lại trong gel) ra khỏi
cột sắc ký.
Lưu ý: trong suốt quá trình nạp gel cũng như trong quá trình triển khai sắc ký,
không được để khô lớp mặt gel trên đầu cột.
Chuẩn bị mẫu để sắc ký
Dung dịch mẫu cần được loại bỏ những hợp chất còn ở dạng rắn cũng như
những phân tử có thể bị hấp thu mạnh mẽ lên bề mặt gel.
Khối lượng mẫu và nồng độ của những chất tan có trong mẫu chỉ quan trọng
khi chúng có ảnh hưởng đến độ nhớt của dung dịch mẫu. Nếu độ nhớt của mẫu cao hơn 2
lần độ nhớt của dung môi giải ly thì có thể ảnh hưởng đến kết quả tách chất.
Thể tích dung dịch mẫu cũng quan trọng. Thể tích lớn nhất có thể sử dụng là
(V
e1
-V
e2
) ; với V
e1
và V

e2
là thể tích để lần lượt giải ly 2 hợp chất có đặc điểm gần giống
nhau nhất. Với những loại mẫu mà (V
e1
-V
e2
) lớn, thể tích dung dịch mẫu có thể chiếm 10-
30% tổng thể tích cột gel (V
t
). Với những dung dịch mẫu mà (V
e1
-V
e2
) nhỏ, thể tích dung
dịch mẫu chỉ nên là 1-3% của thể tích V
t
.
Dung dịch mẫu cần được hòa tan vào dung dịch đệm. Đặt dung dịch mẫu lên
đầu cột giống như khi thực hành trong cột silica gel cổ điển. Giải ly cột có thể bằng trọng
lực hoặc bằng bơm đẩy.
Triển khai giải ly rất đơn giản, chỉ sử dụng kỹ thuật dung môi đơn nồng độ.
Các chất tan sẽ ra khỏi cột theo thứ tự trọng lượng phân tử giảm dần.
XIV. III.3. Chuẩn bị cột sắc ký gel Sephadex LH-20
Kể từ năm 1959, sắc ký gel đã được áp dụng nhiều trong ngành sinh hóa để
tách các hợp chất có trọng lượng phân tử lớn như polysaccharid hay protein.Trong ngành
hóa học hữu cơ, các chất cần phân tách thường có trọng lượng phân tử nhỏ, ít khi dùng kỹ
thuật sắc ký gel này, mà thường dùng sắc ký gel để loại muối với gel Sephadex LH-20
hoặc Sephadex G-15.
Kích thước của cột: Chọn cột thủy tinh có đường kính từ 1,5-2,5 cm. chiều dài
từ 40-100cm. Kích thước cột được điều chỉnh tùy vào thể tích gel sử dụng.

Lượng mẫu và lượng gel: trung bình với 1 mg mẫu hợp chất cần sắc ký, cần
1ml gel đã trương nở.
Cho trương nở gel: Trong một erlen hoặc một becher, cho gel khô Sephadex
LH-20 vào, cho một lượng dung môi methanol vừa đủ, để yên qua đêm cho gel trương nở.
Quan sát nếu cần thiết thì cho thêm methanol vào sao cho dung dịch huyền phù gel tuy sệt
nhưng có thể chảy được thành dòng.
Gel Sephadex LH-20 có thể ngâm trong các dung môi hữu cơ để cho trương nở
theo bảng 21
Nạp gel vào cột: Sử dụng cột thủy tinh, đầu ra có chặn bằng thủy tinh xốp để
gel không bị chảy ra khỏi cột, cột được dựng thẳng đứng trên một giá, mở một phần
khóa ở đầu ra. Rót dung dịch huyền phù gel vào cột, dung môi chảy ra ở đầu dưới cột. Rót
dung dịch gel vào cột thành một dòng nhỏ, đều, chậm chậm sao cho chỉ rót một lần là hết
lượng gel (để tạo thành một khối gel đồng đều và chặt chẽ), tránh rót thành nhiều đợt. Có
thể gỏ nhẹ bên ngoài thành cột để cho gel được nén đều.
Bảng 21: Thể tích gel Sephadex trương nở trong các loại dung môi
Dung môi Lượng dung môi hấp thu (ml/g) Thể tích gel (ml/g)
Dimethylfornamid 2.2 4.0-4.5
Nước 2.1 4.0-4.5
Methanol 1.9 4.0-4.5
Ethanol 1.8 3.5-4.5
Cloroform (1% ethanol) 1.8 3.5-4.5
Cloroform 1.6 3.0-3.5
n-Buthanol 1.6 3.0-3.5
Tetrahydrofuran 1.4 3.0-3.5
Aceton 0.8 -
Acetat ethyl 0.4 -
Toluen 0.2 -
Cân bằng cột gel: Khi nạp cột xong, tiếp tục cho dung môi như methanol chảy
ngang qua cột với vận tốc 1-5ml/phút để gel cân bằng với methanol.
Lượng dung môi hòa tan mẫu: Mẫu được hòa tan trong dung môi methanol

- Nếu mục đích sắc ký là để tách riêng các hợp chất thì lượng dung môi là 1-5% thể
tích cột gel. Thí dụ nếu thể tích cột gel là 200ml thì lượng dung môi hào tan mẫu là
10 ml.
- Nếu mục đích sắc ký là loại muối thì lượng dung môi có thể đến 30% thể tích cột
gel.
Nạp mẫu vào đầu cột: Mở khóa để hạ mức dung môi xuống gần sát mặt
thoáng gel trên đầu cột, sử dụng pipet để đưa dung dịch mẫu lên đầu cột gel. Mở khóa để
dung môi chảy ra khỏi cột đến khi mức dung môi xuống sát mặt thoáng gel trên đầu cột,
khóa cột lại, cho thêm một ít methanol vào, mở khóa để dung môi chảy ra. Làm như thế
nhiều lần để cho dung dịch mẫu thấm sâu vào lớp gel trên đầu cột. Đến khi bắt đầu giải
ly, mẫu không hòa tan trở lại dung môi giải ly.
Giải ly cột: Cho dung môi vào đầy phần trên đầu cột và mở khóa bên dưới để
bắt đầu giải ly. Sử dụng kỹ thuật dung môi đơn nồng độ.
Có thể giải ly bằng trọng lực, vận tốc từ 10-15cm/giờ.
Tốt nhất là có thể sử dụng máy bơm đẩy khí trên đầu cột vì có thể điều chỉnh
được vận tốc 2-4ml/phút.
XV. CÁC ỨNG DỤNG CỦA KỸ THUẬT SẮC KÝ GEL
IV.1. Tách một hỗn hợp thành các nhóm chất riêng lẻ
Áp dụng đơn giản nhất của sắc ký gel là tách 2 nhóm hợp chất tan có kích
thước khác xa nhau. Nếu chọn được loại gel thích hợp, hợp chất có khối lượng phân tử
lớn sẽ bị đuổi hoàn toàn ra khỏi cột gel, thường bị đuổi ra khỏi cột ngay từ thể tích trống
V
o
. Còn hợp chất có khối lượng phân tử nhỏ sẽ bị giữ chặt trong cột và bị đuổi ra sau.
Thí dụ: trong quá trình chuyển đổi hóa học, các hợp chất protein có trọng lượng
phân tử lớn sẽ sinh ra các phụ phẩm có trọng lượng phân tử nhỏ hơn như urê, đường,
peptid…Các phụ phẩm này được loại bỏ ra khỏi sản phẩm có trọng lượng phân tử lớn
bằng sắc ký gel.
IV.2. Xác định trọng lượng phân tử của một hợp chất có trọng lượng phân
tử lớn

Đầu tiên, sắc ký gel được sử dụng để tách các đại phân tử có nguồn gốc sinh
học như: polysaccharid, protein, acid nucleic và enzym. Các quan sát thấy rằng các hợp
chất bị đuổi ra khỏi cột theo thứ tự trọng lượng phân tử giảm dần. Người ta sử dụng
nguyên tắc này để ước đoán trọng lượng phân tử của một hợp chất chưa biết.
Cách thực hiện: Cột gel được sắc ký lần lượt bởi nhiều hợp chất cùng chủng
loại có trọng lượng phân tử đã biết, vẽ đường biểu diễn mối quan hệ giữa thể tích giải ly
và trọng lượng phân tử. Với một hợp chất bất kỳ, nạp vào cột và giải ly ra khỏi cột để biết
được thể tích giải ly. Nhờ vào đường chuẩn để suy ra được trọng lượng phân tử của chất
đó. Cần cố gắng chọn chất chuẩn có cấu trúc hóa học tương đồng với chất cần xác định
trọng lượng phân tử.
Các nhà sản xuất thường có nhiều bộ chất chuẩn, tùy thuộc vào hợp chất cần
xác định mà chọn bộ chất chuẩn thích hợp. Một số bộ chất chuẩn thương mại là protein
được trình bày trong bảng 22.
Bảng 22: Một số protein được sử dụng làm chất chuẩn để đo trọng lượng
phân tử
TT Protein Trọng lượng phân tử
1 Cytochrom C 13.000
2 Ribonuclease A 13.700
3 Myoglobin 17.800
4 Inhibiteur de trypsin (soja) 21.500
5
α-Chymotrypsin
22.500
6 Trypsin 24.000
7 Chimotrypsinogene A 25.000
8 Pepsine 35.500
9 Ovalbumine 43.000
10 Bovine serum albumine (monomer) 67.000
11
Déshydrogénase du phosphat de l’aldehyde

glycerique
117.000
12 Bovine serum albumine(dimère) 134.000
13
γ-globuline (người)
140.000
14 Alcool déshydrogénase (levure) 150.000
15 Aldolase (levure) 158.000
16 Catalase 230.000

Thí dụ, để đo trọng lượng phân tử của hợp chất Poly (A) polymerase, sử
dụng gel Sephacryl S-200 với bộ chất chuẩn gồm những protein là: aldolase
(M=158.000), BSA monomer (M=67.000), ovalbumine (M=43.000), Chymotrypsinogene
A (M=25.000) và ribonuclease (M=13.700) , có được đường biểu diễn như hình 3.
Đường biểu diễn mối liên hệ giữa trọng lượng phân tử của bộ mẫu chuẩn và thể
tích giải ly ra khỏi cột gel Sephacryl S-200 (2,0x70cm), để ước lượng trọng lượng phân tử
của hợp chất poly (A) polymerase.
IV.3. Loại bỏ muối ra khỏi một hợp chất
Trong các quá trình sắc ký trao đổi ion, thường dùng các dung dịch đệm để giải
ly cột. Các dung dịch giải ly được sẽ có chứa các hợp chất hữu cơ và muối. Tiếp theo các
dung dịch giải ly này sẽ được loại bỏ muối bằng phương pháp sắc ký gel để thu được hợp
chất hữu cơ.
Để loại muối, người ta thường sử dụng các loại gel như: Bio-Gel P-2, Sephadex
G-10, Sephadex G-15, Sephadex G-20…Trong các loại gel này, các ion vô cơ có kích
thước nhỏ sẽ bị giữ lại mạnh trong các hạt gel và sẽ bị đuổi ra khỏi cột sau.
Thí dụ loại muối bằng gel Bio-Gel P-2:
Thí dụ sau quá trình sắc ký trao đổi ion, thu được 10 ml dung dịch giải ly.
Dung dịch được làm khô hoàn toàn cho cặn. Cặn được hòa tan vào 1ml nước và được nạp
lên đầu cột gel Bio-Gel P-2. Cột gel có đường kính 1,5 cm; chiều cao 45 cm thể tích gel
trương nở trong cột là 80 ml. Giải ly bằng nước với vận tốc 0,8 ml/phút. Thu được dung

dịch giải ly bằng những lọ 2ml. Các lọ được kiểm tra sự hiện diện của ion clorur bằng
cách lấy ra một ít cho vào ống nghiệm nhỏ, nhỏ vào vài giọt dung dịch AgNO
3
1% đã
acid hóa, nếu có ion Cl
-
sẽ có kết tủa trắng.
Thí dụ tách riêng muối NaCl ra khỏi hợp chất hemoglobin bằng Sephadex G-
15.
Sử dụng cột Sephadex G-15, hợp chất hemoglobin có trọng lượng phân tử lớn
sẽ ra khỏi cột trước, ở thể tích giải ly 600ml và NaCl ra sau lúc giải ly với 1200ml, sắc ký
đồ được trình bày ở hình 4.

Sử dụng gel Sephardex G-15 để loại muối NaCl ra khỏi hemoglobin.
IV.4. Loại bỏ các tạp bẩn khỏi một hợp chất đang khảo sát
Trong ngành hóa học các hợp chất tự nhiên, người ta có thể sử dụng gel
Sephadex LH-20 trong quá trình tinh chế các hợp chất tự nhiên vừa cô lập được.
Do gel Sephadex LH-20 trương nở trong dung môi hữu cơ, nên có thể áp dụng
để tinh chế các hợp chất có tính ái nước (phân cực nhiều), có trọng lượng phân tử nhỏ, có
chứa tạp chất có trọng lượng phân tử tương đối lớn hơn. Các tạp này thường là diệp lục tố
(clorophil) và một số hợp chất khác. Các dung dịch chiết xuất từ cây cỏ thường có màu
xanh lục đậm là do có chứa diệp lục tố (clorophil a và clorophil-b).
Clorophil-a: Công thức nguyên tử là C
55
H
72
MgN
4
O
5

với trọng lượng phân tử
M=893,48. Phân tử có dạng những tinh thể nhỏ, màu xanh dương đen. Không tan trong
ether dầu hỏa. Tan tốt trong ether ethyl, benzen, cloroform, aceton, ethanol. Tan kém
trong methanol lạnh.
Clorophil-b: Có tên khoa học là 1,3,5,8-tetramethyl-4-ethyl-2-vynil-9-oxo-10-
carbometoxiphorbin-7-propionat phytil. Có trọng lượng phân tử M=907,46. Tan ít trong
ether dầu hỏa. Tan tốt trong ethanol. Tan kém trong methanol lạnh.
Để loại bỏ các diệp lục tố ra khỏi các cao chiết, dùng cột nhồi Sephadex LH-20
với gel trương nở trong dung môi hữu cơ cloroform (hoặc methanol). Mẫu chất được hòa
tan trong cloroform (hoặc methanol). Các phân tử nhỏ cần cô lập sẽ được giữ bền trong
hạt gel còn các tạp chất và diệp lục tố được giải ly nhanh ra khỏi cột.
Cần chú ý rằng việc loại tạp chất bằng Sephadex LH-20 không chỉ theo cơ chế
sắc ký gel mà còn theo cơ chế hấp phụ, cơ chế phân chia, cũng có thể theo cơ chế trao đổi
ion nên thỉnh thoảng có thể gặp trường hợp đảo ngược là chất có trọng lượng nhỏ ra trước
còn chất có trọng lượng lớn ra khỏi cột sau. Vì vậy nếu hợp chất cần khảo sát không ra
khỏi cột sau khi giải ly 1,5-2 lần thể tích cột thì phải tiếp tục giải ly (cũng chỉ dùng kỹ
thuật đơn dung môi) đến 7-8 lần thể tích cột. Khi ấy hợp chất cô lập được có thể rất tinh
khiết.
N
N
Mg
N
N
H
3
C
R
C
2
H

5
CH
3
H
3
C
O
O CH
3
O
O
O
R=CH3 Clorophil a
R=CHO Clorophil b
Bảng 23: Một số loại gel thương mại sử dụng cho sắc ký gel
Tên gọi Loại gel Cấu trúc Dung môi
(pha động)
M
r
Kích thước hạt gel
(µm)
Chi chú
Sephadex G Xerogel Dextran Nước 6x10
5
2x10
5
10-40;
40-120; 50-150 ;
100-200
Hạt mịn tách tốt

Sephadex LH Xerogel Dextran hidroxi propil
ete
Hữu cơ phân cực 5x10
3
25-100 Đuổi có giới hạn tùy
theo dung môi
Bio-gel P Xerogel Poliamid Nước 4x10
3
50-100 ; 100-200 ;
200-400
Enzacryl gel K Xerogel Poliacriloid morpholin Nước và hữu cơ
phân cực
1x10
5
Trương nở một ít
trong alcol dây ngắn
Bio-Beads SX Xerogel Polistyren Hữu cơ 14x10
3
Styragel Lai tạp Polistyren lỗ lớn Hữu cơ không
phân cực
4x10
8
50-100 ; 100-200 ;
200-400
Bio-Gel A Lai tạp Agarose Nước 15x10
7
60-250 ; 40-190;
40-210
1; 2; 4; 6; 8; 10%
agarose

Sepharose Lai tạp Agarose Nước 4x10
7
2x10
7
Merk-O-Gel Lai tạp Polivynil acetat Hữu cơ phân cực 10
6
Porasil Aerogel Silica Nước và hữu cơ 2x10
4
Bio-Glas Aerogel Thủy tinh Nước và hữu cơ 9x10
4
Bảng 24 : Một số loại gel thương mại của nhà sản xuất Pharmacia
Gel
Khoảng tách
Dextran (hình
sợi)
Khoảng tách
những protein
hình cầu
Áp dụng
Điều kiện gel khi
bán
Đường kính hạt
gel (µm)
Sephacryl 100 HR 1.000-100.000
Protein,
polisaccharid
Sẳn để sử dụng 25-75
Sephacryl 200 HR 1.000 - 80.000 5.000-250.000 -//- -//- -//-
Sephacryl 300 HR 2.000 - 400.000 10.000-1,5x10
6

-//- -//- -//-
Sephacryl 400 HR 10.000 - 2x10
6
20.000-8x10
6
-//- -//- -//-
Sephacryl CL 6B 10.000 - 1x10
6
10.000-4x10
6
Enzym,hormon -//- 40-165
Sephacryl CL 4B 30.000 - 5x10
6
60.000-2x10
7
-//- -//- 40-165
Sephacryl CL 2B 100.000 - 2x10
7
70.000-4x10
7
-//- -//- 60-200
ml gel/g gel khô
Sephadex G-10 0 - 700 0-700 2-3 40-120
Sephadex G-15 0 – 1.500 0-1.500 2.5-3.5 40-120
Sephadex G-25C 100 - 5.000 100-5.000 4-6 100-300
Sephadex G-25F 100 - 5.000 100-5.000 4-6 20-50
Sephadex G-25M 100 - 5.000 100-5.000 4-6 50-150
Sephadex G-50F 500 - 10.000 150-30.000 9-11 20-80
Sephadex G-50SF 500 - 10.000 150-30.000 9-11 20-50
Sephadex G-75F 1.000 - 50.000 3.000-80.000 12-15 40-120

Sephadex G-100F 1.000 - 100.000 4.000-150.000 15-20 40-120
Sephadex G-150F 1.000 - 150.000 5.000-300.000 20-30 40-120
Sephadex G-200F 1.000 - 200.000 5.000-600.000 30-40 40-120
Sephadex LH 20
Lipid, steroid, acid
béo, vitamin
Tùy vào loại dung
môi
25-100

×