Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề tài xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của đảng, pháp luật của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.31 KB, 15 trang )

Đề tài: xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức, vận độ
ng nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Mở đầu
Đề tài: xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức,
vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Hiện nay khi xác định phát triển kinh ết là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta xem xét cán bộ
và công tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng bậc nhất, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Đất nước đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa, trong bối cảnh có nhiều vận hội, thời cơ lớn cần ra
sức tận dụng, đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thử thách cần phải vượt qua, đòi
hỏi Đảng ta phải xây dựng đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
từ Trung ương đến cơ sở đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí
tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Chỉ có chủ động xây dựng và kiện toàn đội
ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh Đảng mới có đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức toàn
dân thực hiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị lần thứ III Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã nhấn mạnh: phải gấp rút xây dựng
chiến lược cán bộ chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc
đảm bảo trên thực tế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước
cũng như trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Việc xây dựng
đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp xã hiện nay là một bộ phận không thể
tách rời của chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), và Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc ta,
làng, xã là nơi hội tụ và bảo lưu các giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của dân tộc.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, làng, xã đóng vai
trò quan trọng: làng, xã là đơn vị hành chính, là chính quyền cấp cơ sở có vị trí
đặc biệt quantrọng, có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và


bảo vệ Tổ quốc. Làng, xã đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong hệ
thống chính quyền nhà nước. “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã, thành phố trực
thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã, huyện chia thành xã, thị trấn,
thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường ”.
Quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước các cấp ở nước ta từ trước đến nay
là một quá trình tìm tòi, thể nghiệm cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc phối hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Giải quyết mối
quan hệ giữa cơ quan nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương,
quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau và quan hệ giữa HĐND và
UBND ở từng cấp theo hướng tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống
nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động của địa
phương.
Trong cơ quan chính quyền địa phương các cấp, chính quyền cấp xã là cấp hành
chính cơ sở, nơi trực tiếp tổ chức vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương lần 8 khoá VII đã khẳng định quan điểm “Kiện toàn chính quyền cấp
xã, giải quyết vấn đề ngân sách xã từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công
tác ở xã, nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng phát triển cơ cấu kinh tế thị trường và từng bước hiện đại hóa nông
thôn, kết hợp việc phát huy truyền thống tốt đẹp của làng xã mang tính cộng
đồng, tự quản, tình làng nghĩa xóm với việc chấp hành nghiêm chính sách và
pháp luật của Nhà nước”. Để phát huy vai trò và hiệu quả của quản lý chính quyền
cấp xã về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn nhà nước đã cụ thể hoá
thành pháp lệnh và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp,
trong đó có cấp xã. Theo hướng phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
củaHĐND và UBND trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội,
đời sống, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân tộc
và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương, quản
lý địa giới hành chính.

Tuỳ vào điều kiện kinh tế và xã hội từng thời kỳ mà chức năng nhiệm vụ của chính
quyền cấp xã được qui định cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay của đất nước thì chức
năng, nhiệm vụ đó càng được tăng cường và quan trọng hơn bao gồm:
Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn và tổ chức thực
hiện kế hoạch đó.
Lập, chấp hành và quyết toán ngân sách xã theo luật định. Phối hợp với các
cơ quan hữu quan thu thuế, phí ở lại địa phương và các khoản theo qui định của
pháp luật. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng của xã trên nguyên tắc tự nguyện.
Tổ chức và hướng dẫn thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án.
Khuyến khích phát triển về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo qui
định của cấp trên.
Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để
phát triển sản xuất; hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật
nuôi trong sản xuất theo qui hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối
với cây trồng và vật nuôi. Tổ chức việc xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ của
xã; tổ chức thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng, phòng chống và khắc
phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương.
Lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của xã; quản lý và sử dụng hợp lý,
có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương.
Xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở,
trường học, trạm y tế, công trình điện, nước theo qui hoạch đã được duyệt.
Quản lý, sắp xếp chợ và các điểm buôn bán, dịch vụ ở địa phương. Phối hợp
với các cơ quan hữu quan chống buôn lậu, trốn thuế, sản xuất và lưu hành hàng giả
tại địa phương.
Tổ chức các hoạt động văn hoá, thông tin, nghệ thuật, thể dục thể thao; tổ
chức thực hiện việc hướng dẫn các lễ hội truyền thống, bảo vệ di tích lịch sử, văn
hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương, vận động nhân dân xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hoá; ngăn chặn việc truyền bá văn hoá phản động, đồi

trụy, bài trừ mê tín, hủ tục, phòng chống các tệ nạn xã hội và những biểu hiện
không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương.
Tổ chức thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia
đình có công với nước; thực hiện công tác cứu tế xã hội, hoạt động nhân đạo, từ
thiện ở địa phương và vận động nhân dân giúp đỡ các gia đình khó khăn, người
già, người tàn tật, trẻ mô côi không nơi nương tựa, tổ chức các hình thức nuôi
dưỡng, chăm sóc các đối tượng nuôi dưỡng.
Tổ chức huấn luyện quân sự phổ thông, tuyên truyền, giáo dục, xây
dựng quốc phòng toàn dân. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự, công tác
tuyển quân theo kế hoạch. Tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng
lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương. Thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, thực
hiện chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang
nhân dân ở địa phương.
Thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện
biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở
địa phương.
Tổ chức thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật khác ở địa phương. Tổ chức thực hiện các biện pháp thi hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài
sản của nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, bảo vệ
tínhmạng, nhân phẩm và các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Quyết
định xử lý vi phạm hành chính theo qui định của pháp luật.
Như vậy, cùng với những qui định có tính chất, nguyên tắc cơ bản của Hiến
pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
của HĐND và UBND ở mỗi cấp đã được xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn trong
quản lý nhà nước ở từng lĩnh vực cụ thể.
Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền bốn cấp của
nhà nước ta, là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội, mọi mặt hoạt động của đời sống
xã hội đều diễn ra ở đó. Vì vậy, cấp xã có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, đó là

nơi trực tiếp biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành
hiện thực trong cuộc sống.
Là một cấp chính quyền ở nông thôn, vị trí chiến lược của cấp xã lại càng
nổi bật, do đại bộ phận nhân dân ta sống ở nông thôn và làm nông nghiệp.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1 – 4 – 1999, nước ta có 76.327.900
người, trong đó có 58.409.700 người chiếm 76,5% dân số của cả nước sống ở nông
thôn. Hiện nay ở nước ta có 11,822 xã, phường, thị trấn trong đó chỉ có 519 thị
trấn, 949 phường, còn lại có 10.354 xã nông thôn chiếm 87,58% tổng số xã
phường thị trấn của cả nước. Điều đó cho thấy cấp xã có một vị trí hết sức chính trị
ở nước ta.
Mặt khác xã còn là nơi tập trung mọi tiềm năng lao động, đất đai,
ngành nghề, là nơi sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội mà trọng tâm là
lương thực và thực phẩm. Xã cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên
liệu cho nhiều ngành công nghiệp, đồng thời xã còn là nơi cung cấp nguồn nhân
lực dồi dào cho nhiều lĩnh vực ngành nghề góp phần thực hiện thắng lợi các mục
tiêu chương trình kinh tế – xã hội lớn của Đảng. Nhận thức được vị trí tầm quan
trọng của cấp xã, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc xây dựng xã thành những
đơn vị vững mạnh.
Qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ ác liệt, xã đã có những
đóng góp quan trọng về sức người, sức của để làm nên những thắng lợi to lớn góp
phần vào sự nghiệp thống nhất, độc lập Tổ quốc.
Bước vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là thời kỳ thực hiện
đường lối mới của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
mở rộng quan hệ với các nước thì việc xây dựng cấp xã vững mạnh về
mọi mặt càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
Với tầm quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới Đảng ta đã quan tâm thoả
đáng đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tại hội nghị Trung
ương lần thứ 5 khoá VII, Đảng ta đã ra nghị quyết chuyên đề về tiếp tục đổi mới
và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Đồng thời, Văn kiện trình đại hội

IX của Đảng khẳng định: “Trong nhiều năm tới, vẫn coi công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một trọng điểm cần tập trung chỉ đạo và các
nguồn lực cần thiết.
Muốn tạo ra chuyển biến mạnh mẽ từ cơ sở nhất là cơ sở nông thôn, phải
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Trong đó
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Chương 1 Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã - vấn đề cơ
bản và cấp bách hiện nay.
1.1. Khái niệm và vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã.
1.1.1. Khái niệm
Lãnh đạo, quản lý là một loại hình hoạt động xã hội quan trọng của con
người trong cộng đồng, nhằm tổ chức thực hiện được mục tiêu mà con người hoặc
xã hội đặt ra. Vậy thế nào là cán bộ? cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý?
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 1992 thì cán bộ có hai nghĩa:
“1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với người thường, không có chức vụ”. Ta có thể làm rõ hơn nội hàm của khái niệm
cán bộ như sau:
1. Người làm công tác chuyên môn trong một cơ quan, một tổ chức của hệ
thống chính trị, có trình độ từ cao đẳng trở lên (dưới đó là nhân viên).
2. Người làm công tác có chức vụ trong một tổ chức lãnh đạo, quản lý để tổ
chức và phối hợp hành động của các thành viên trong một nhóm, một tập đoàn
người nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ công tác và đạt mục tiêu đã đề ra.
Nghĩa thứ hai này chính là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (trước đây) thì “cán bộ lãnh
đạo” có hai nghĩa:
- Thứ nhất: dùng để chỉ người đứng đầu hoặc cơ quan đầu não của một tổ
chức, một phong trào.
- Thứ hai: Là người làm thức tỉnh hành vi của người khác. “Cán bộ
quản lý” cũng dùng để chỉ người đứng đầu một tổ chức, nhưng phụ trách

những công việc nhằm thực hiện việc điều hành hoạt động của tổ chức để
thực hiện các công việc đó. “Cán bộ quản lý” còn có nghĩa là “người sử dụng công
cụ, phương tiện để điều khiển một hoạt động nào đó”.
Nội hàm của khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý có những điểm giống và
khác nhau. Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều phải nhận thức khách thể và
tác động đến khách thể; chủ thể ra quyết định để điều khiển khách thể, trên cơ sở
những đặc điểm thuộc tính, những qui luật của khách thể nhằm thực hiện
mục đích nhất định. Người cán bộ lãnh đạo hay quản lý đều phải tiến hành quá
trình điều khiển. Người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một số chức năng
quản lý và người quản lý cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Trên ý
nghĩa đó, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý giống nhau. Tuy nhiên, trên
phương diện khác cần phân biệt cán bộ lãnh đạo với cán bộ quản lý.
Quá trình lãnh đạo chủ yếu là quá trình định hướng cho khách thể, còn quá
trình quản lý chủ yếu là quá trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện định hướng
của lãnh đạo.
Quá trình lãnh đạo là quá trình làm thức tỉnh hành vi con người, định hướng
hoạt động của con người và xã hội là chủ yếu. Trong lãnh đạo, con người
vừa là khách thể vừa là chủ thể của mọi tác động. Đối tượng tác động của quản lý
vừa có thể là con người nhưng lại vừa có thể là công cụ. Trong quản lý người cán
bộ tác động mang tính điều khiển, vận hành thông qua thiết chế có tính pháp lệnh
được qui định trước.
Với ý nghĩa đó, chức năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh đạo, là
bước đi kế tiếp của lãnh đạo, là yếu tố, là khâu tất yếu để sự lãnh đạo được thực
hiện.
Có quan niệm về quản lý theo nghĩa rộng. Với quan niệm đó thì lãnh đạo là
một bộ phận của quản lý. Trong tiểu luận này, tác giả sử dụng khái niệm
lãnh đạo, quản lý theo khái niệm hẹp nêu trên.
Có thể khẳng định: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người lãnh
đạo, quản lý theo một hệ thống từ thấp đến cao trong các cơ quan hành chính, sự
nghiệp, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân

dân ở Trung ương, địa phương cơ sở.
Hay nói cụ thể hơn: đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là những người
lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và các đoàn
thể chính trị – xã hội ở xã.
1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong một chặng đường hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Vai trò của người cán bộ thể hiện trong các mối quan hệ: một là, với đường
lối chính sách: hai là, với tổ chức bộ máy (các cơ quan lãnh đạo, quản lý); ba là,
với công việc; bốn là, với quần chúng.
Có cán bộ tốt mới có thể đề ra được đường lối chính sách và nhiệm vụ chính
trị đúng. Từ đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng mới có thể sản sinh ra đội ngũ cán
bộ tốt. Cán bộ được đào tạo rèn luyện và trưởng thành mới thi hành đường lối,
nhiệm vụ chính trị đúng. Đây là mối quan hệ nhân quả. Cán bộ cũng có vai trò
quyết định đối với đường lối nhiệm vụ chính trị. Đội ngũ cán bộ có phẩm chất và
năng lực tốt mới có thể đề ra đường lối đúng, mới cụ thể hoá, bổ sung, hoàn chỉnh
đường lối, mới có thể thực hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì
đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể thành hiện thực trong cuộc
sống. Tức là cán bộ quyết định sự thành bại của bản thân đường lối.
Trong mối quan hệ với tổ chức bộ máy, đây là mối quan hệ biện chứng,
quan, quan hệ nhân quả: Cán bộ là nhân tố chủ yếu, nhân tố hàng đầu và là nhân tố
“động” nhất của tổ chức. Cán bộ là người lập ra tổ chức và điều hành bộ máy, tổ
chức. Song, đến lượt mình, cán bộ lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Tổ
chức quyết định phương hướng và hành động của cán bộ. Tổ chức mạnh khiến
từng người mạnh và từng người mạnh khiến cả tổ chứcmạnh. Nòng cốt, hạt
nhân để xây dựng tổ chức là đội ngũ cán bộ và đó cũng là trung tâm đoàn kết và
tập hợp của tổ chức.

Người cán bộ chỉ có vai trò trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân, ngoài
cái đó thì nhân dân không cần đến họ, có cách mạng mới cần người lãnh
đạo và vì thế người lãnh đạo phải vì sự nghiệp cách mạng, phục vụ lợi ích của
nhân dân. Phong trào cách mạng của quần chúng làm sản sinh những cán bộ t. Đó
là môi trường rèn luyện, thử thách sàng lọc cán bộ. Mặt khác cán bộ lại là người
tuyên truyền, tổ chức, duy trì phong trào cách mạng quần chúng. Không thể
có đội ngũ cán bộ tốt nếu không xây dựng và duy trì được phong trào cách mạng
của quần chúng và cũng không thể có phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục nếu
không có đội ngũ cán bộ tốt.
Như vậy, bất cứ người cán bộ nào cũng bị ràng buộc trong bốn mối
quan hệ đó, chỉ khi nào hoàn thành được sứ mệnh do các quan hệ đó đòi hỏi thì
người cán bộ mới có vai trò. Vì vậy mà cơ cấu cán bộ chỉ được coi là hợp lý nếu
đồng thời đáp ứng yêu cầu của các quan hệ đó. Từ mối quan hệ này mà định tiêu
chuẩn cán bộ và đánh giá cán bộ.
Rõ ràng, bất cứ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
cũng rất quan trọng đối với với sự nghiệp cách mạng. Đối với cấp xã, vai trò đó
được thể hiện trên các phươn diện sau:
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc
thực hiện hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức quần chúng
thực hiện sáng tạo các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước thông qua
các phong trào cách mạng của quần chúng ở nông thôn, đội ngũ này tạo nên những
thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần rất quan trọng
cho sự phát triển chung của đất nước. Vai trò này chẳng những thể hiện chức năng,
nhiệm vụ của các tổ chức cùng với các chức vụ của đội ngũ cán bộ cấp xã đảm
nhiệm được quy định mà trong thực tế cho thấy mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của nhànước cuối cùng đều do đội ngũ này thực hiện.
Hoạt động gần dân, trực tiếp tiếp xúc với từng gia đình và từng người dân, đội ngũ
cán bộ cấp xã là chỗ dựa của Đảng, nhà nước để lãnh đạo nông dân phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với nông dân

– bộ phận chiếm 80% dân số - đưa tư tưởng của Đảng đến với dân và
phản ánh tình hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Thông qua đội ngũ cán
bộ này mà ý Đảng – lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và nhà nước có cơ sở
bám rễ, ăn sâu trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân,
trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của nông dân đối với Đảng và chế độ.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc
xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng của quần
chúng sâu rộng ở nông thôn. Thực tế ở cấp xã cho thấy, sự mạnh, yếu của hệ thống
chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý nơi đây. Đối với hệ thống bộ máy, họ là những trụ cột, là
trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức
trong hệ thống đó. Họ tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng, đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực
lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống bộ
máy ở cấp xã có hoàn thành được nhiệm vụ của mình hay không, trước hết tuỳ
thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nơi đây. Có củng cố, kiện toàn đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã mới có thể tăng cường khả năng lãnh đạo, quản lý
của Đảng và nhà nước, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội nông thôn phát triển.
Ở cấp xã, cuộc sống luôn đòi hỏi phải phát huy vai trò, sức mạnh, sự sáng
tạo và tinh thần làm chủ của nhân dân. Nơi đây, những nhân tố mới xuất hiện ngày
càng nhiều trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, đó là những mô hình, những
kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ của nông dân trong sản xuất, trong xây dựng đời
sống văn hoá xã hội. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã có điều kiện đi sâu, đi
sát và nắm vững tình hình, kịp thời hướng dẫn, hỗtrợ và nhân lên thành các phong
trào cách mạng sâu rộng. Biết tổng kết những kinh nghiệm của các phong trào đó,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã sẽ góp phần không nhỏ để xây dựng và
hoàn thiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó, cũng
có thể nói, đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là một mắt xích quan
trọng nhất để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng ở nông thôn.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã vững mạnh mẽ sẽ là một

trong những nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho cấp trên. Thật vậy, cán bộ cơ
sở đều ở tuyến đầu của hoạt động sản xuất, công tác, chiến đấu nên họ rất thực tế,
có tri thức và khả năng sáng tạo trong thực tiễn. Cơ sở còn là môi trường rất quan
trọng tạo điều kiện cho cán bộ trưởng thành. Hiện nay, do chưa thấy hết vị trí chiến
lược của cơ sở nên một số cán bộ cơ sở (cấp xã) là thấp kém, không có tiền đồ. Họ
không phấn khởi khi công tác ở cơ sở, chưa thấy cơ sở là trường học thiết thực
và là dịp cần thiết cho sự rèn luyện và trưởng thành của mình.
Từ những điểm trình bày ở trên, rõ ràng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt và là một trong những vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại trong công cuộc xây dựng và phát triển
nông thôn mới.
1.2. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã với chất lượng mới.
1.2.1. Khái quát về xã và vai trò của cấp xã.
- Xã là đơn vị hành chính – lãnh thổ cấp cuối cùng, nhỏ nhất ở nước ta. Đó
là loại hình cơ sở hoàn chỉnh với đầy đủ các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội Cấu thành, nơi mà cuộc sống của xã hội diễn ra hàng ngày. Cấp xã được xem
là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, bao hàm ý nghĩa nền tảng rộng lớn và sâu xa của xã
hội.
Lịch sử phát triển của dân tộc luôn gắn liền trong mối quan hệ giữa
làng xã với đất nước. Nước lấy làng xã làm đơn vị cơ bản trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Xã là cấp cuối cùng, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện, biến mọi chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước và phát
triển kinh tế – xã hội ở nông thôn thành hiện thực trong cuộc sống, đồng thời cũng
là nơi bắt nguồn cung cấp những kinh nghiệm cho những điều chỉnh, bổ sung, hoàn
chỉnh chủ trương, chính sách ấy. Cái đúng, cái sai, sự thành công thất bại của mọi
chủ trương, chính sách ở nông thôn đều thể hiện ở cấp xã.
- Cấp xã có sự gắn liền nhân dân, nông nghiệp và nông thôn. Nông
nghiệp nông thôn luôn giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế – xã hội của mỗi

quốc gia. Là nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nông nghiệp – nông
thôn Việt Nam càng có vai trò quan trọng đối với kinh tế và phát triển của đất
nước.
- Với điều kiện địa lý, sinh thái và hoàn cảnh lịch sử chống ngoại xâm và
thiên tai làng xã Việt Nam là nơi sinh thành và phát triển cộng đồng dân cư có sự
có biết và quan hệ mật thiết lâu đời với nhau về nhiều mặt. Cộng đồng dân cư
thường được hình thành trên địa bàn một đơn vị hành chính xã, ở đó cộng đồng
dân cư quần tụ sinh cơ lập nghiệp do thói quen canh tác và sinh hoạt sức mạnh
vật chất và tinh thần của cộng đồng làng xã, phát triển lên thành sức mạnh
và sự bất khuất của dân tộc trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
- Cấp xã nông thôn còn là một trong những nơi lưu giữ nhiều nhất giá trị lịch
sử và giá trị hiện thực của văn hoá quê hương. Những di tích văn hoá, di tích lịch
sử, di tích cách mạng, những phong tục tập quán, những giá văn hoá truyền thống
của địa phương có giá trị thẩm mỹ và giáo dục truyền thống lịch sử cách
mạng sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát triển giá trị
truyền thống của dân tộc.
Từ những điều trình bày trên đây, cần nhận thức sâu sắc hơn nữa vị trí vai
trò quan trọng của cấp xã, nông nghiệp, nông thôn là nguồn nội lực to lớn và đang
là lợi thế của đất nước ta. Có phát triển nông nghiệp và nông thôn thì mới tạo điều
kiện cho sự ổn định và phát triển bền vững đất nước, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2. Thời kỳ mới đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã luôn là vấn đề bức bách,
quan trọng. Với cương vị đảm nhận, hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã có ảnh hưởng quyết định đối với đời sống kinh tế – xã hội trên địa bàn
mà họ phụ trách. Càng đi vào kinh tế thị trường, càng hội nhập vào khu vực và thế
giới, trong thời đại của nền kinh tế thị trường, càng hội nhập với khu vực và thế
giới, trong thời đại của nền kinh tế tri thức thì nhiệm vụ cách mạng càng khó khăn,
phức tạp, công việc càng mới mẻ. Trong bối cảnh đó, càng phải tự ý thức sâu sắc

tầm quan trọng quyết định của vấn đề cán bộ.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hóa hiện nay, xây dựng
nông thôn giàu đẹp, ổn định, dân chủ, tiến bộ văn minh là mục tiêu chiến
lược hàng đầu của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nếu
thực hiện tốt công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì nhân dân
sẽ phấn khởi, chính trị xã hội ổn định, phát huy các tiềm năng, thế mạnh nông
nghiệp, nông thôn để tiến hành công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, vững chắc,
tăng tiềm lực quốc phòng để bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia, mang
lại hạnh phúc cho đồng bào cả nước. Là những người trực tiếp tổ chức cho nhân
dân thực hiện sự nghiệp trọng đại đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã tất
yếu đòi hỏi phải được xây dựng cho ngang tầm không nghỉ về ý chí cách mạng, về
bản lãnh chính trị, đạo đức cách mạng mà cả về những năng lực trí tuệ, năng lực tổ
chức thực hiện. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã thực sự
đã trở thành một trong những vấnđề quan trọng hàng đầu với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn hiện nay. Hơn nữa, đây còn là một nội
dung, một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong việc gấp rút phải thực
hiện chiến lược cán bộ cho thời kỳ mới trong đó chú trọng đội ngũ cán bộ các cấp,
trước hết là cấp chiến lược và cấp cơ sở mà Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định.
Tóm lại, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là vấn đề cơ bản
và cấp bách không chỉ xuất phát từ bản chất lý luận của vấn đề mà còn xuất phát từ
đòi hỏi của thực hiện cách mạng sống động và phức tạp, từ bản thân công tác cán
bộ thời gian qua và sắp tới.

×