Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Mô hình tổ chức chính quyền huyện trong điều kiện không tổ chức hội đồng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.6 KB, 20 trang )

Mô hình tổ chức chính quyền huyện trong điều
kiện không tổ chức hội đồng nhân dân

Bùi Thị Thủy

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: PGS.TS Bùi Xuân Đức
Năm bảo vệ: 2009

Abstract: Chương 1: Mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta trước khi thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân. Chương 2: Thí điểm mô hình tổ chức chính quyền
huyện không có Hội đồng nhân dân và việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền
huyện. Chương 3: Một số ý kiến hoàn chỉnh mô hình tổ chức chính quyền huyện trong
khi thực hiện thí điểm và triển khai ra diện rộng sau này mô hình tổ chức chính quyền
huyện không có Hội đồng nhân dân.

Keywords: Hội đồng Nhân dân; Luật học; Tổ chức chính quyền huyện

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, nhất là khi thực hiện đường lối đổi mới, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương từng bước được điều chỉnh để bảo đảm vai trò
quản lý nhà nước trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, nên không còn giữ nguyên vị trí, vai trò
như trong thời kỳ bao cấp trước đây.
Do những thay đổi về vị trí, vai trò của chính quyền huyện, nên trong thực tế Hội đồng
nhân dân huyện không có điều kiện thực hiện tốt chức năng đại diện cho ý chí nguyện vọng
của nhân dân trên địa bàn. Chức năng đại diện này về cơ bản được bảo đảm thông qua Hội
đồng nhân dân xã và Hội đồng nhân dân tỉnh. Vì vậy, việc duy trì tổ chức chính quyền huyện


với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như hiện nay không còn phù hợp.
Để khắc phục những điểm còn tồn tại nêu trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu mô hình tổ chức
chính quyền huyện trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân là việc làm thiết thực,
cấp bách, nhằm tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, phát huy
dân chủ trực tiếp ở cơ sở và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong
giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do nhu cầu bức xúc và tính thiết thực của việc nâng cao hiệu quả quản lý của chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước nên có rất nhiều cơ quan, nhiều tập thể và đông đảo
các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp luật, các cán bộ hoạt động thực tiễn quản lý nhà nước ở

2
nước ta nghiên cứu về chính quyền địa phương.
Để góp phần nhỏ bé nghiên cứu, đề xuất kiến nghị, giải pháp cho công cuộc cải cách hành
chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, đề tài này sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem xét và tiếp cận ở những góc độ khác nhau về
mô hình tổ chức chính quyền huyện trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung phân tích, tìm hiểu và rút ra một số ý kiến hoàn chỉnh mô hình tổ chức
chính quyền huyện trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân. Xa hơn nữa, Đề tài góp
phần xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ
trách nhiệm giữa các cơ quan, các cấp chính quyền là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc
cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra của đề tài nghiên cứu là:
- Nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta trước khi bỏ Hội đồng nhân
dân.
- Phân tích, đánh giá cơ sở lý luận và thực tiễn về thí điểm mô hình tổ chức chính quyền
huyện không có Hội đồng nhân dân và việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền huyện.
- Đưa ra một số ý kiến hoàn chỉnh mô hình tổ chức chính quyền huyện trong khi thực
hiện thí điểm và triển khai ra diện rộng sau này mô hình tổ chức chính quyền huyện không có

Hội đồng nhân dân.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu tổ chức chính quyền huyện trước khi bỏ Hội đồng nhân dân
và trong giai đoạn thực hiện thí điểm mô hình tổ chức chính quyền huyện không tổ chức Hội
đồng nhân dân để tìm ra được những điểm tích cực và hạn chế nhằm đưa ra những giải pháp cụ
thể góp phần hoàn chỉnh mô hình tổ chức chính quyền huyện trong khi thực hiện thí điểm và triển
khai rộng rãi mô hình tổ chức chính quyền huyện không tổ chức Hội đồng nhân dân.
5. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
Đề tài được sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên
cứu. Mọi vấn đề nghiên cứu luôn phải xem xét trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng,
luôn đặt trong quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng
khác. Các hiện tượng luôn được xem xét trong cả quá trình từ sự hình thành đến sự phát triển qua
các giai đoạn khác nhau. Một số phương pháp tiếp cận cụ thể được áp dụng như: phương pháp
tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta trước khi thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân.
Chương 2: Thí điểm mô hình tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng nhân dân và
việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền huyện.
Chương 3: Một số ý kiến hoàn chỉnh mô hình tổ chức chính quyền huyện trong khi thực
hiện thí điểm và triển khai ra diện rộng sau này mô hình tổ chức chính quyền huyện không có
Hội đồng nhân dân.


3
Chương 1
MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN HUYỆN Ở NƯỚC TA
TRƯỚC KHI THÍ ĐIỂM KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1. Quá trình xây dựng tổ chức chính quyền huyện ở nước ta
1.1.1. Lịch sử ra đời của tổ chức chính quyền huyện ở nước ta
- Nhà nước sơ khai Văn Lang do vua Hùng (cun, khun) đứng đầu, gồm có ba cấp chính
quyền: Nhà nước, Bộ lạc và Công xã nông thôn. Đây là thể chế chính trị đầu tiên ở nước ta,
mặc dù còn sơ khai, nhưng bước đầu đã có sự phân công và quy định nhiệm vụ, chức năng
cho từng quan chức. Điều quan trọng nhất là trong cơ cấu tổ chức đã thể hiện rõ một bộ máy
nhà nước với đầy đủ các nhân tố cấu thành: có vua và hệ thống các quan, có chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương.
- Thể chế chính trị thời Âu Lạc về cơ bản giống như thể chế chính trị Văn Lang, nhưng
quy mô lớn hơn, chặt chẽ hơn.
- Từ khi giành được quyền tự chủ, các triều đại phong kiến Việt Nam khi thiết kế nền hành
chính địa phương đều có đơn vị hành chính huyện cùng với các đơn vị hành chính trung gian khác
như lộ, phủ, đạo (sau này là tỉnh). Trong quá trình phát triển, đơn vị hành chính này không bị biến
động nhiều như tỉnh. Chúng chỉ chịu một ít tác động khi xuất hiện thêm một đơn vị hành chính
trung gian mới ra đời, kể từ thời nhà Nguyễn, là tổng. Về mục đích tổ chức, huyện là cấp hành
chính được lập ra để làm cầu nối tiếp từ tỉnh, phủ xuống xã.
- Sang triều Nguyễn, nhà Nguyễn đã nhanh chóng thiết lập hệ thống chính quyền ở địa
phương trên cơ sở vừa có kế thừa, vừa có bổ sung phát triển. Cấp phủ - huyện (châu): phủ là
đơn vị hành chính gồm có vài huyện hợp lại với nhau. Phủ lớn hơn huyện nhưng chỉ được coi
tương đương cấp huyện. Đứng đầu huyện là tri huyện và thường là những người xuất thân
khoa cử. Tri huyện được chọn từ những người đỗ đạt cao qua các kỳ thi hương. Một mình Tri
huyện nắm toàn bộ quyền hành chính và tư pháp ở huyện. Tri huyện là người xét xử mọi kiện
tụng ở huyện.
- Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tổ chức chính quyền huyện được xây dựng
theo lối mới. Theo quan điểm chủ đạo của việc tổ chức chính quyền nhân dân của Nhà nước
Việt Nam mới là áp dụng sáng tạo mô hình tổ chức nhà nước kiểu Xô viết vào điều kiện Việt
Nam, cho dù ở Trung ương, bộ máy nhà nước còn phần nhiều thể hiện tính liên hiệp rộng rãi
chưa hoàn toàn theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, thì ở địa phương đã tổ chức bộ máy
chính quyền về cơ bản là theo mô hình Xô viết: chính quyền địa phương mới bao gồm hai thứ
cơ quan là Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính (riêng huyện và bộ chỉ có Ủy ban hành

chính).
Mô hình chính quyền địa phương kiểu Xô viết ở huyện tiếp tục được thể hiện và hoàn
thiện qua các giai đoạn sau.
1.1.2. Quá trình phát triển mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta
1.1.2.1. Giai đoạn Hiến pháp năm 1946
Năm 1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 63/SL ngày 22 tháng 11 năm
1945 và Sắc lệnh số 77/SL ngày 21 tháng 12 năm 1945. Theo hai Sắc lệnh này, chính quyền
địa phương nói trên chỉ có cấp tỉnh và cấp xã ở địa bàn nông thôn, cấp thành phố ở địa bàn đô
thị được xác định là cấp chính quyền hoàn chỉnh có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính.
Còn cấp kỳ và cấp huyện chỉ là cấp trung gian; ở kỳ, huyện và khu phố chỉ tổ chức Ủy ban

4
hành chính, không có Hội đồng nhân dân.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên, đặt
cơ sở vững chắc cho việc tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta. Theo Hiến pháp năm
1946, tổ chức chính quyền ở mỗi cấp hành chính vẫn như hai Sắc lệnh năm 1945 đã quy định
(Điều 58, Điều 61 Hiến pháp năm 1946).
Một trong những thành công đầu tiên trong lĩnh vực tổ chức chính quyền địa phương thời kỳ
này là ở chỗ ngay từ đầu chúng ta đã có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa chính quyền nông
thôn và chính quyền vùng đô thị. Cấp huyện thuở ban đầu của Nhà nước Dân chủ nhân dân
chỉ là cấp quản lý hành chính. Do vậy, thời kỳ này ở huyện không tổ chức ra Hội đồng nhân
dân.
1.1.2.2. Giai đoạn Hiến pháp 1959
Mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng nhân dân huyện bầu ra. Đây là một điểm
mới của Hiến pháp năm 1959 so với Hiến pháp năm 1946.
Sau khi có Hiến pháp 1959, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành chính các cấp năm 1962, đánh dấu một giai đoạn mới về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương. Mãi đến Hiến pháp năm 1959 Hội đồng nhân dân mới được tổ chức
ở cấp huyện.

1.1.2.3. Giai đoạn Hiến pháp 1980
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước ta thống nhất
sau hơn 30 năm chia cắt. Hiến pháp năm 1980 (được Quốc hội thống nhất cả nước thông qua
ngày 30 tháng 12 năm 1980) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của đất nước. Ở
địa phương, cơ quan quản lý nhà nước được đổi tên là Ủy ban nhân dân.
Về cơ bản, vị trí và tính chất pháp lý của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân vẫn xác
định như Hiến pháp năm 1959 và Luật năm 1962 trước đây, nhưng nhiệm vụ, quyền hạn, lĩnh
vực hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983 đã được mở rộng rất nhiều ở các lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
1.2. Mô hình tổ chức chính quyền huyện ở nước ta theo Hiến pháp và pháp luật hiện
hành
Sau giai đoạn Hiến pháp năm 1980, giai đoạn Hiến pháp năm 1992 tổ chức chính quyền
huyện được phát triển lên một giai đoạn mới, phù hợp với xu hướng phát triển của nhà nước ta
trong thời kỳ đổi mới. Hiến pháp năm 1992 là sự kế thừa và phát triển của tất cả các Hiến pháp
của nước ta từ trước đến nay.
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
1994, mô hình tổ chức chính quyền huyện về cơ bản không có gì thay đổi so với Hiến pháp năm
1980. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định
như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành
phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia
thành phường. Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính
do luật định. Đây là điểm mở hơn so với Hiến pháp trước đây. Tuy nhiên, mô hình tổ chức
chính quyền huyện ở nước ta giai đoạn này vẫn thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân.

5
Hiến pháp 1992 đặt ra cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện hóa từng bước tổ chức chính
quyền huyện theo hướng tăng cường, bảo đảm tính thống nhất Nhà nước vững mạnh, bảo đảm

pháp lý để xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 và năm 2003 hiện hành, chính quyền huyện là một
cấp chính quyền hoàn chỉnh, có tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Từ những đặc điểm nêu trên, đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương là một yêu
cầu cần thiết. Bởi lẽ, chính quyền địa phương là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và của Nhà nước, là nơi nhân dân có thể thông qua đó
thực hiện quyền dân chủ của mình và bày tỏ, đòi hỏi được đáp ứng các nguyện vọng của họ.
Vì vậy, muốn thực hiện được nhiệm vụ nặng nề đó, không còn con đường nào khác là phải
tiến hành đổi mới một cách toàn diện mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các cấp
chính quyền địa phương.

Chương 2
THÍ ĐIỂM MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN HUYỆN
KHÔNG CÓ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ VIỆC XÂY DỰNG
MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN HUYỆN
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng
nhân dân
2.1.1. Cơ sở lý luận về tổ chức chính quyền không có Hội đồng nhân dân
Một là, khi đưa ra mô hình tổ chức bộ máy nhà nước kiểu mới, trong đó có các cơ quan
chính quyền địa phương, các nhà kinh điển nhìn nhận đó là một hệ thống thống nhất từ trung
ương đến địa phương, nhưng khác với các nhà nước trước đó (phong kiến, tư sản) ở đó quyền
lực nhà nước chỉ có ở trung ương và được triển khai từ trên xuống thông qua các cơ quan
chính quyền địa phương - là bộ máy nhằm thực hiện, triển khai quyền lực đó thì bộ máy kiểu
mới xã hội chủ nghĩa được hình thành từ dưới lên xuất phát từ việc coi quyền lực nhà nước
bắt nguồn từ các cộng đồng lãnh thổ.
Hai là, chính quyền kiểu mới này trước hết phải là đại diện của nhân dân địa phương,
chịu trách nhiệm trước nhân dân (tập thể dân cư lãnh thổ) trong việc thực hiện quyền của tập
thể lãnh thổ được pháp luật quy định. Đồng thời nó là đại diện của chính quyền cấp trên ở địa
phương, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện quyết định, chỉ thị của cấp trên ở địa phương, bảo

đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và tuân theo nghiêm chỉnh.
Ba là, ở các nước, cùng với sự phát triển của dân chủ, Nhà nước không thể giữ mãi sự áp
đặt, kiểm soát (cai trị) lên cộng đồng lãnh thổ mà phải ngày càng thừa nhận các quyền tự chủ,
tự quản của cộng đồng, còn ở chế độ xã hội chủ nghĩa là sự tuyên bố quyền dân chủ của nhân
dân trong từng cộng đồng. Và từ đó, các nhà nước phải thiết lập một mối quan hệ thích ứng
mới để vừa bảo đảm tập trung, thống nhất quyền lực nhà nước vừa tôn trọng quyền tự chủ của
cộng đồng.
Bốn là, khi đưa ra mô hình tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới đó các nhà kinh
điển chủ yếu nhìn nhận ưu điểm của mô hình này ở tính “dân chủ, đại diện quyền lực nhà
nước của nhân dân” và tính “tập thể hành động” nhằm bảo đảm thực sự quyền lực nhân dân

6
của nó mà chưa thấy hết những khó khăn phức tạp và đa dạng của việc tổ chức quản lý địa
phương với chỉ một cơ quan đại diện hoạt động theo lối hội nghị (bằng chứng là sau này các
cơ quan này chưa thể làm việc như một “tập thể hành động” mà cần phải có một cơ quan chấp
hành và thường trực - Ủy ban chấp hành). Hơn nữa, ngay trong quan điểm lý luận (được các
hoạt động thực tiễn sau này mặc nhiên thừa nhận) đã hầu như không có sự phân biệt mô hình
tổ chức ở các đơn vị hành chính vốn khác nhau về tính chất (đơn vị hành chính cơ bản, đơn vị
hành chính trung gian, ở nông thôn, ở thành thị). Có thể thấy những luận điểm của các nhà
kinh điển về tổ chức chế độ đại diện quyền lực (Xô viết, Hội đồng nhân dân) được nêu ra chủ
yếu gắn với các cộng đồng lãnh thổ như công xã, thành phố, tỉnh - là những cộng đồng dân cư
mang tính đơn vị cơ bản và đó là phù hợp. Riêng việc đem áp dụng (mà chủ yếu là sau này)
những luận điểm này cho việc tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính được lập ra chủ
yếu để tổ chức triển khai quyền lực từ trên, thực hiện chức năng quản lý hành chính (tức là
những đơn vị hành chính có tính chất trung gian, trung chuyển mệnh lệnh quản lý từ trên chứ
không phải để tập hợp nhân dân thành quyền lực nhà nước) như huyện (trung gian giữa tỉnh
và xã), quận và phường (trung chuyển trong một đơn vị cơ bản là đô thị) thì còn chưa phù
hợp.
Năm là, quyền lực nhân dân chỉ có trên nền tảng một cộng đồng dân cư nhất định. Vậy
nên chỉ có các đơn vị hành chính cơ bản mới có nhu cầu và khả năng tập hợp thành quyền lực

nhà nước. Các đơn vị hành chính trung gian không có khả năng đó.
Sáu là, dù được tổ chức theo mô hình nào thì chính quyền địa phương ở các nước cũng có
sự phân biệt giữa chính quyền tự quản có hội đồng do dân bầu và chính quyền đại diện không
có hội đồng mà chỉ có cơ quan hành chính ở địa phương thực hiện chức năng quản lý về hành
chính.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn về tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng nhân dân
Bên cạnh những cơ sở lý luận nói trên, mô hình tổ chức chính quyền huyện trong điều
kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay còn xuất phát từ những cơ sở thực
tiễn sau:
Một là, do vị trí, vai trò của huyện hiện nay đã có những thay đổi căn bản.
Đến nay, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội được đổi mới theo hướng chính quyền các cấp giảm
dần sự can thiệp trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, tập
trung vào thực hiện tốt các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn. Thẩm quyền của chính quyền
tỉnh đã được tăng cường. Những vấn đề quan trọng chi phối sự phát triển của tỉnh do Hội đồng
nhân dân tỉnh quyết định, những vấn đề ở cơ sở, gắn với người dân, cộng đồng dân cư do Hội
đồng nhân dân xã quyết định. Huyện thực chất chỉ còn là cấp trung gian của tỉnh và xã, chính
quyền huyện chủ yếu tổ chức thực hiện các quyết định của cấp trên và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra hoạt động của chính quyền cấp xã. Chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của dân và
quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm xây dựng và phát triển địa phương đã
được đảm bảo thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân xã. Do đó, Hội đồng nhân
dân huyện trở thành cấp trung gian không cần thiết, tạo thêm tầng nấc không còn phù hợp trong
tiến trình cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Hai là, do tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện còn hạn chế.
Xuất phát từ vị trí, tính chất và vai trò của huyện chỉ là loại đơn vị hành chính trung gian
giữa tỉnh với xã nên trong thực tiễn, sự tồn tại và hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện còn
mang nặng tính dân chủ hình thức, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện hiện

7
nay có nhiều hạn chế.
Ba là, từ kinh nghiệm lịch sử tổ chức chính quyền cách mạng nước ta.

Trong lịch sử hành chính ở nước ta huyện (phủ, châu) bao giờ cũng giữ vai trò là cấp
trung gian giữa tỉnh (trấn, đạo, lộ) và làng xã của tỉnh. Hơn nữa xét về mặt đặc thù địa phương
và lãnh thổ, các đơn vị hành chính huyện ở nước ta không có sự khác biệt rõ nét (trừ các
huyện miền núi, hải đảo). Giai đoạn năm 1945-1959 Nhà nước ta không tổ chức Hội đồng
nhân dân huyện. Việc không tổ chức Hội đồng nhân dân ở những cấp hành chính lúc đó đã có
sự cân nhắc đến vị trí của các cấp hành chính và tính chất quản lý khác nhau giữa đô thị và
nông thôn của các cấp chính quyền địa phương. Việc tổ chức Hội đồng nhân dân huyện,
không phân biệt chính quyền nông thôn và thành thị chỉ được thực hiện từ Hiến pháp năm
1980 đến nay. Do đó, trong giai đoạn hiện nay xác lập mô hình tổ chức chính quyền huyện
trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân không phải là tiền lệ, mà có sự kế thừa kinh
nghiệm lịch sử, nhằm tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương nói chung và chính
quyền huyện nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, tham khảo kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa phương của các nước.
Tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới rất đa dạng, gồm nhiều mô hình khác nhau,
nhưng dù theo mô hình nào thì chính quyền địa phương ở các nước cũng có hai sự phân biệt: (1)
phân biệt giữa chính quyền tự quản với chính quyền đại diện, (2) phân biệt giữa chính quyền đô thị
với chính quyền nông thôn.
Căn cứ vào vị trí, tính chất của đơn vị hành chính huyện trong hệ thống tổ chức chính quyền
địa phương, thực trạng tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện, cũng như kinh nghiệm
lịch sử tổ chức chính quyền cách mạng của nước ta và kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa
phương, đô thị của các nước trên thế giới, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển khoa học công nghệ và xu hướng đẩy mạnh
cải cách hành chính hiện nay, việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện ở nước ta là
cần thiết và hợp lý, tạo tiền đề đổi mới một cách căn bản tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương trong thời gian tới.
2.2. Mô hình thí điểm tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng nhân dân
Cả nước thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại 67 huyện,
32 quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 07 tỉnh (là
các tỉnh Lào Cai, Vĩnh Phúc, Nam Định, Quảng Trị, Phú Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên
Giang) và 03 thành phố trực thuộc trung ương (là thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng

và Thành phố Hồ Chí Minh).
2.2.1. Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân
Khi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, mô hình tổ chức chính quyền huyện sẽ
không có Hội đồng nhân dân mà chỉ có Ủy ban nhân dân. Như vậy, Ủy ban nhân dân huyện
nơi không có Hội đồng nhân dân được quy định như thế nào so với trước khi chưa bỏ Hội
đồng nhân dân.
Một là, quy định lại những nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân huyện nơi không
có Hội đồng nhân dân.
Hai là, về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân
dân:
- Xác định lại vị trí, tính chất pháp lý của Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng
nhân dân huyện đã được xác định chỉ còn là “cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc Ủy

8
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
- Về cơ cấu Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân vẫn gồm có
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên nhưng “do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”.
Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân có từ bảy đến chín thành
viên; Cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân do
Chính phủ quy định.
- Về hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện khi không có Hội đồng nhân dân huyện là
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
- Về vị trí, vai trò và nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ủy viên Ủy ban
nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện.
2.2.2. Cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng
nhân dân
- Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội
đồng nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện, quận thực hiện chức năng
quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của

Ủy ban nhân dân huyện, quận và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống
nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở.
- Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng
nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân
huyện, quận, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban
nhân dân huyện, quận và cơ quan chuyên môn cấp trên.
- Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức
Hội đồng nhân dân thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện gồm có phòng và cơ quan tương
đương phòng (sau đây gọi chung là phòng). Tổ chức phòng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực;
bảo đảm tinh gọn, hợp lý, hiệu quả; phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện
và điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và yêu
cầu cải cách hành chính nhà nước.
Việc tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội
đồng nhân dân phải bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ủy
ban nhân dân huyện và bảo đảm tính thống nhất, thông suốt về quản lý ngành, lĩnh vực công tác
từ trung ương đến cơ sở.
2.2.3. Vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở huyện nơi không có Hội
đồng nhân dân
Xuất phát từ vị trí, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn thí
điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, Điều 14 Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12
đã chỉ rõ:
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở
huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân được mời dự các phiên họp của Ủy ban nhân dân
cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.
- Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân tạo điều kiện thuận lợi để
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cùng cấp tổ chức, động viên

9

nhân dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức thực hiện các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức.
- Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân thực hiện chế độ thông
báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân cùng cấp.
- Ủy ban nhân dân và các thành viên của Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng
nhân dân có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân cùng cấp.
2.3. Đánh giá bước đầu về mô hình tổ chức chính huyện không có Hội đồng nhân
dân
2.3.1. Những ưu điểm của mô hình tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng
nhân dân
Trong giai đoạn hiện nay, việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện vì những ưu điểm
sau đây:
Một là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện tuy có giảm tổ chức và số lượng đại biểu
Hội đồng nhân dân nhưng vẫn đảm bảo quyền dân chủ đại diện của người dân và đồng thời có
điều kiện phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố, thị xã và Hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong việc đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, giám sát hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước tại địa phương.
Hai là, không tổ chức Hội đồng nhân dân sẽ góp phần tinh giản bộ máy, biên chế, thu gọn
đầu mối các cơ quan nhà nước, giảm bớt sự chồng chéo và các khâu trung gian trong hoạt
động của bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Bên cạnh
đó, các chỉ tiêu về phát triển kinh tế xã hội do tỉnh giao sẽ thực hiện nhanh hơn do một số
công việc có thể triển khai mà không phải thông qua Hội đồng nhân dân huyện.
Ba là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện không chỉ khắc phục sự trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan, mà còn góp phần định rõ vị trí, trách nhiệm của chính quyền
địa phương các cấp trong hệ thống cơ quan nhà nước, nhằm đảm bảo tính thống nhất, thông
suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Tăng tính

chủ động, tự chịu trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân huyện; tăng cường vai trò, trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan hành chính và cả trách nhiệm của tập thể Ủy ban nhân dân theo
nguyên tắc tập trung, dân chủ.
Bốn là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện góp phần tiết kiệm một phần kinh phí
chi cho quản lý nhà nước do không phải chi trả cho các hoạt động của Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
Năm là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện sẽ không ảnh hưởng đến việc điều động
cán bộ vì đại biểu Hội đồng nhân dân đa số đều là hoạt động kiêm nhiệm, số hoạt động
chuyên trách không đáng kể.
Sáu là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện góp phần làm cho chính quyền địa
phương ở nước ta gần dân, sát dân và phục vụ nhân dân tốt hơn.
Bảy là, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện là chủ trương lớn, được Đảng và Nhà
nước quan tâm chỉ đạo sát sao, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và nhân dân đồng thuận
cao.

10
2.3.2. Những hạn chế của mô hình tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng
nhân dân
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, mô hình tổ chức chính quyền không có Hội đồng nhân
dân còn có những mặt hạn chế sau đây:
Một là, mô hình tổ chức chính quyền huyện không có Hội đồng nhân dân đang trong giai
đoạn thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước. Tuy nhiên, sự thay
đổi của mô hình tổ chức chính quyền này chủ yếu là thay đổi về cơ cấu các cơ quan mới, còn
việc thay đổi về tên gọi của Ủy ban nhân dân huyện và cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân nơi không có Hội đồng nhân dân vẫn chưa được đề cập tới.
Hai là, cơ cấu Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân vẫn gồm có
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên nhưng “do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”. Theo Điều 2, Thông tư số 01/2009/TT-BNV ngày 19 tháng 3
năm 2009 của Bộ Nội vụ hướng dẫn trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chủ
tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường nơi không tổ chức Hội

đồng nhân dân, việc bổ nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân không còn có sự tham
gia của các hình thức đại diện nhân dân còn lại như Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân vào
quá trình này nữa.
Ba là, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân
so với trước đây không giảm bớt mà còn bổ sung mới. Ủy ban nhân dân huyện nơi thực hiện
thí điểm lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi ngân sách địa
phương, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp để trình Hội đồng nhân dân quyết định.
Như vậy, Ủy ban nhân dân nơi thực hiện thí điểm vẫn thể hiện theo hướng là một cấp ngân
sách - tiếp tục là một cơ quan lập dự toán ngân sách Nhà nước. Khi không tổ chức Hội đồng
nhân dân huyện mà lại giao cho Ủy ban nhân dân huyện được tự mình quyết định các nội
dung về ngân sách trong khi chưa tạo được một cơ chế kiểm tra, kiểm toán, giám sát rõ ràng
(vì không còn Hội đồng nhân dân huyện) là vấn đề cần được cân nhắc thận trọng.
Bốn là, 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thực hiện thí điểm không có Hội đồng nhân
dân huyện sẽ lúng túng việc sắp xếp cán bộ dôi dư và giải quyết công việc cho cán bộ, công chức
đang hoạt động trong bộ máy Hội đồng nhân dân huyện. Bên cạnh đó, vướng mắc nhất là chế độ cho
số cán bộ đang công tác chuyên trách tại những Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ không tổ chức
lại.
Năm là, việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện liên quan đến các quy định
của Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và tổ chức hoạt động của hệ
thống chính trị, vì vậy, khi địa phương phát sinh các vấn đề mới sẽ mất nhiều thời gian để các cơ
quan có thẩm quyền xử lý, giải quyết trong khi chưa kịp sửa đổi, bổ sung các quy định hiện
hành.
Sáu là, chưa phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể Ủy ban nhân dân và cá
nhân người đứng đầu cơ quan hành chính và chưa tính đến mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân
huyện với tổ chức và hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể, Mặt trận như thế nào đối với
những nơi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường là chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng không chỉ đối với cấp ủy Đảng và
chính quyền của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thực hiện thí điểm, mà còn là nhiệm
vụ và trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính phủ và các cơ quan ban ngành ở trung

ương có liên quan. Thực hiện tốt việc thí điểm này sẽ là căn cứ thực tiễn rất quan trọng để tiến tới
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nhằm tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương, góp phần xây

11
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3
MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN CHỈNH MÔ HÌNH TỔ CHỨC
CHÍNH QUYỀN HUYỆN TRONG KHI THỰC HIỆN THÍ ĐIỂM
VÀ TRIỂN KHAI RA DIỆN RỘNG SAU NÀY MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
HUYỆN KHÔNG CÓ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Hiện tại, mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện đang trong giai đoạn thực hiện
thí điểm, tuy nhiên, vẫn còn một số điểm chuyển đổi chưa phù hợp, chưa logic với tổ chức
mới. Theo chúng tôi, cần phải tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện cho phù hợp với cái chung trong
giai đoạn hiện nay.
3.1. Thay đổi tên gọi cho phù hợp với tính chất mới
Giai đoạn Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Ủy ban nhân dân (hiện hành) được gọi là
Ủy ban hành chính. Mãi đến Hiến pháp 1980, ở địa phương, cơ quan quản lý nhà nước mới
được đổi tên là Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, so với Hiến pháp năm 1959, cơ quan nhà nước ở
cơ sở (Ủy ban hành chính) chỉ khác nhau về tên gọi còn tính chất pháp lý, vị trí và vai trò vẫn
giữ nguyên như trước đây.
Sau khi có Hiến pháp mới năm 1992, chúng ta nghiên cứu xây dựng dự thảo luật mới để
thay thế Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989, vấn đề tên gọi của
Ủy ban nhân dân đã được đặt ra, nhưng vẫn chưa có gì thay đổi.
Do đó, bên cạnh việc sắp xếp, bố trí nhân sự, chuyển đổi chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân
dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân, theo chúng tôi cần phải nghiên cứu, xem xét hoàn
chỉnh về tên gọi của Ủy ban nhân dân huyện.
3.2. Hoàn thiện về cách thức thành lập
Xét một cách chung nhất, Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân

không phải là một cơ quan thành lập mới, nhưng cách thức thành lập Ủy ban nhân dân đã có
thay đổi rõ rệt.
Trong việc thành lập Ủy ban nhân dân huyện nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân cần
phải nghiên cứu theo hướng tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể trong từng lĩnh vực cụ thể. Nếu làm tốt được điều này
không chỉ góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Ủy ban nhân dân nơi không tổ chức Hội đồng
nhân dân mà còn đảm bảo tính dân chủ, khách quan, tạo niềm tin trong nhân dân theo đúng
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
3.3. Hoàn thiện việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của cơ cấu cơ quan mới
Theo tinh thần của sự đổi mới, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân huyện nơi
không có Hội đồng nhân dân không giảm bớt mà được tăng cường và mở rộng hơn so với
trước đây.
Do đó, để Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ được giao thì Ủy ban nhân dân huyện phải chủ động, sáng tạo để triển khai
thực hiện có hiệu quả:
Một là, sớm kiện toàn đội ngũ lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện, khẩn trương bổ nhiệm cán bộ

12
có năng lực, đúng đối tượng để bộ máy được kịp thời hoàn thiện và đi vào hoạt động. Thí điểm có
thành công hay không, vấn đề này là cốt lõi.
Hai là, có chế độ chính sách phù hợp đối với các cán bộ được điều động, luân chuyển,
nghỉ hoặc phân công lại một cách hợp lý, chu đáo.
Ba là, có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, tránh mâu thuẫn và chồng chéo nhiệm vụ.
Bốn là, phải xác định rõ phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn trong việc thu chi ngân sách
nhằm bảo đảm các hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội
và các mặt khác ở địa phương.
Năm là, sớm ban hành chính sách cán bộ và quy chế hoạt động mẫu đối với chức danh Bí
thư, Chủ tịch, Ủy ban nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân.
Sáu là, có chế độ báo cáo, giao ban định kỳ và phản ánh kịp thời công tác thí điểm, có
tổng kết và đánh giá cụ thể.

Bảy là, đổi mới phương thức, lề lối làm việc của hệ thống hành chính huyện sao cho đảm
bảo tốt tính nhanh nhạy, thông suốt, kỷ cương, nghiêm túc.
Tám là, tăng cường các hoạt động giám sát và giám sát một cách thực chất có kết quả, có
hiệu lực cụ thể của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trên địa bàn.
3.4. Hoàn chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu chính quyền huyện mới với tổ chức Đảng, cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
3.4.1. Mối quan hệ giữa chính quyền huyện mới với tổ chức Đảng
Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân cần phải đổi mới mạnh mẽ đối
với tổ chức Đảng, bộ máy của các tổ chức Đảng cần phải gọn nhẹ, tăng cường sử dụng bộ
máy cấp chính quyền làm nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy đảng địa phương về chủ trương và
các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Để hoạt động của chính quyền huyện có hiệu quả, cần phải tôn trọng và đề cao vai trò của
Đảng, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo đường lối của Đảng. Các tổ chức Đảng và đảng
viên tại chính quyền huyện phải gương mẫu, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân;
phải thật sự là người phục vụ nhân dân, đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của nhân dân, người
bảo vệ mọi lợi ích chính đáng của nhân dân.
Như vậy, trong điều kiện từng bước khẳng định mạnh mẽ vai trò và quyền lực quản lý của
Nhà nước pháp quyền, với tư cách là Đảng cầm quyền, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền huyện, nhằm xây dựng và hoàn
thiện các cơ chế thực thi quyền chi phối hợp pháp của Đảng cầm quyền đối với tổ chức và
hoạt động của chính quyền huyện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức bộ máy, cán bộ,
kiểm tra, giám sát. Đồng thời, cần xác định rõ hơn, cụ thể hơn chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan Đảng với chính quyền huyện mới trong giai đoạn thí điểm.
3.4.2. Mối quan hệ giữa chính quyền huyện mới với cơ quan nhà nước
Mối quan hệ với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương
Để phát huy được thế mạnh, Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân cần
phải đổi mới phương thức làm việc, phối hợp chặt chẽ với chính quyền cấp trên để triển khai các
nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của pháp luật. Kịp thời báo cáo với cấp trên giải quyết
những vướng mắc, khó khăn khi triển khai thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân

và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi không có Hội đồng nhân dân cần
phải làm tốt chức năng giám sát, đôn đốc và chỉ đạo kịp thời đối với chính quyền huyện, tăng

13
quyền chủ động, sáng tạo cho Ủy ban nhân dân huyện thì mới phát huy được sức mạnh tổng hợp
trên địa bàn.
Mối quan hệ với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã
Trong giai đoạn thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, chính quyền huyện mới cần
phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước cấp trên và cấp dưới, góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
3.4.3. Mối quan hệ giữa chính quyền huyện mới với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
cấp
Mọi hoạt động của chính quyền huyện không thể đặt Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra bên
ngoài. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền huyện là quan hệ hợp tác
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã được Hiến pháp và pháp luật qui định. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoạt động theo pháp luật và qui chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và chính quyền.
Vì vậy, trong giai đoạn thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, cần tăng cường hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể một cách thường xuyên, liên
tục, phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền huyện với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể với
giám sát của nhân dân. Chính quyền huyện cần tạo điều kiện và chủ động đề xuất với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam để tham gia củng cố và xây dựng chính quyền địa phương, còn Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cũng phải chủ động chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân,
động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
KIẾN NGHỊ CHUNG
Một là, việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện là vấn đề hệ trọng,
nhạy cảm, liên quan đến tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, do đó, cần phải tiến hành
thận trọng, có bước đi thích hợp trên cơ sở xây dựng các quy định pháp lý đầy đủ làm căn cứ cho

việc thực hiện thí điểm; quán triệt và thực hiện nghiêm các văn bản của Đảng và Nhà nước về vấn
đề này.
Hai là, cần tăng cường công tác tuyên truyền thông qua các cơ quan thông tin, truyền
thông, tổ chức tập huấn, phổ biến, quán triệt để cán bộ, công chức, nhân dân nắm bắt được
chính xác chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, qua việc tuyên
truyền, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị của nhân dân để báo cáo các cấp có thẩm quyền tiếp thu
nhằm tổ chức tốt việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện và hoàn thiện tổ chức
bộ máy chính quyền địa phương.
Ba là, cần xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể cho việc triển khai và tổ chức chỉ đạo việc
thực hiện thí điểm; chuẩn bị sẵn phương án, kế hoạch, nội dung cho sơ kết, tổng kết và đánh
giá việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện.
Bốn là, coi trọng việc lựa chọn và giới thiệu những người thực sự tiêu biểu, có đủ phẩm
chất đạo đức, năng lực, trình độ để cơ quan có thẩm quyền xem xét, bổ nhiệm các chức danh
Chủ tịch, Phó Chủ tịch, ủy viên Ủy ban nhân dân huyện nơi không có Hội đồng nhân dân.
Thực hiện công khai, dân chủ việc sắp xếp, bố trí cán bộ hiện đang giữ các chức vụ tại Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện nơi thực hiện thí điểm. Trường hợp bố trí cán bộ vào
vị trí thấp hơn hoặc không thể bố trí giữ các chức vụ thì cần phải xem xét giải quyết chế độ,
chính sách phù hợp đối với đội ngũ cán bộ này.
Năm là, quá trình triển khai thí điểm phải đảm bảo sự hoạt động liên tục, thông suốt của các

14
cơ quan nhà nước trên địa bàn huyện, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự trị an và phát triển kinh tế-
xã hội, đảm bảo cung cấp tốt các dịch vụ công cho các tổ chức và cá nhân, không làm ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân trên địa bàn.
Sáu là, cần phải thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, báo cáo và định kỳ sơ kết, tổng
kết để đánh giá rút kinh nghiệm sau từng giai đoạn triển khai.
Bảy là, tiếp tục phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vấn đề đổi mới mô hình tổ chức chính quyền huyện phù
hợp với giai đoạn phát triển của đất nước luôn được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, một nội
dung cải cách quan trọng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải cách hành chính và luôn
xác định cải cách hành chính là một khâu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới để phát triển đất
nước. Các cơ quan nhà nước, trong đó Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chương
trình, kế hoạch đã triển khai cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất
là chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Trong đó, đổi mới
mô hình tổ chức chính quyền địa phương nói chung và đổi mới mô hình tổ chức chính quyền
huyện nói riêng là một phần quan trọng, gắn bó hữu cơ với toàn bộ chiến lược và chương trình cải
cách bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trong bối cảnh đó, với tinh thần chủ động cải cách về mô hình tổ chức chính quyền địa
phương, nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc và trên cơ sở tổng kết, đánh giá
kỹ lưỡng hiệu quả, tác động của cải cách, để có chủ trương phù hợp sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp về tổ chức chính quyền địa phương, Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01 tháng 8 năm
2007 của Hội nghị Ban chấp hành trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đề ra chủ trương cho phép thí điểm: (i)
đối với chính quyền nông thôn: không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện; (ii) đối với
chính quyền đô thị: ở huyện, quận, phường không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Bỏ bớt Hội đồng nhân dân huyện, tập trung tự quản cho cấp cơ sở, nâng cao trách nhiệm
tự quản của Hội đồng nhân dân tỉnh, không chỉ làm gọn nhẹ tổ chức tự quản ở địa phương mà
còn là một trong những điều kiện gắn Nhà nước với dân làm cho bản chất nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trở nên hiện thực.
Đây có thể coi là một định hướng đổi mới rất cơ bản về tổ chức bộ máy chính quyền địa
phương ở nước ta của thời kỳ đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường, phù hợp mục tiêu cải
cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là kết quả của sự tìm tòi nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp với những thay
đổi về vai trò, chức năng của bộ máy nhà nước nói chung, của từng cấp chính quyền địa
phương nói riêng trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, để cải cách một cách toàn diện về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương nhằm giải quyết những bất cập hiện nay thì sẽ đụng nhiều đến các quy định của Hiến
pháp năm 1992, đòi hỏi phải tính đến việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trong khi, việc sửa
đổi Hiến pháp luôn là một vấn đề hết sức hệ trọng, đòi hỏi phải có thời gian để đánh giá, tổng
kết thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn thực hiện cương lĩnh của Đảng một cách toàn
diện, sâu sắc nhằm nghiên cứu lý giải những vấn đề về cơ sở lý luận một cách thuyết phục.

15
Do đó, việc tổ chức thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện trong giai đoạn này là
rất cần thiết.
Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện có thành công hay không còn tùy
thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan trong quá trình triển khai thực hiện. Qua giai
đoạn thí điểm, nếu đạt kết quả tốt thì sẽ triển khai rộng rãi mô hình tổ chức chính quyền huyện
không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Có thể thấy, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện là chính sách đổi mới của Đảng
trong giai đoạn cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu mô hình tổ chức chính
quyền huyện trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân mới ở bước đầu trên cơ sở kế
thừa, học hỏi những kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả ở trong nước. Do đó, luận văn này
sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Tôi hy vọng trong thời gian tới, đề tài này tiếp tục được nghiên cứu, đưa ra các giải pháp ở
tầm vĩ mô nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền huyện trong điều kiện không tổ chức
Hội đồng nhân dân, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ
thống hành chính nhà nước.

References
1. Lưu Văn An (2008), Thể chế chính trị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám dưới góc
nhìn hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Quốc Anh (chủ biên) (2006), Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1988), Văn kiện Đảng (1945-1954), tập 1, Hà

Nội.
4. Bộ Nội vụ (2008), Báo cáo tổng hợp "Đánh giá của thường trực Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương về thực trạng tổ chức
và hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2009), Thông tư số 01/2009/TT-BNV ngày 19/3 hướng dẫn trình tự, thủ tục bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân
huyện, quận, phường nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
6. Bộ Nội vụ (2009), Thông tư số 02/2009/TT-BNV ngày 19/3 hướng dẫn triển khai thực
hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
7. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
8. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 63/SL ngày 23/11của Chủ tịch Chính phủ lâm thời về tổ chức
các Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, Hà Nội.

16
9. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 77/SL ngày 21/12 Chủ tịch Chính phủ lâm thời về tổ chức
Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính thành phố, khu phố, Hà Nội.
10. Chính phủ (2004), Nghị định số 107/2004/NĐ-CP ngày 01/4 quy định số lượng Phó Chủ
tịch và cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân các cấp, Hà Nội.
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02 sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 107/2004/NĐ-CP ngày 01/4 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
12. Chính phủ (2008), Đề án Thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường và nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, ngày 30/10, Hà
Nội.
13. Chính phủ (2008), Tờ trình số 18/TTr-CP ngày 30/10 của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa XII về Đề án và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm không
tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
14. Chính phủ (2009), Nghị định số 27/2009/NĐ-CP ngày 19/3 sửa đổi, bổ sung Nghị định số
107/2004/NĐ-CP ngày 01/4 quy định số lượng Phó Chủ tịch và cơ cấu thành viên

Ủy ban nhân dân các cấp, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương, Nxb Đồng
Nai, Đồng Nai.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Chỉ thị số 33-CT/TU ngày 24/01 của Bộ Chính trị về
việc xây dựng chính quyền huyện và tăng cường cấp huyện, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8 Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Chỉ thị số 31-CT/TW ngày 12/3 của Bộ Chính trị về
lãnh đạo thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường, Hà Nội.
24. Nguyễn Minh Đoan (2003), "Về cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp cơ sở
ở nước ta hiện nay", Luật học, (2), tr.1-4.
25. Bùi Xuân Đức (2002), "Đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện
nay", Nghiên cứu Lập pháp, (9), tr.18-26.
26. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
27. Bùi Xuân Đức (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức chính quyền huyện: nhìn từ kinh

nghiệm lịch sử", Dân chủ và Pháp luật, (3), tr.18-26.
28. Bùi Xuân Đức (2008), "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc không tổ chức Hội đồng nhân
dân ở huyện, quận và phường", Nghiên cứu Lập pháp, 14 (130), tr.15-21.
29. Bùi Xuân Đức (2009), "Vai trò giám sát của Mặt trận đối với Ủy ban nhân dân huyện,
quận, phường sẽ ra sao khi không còn Hội đồng nhân dân?", Mặt trận, (1), tr.16-19.
30. Hội đồng Bộ trưởng (1983), Nghị định số 50-HĐBT ngày 17/5 về tiếp tục đẩy mạnh công
tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, Hà Nội.
31. Hội đồng Chính phủ (1978), Nghị quyết số 33-CP ngày 04/02 bổ sung nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của chính quyền Nhà nước cấp huyện trong lĩnh vực quản lý
kinh tế, Hà Nội.
32. Doãn Đình Huề (2005), "Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị – xã hội ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (89).
33. Vũ Ngọc Khánh (1993), "Tổ chức chính quyền cấp huyện, phủ trước cách mạng tháng
Tám", Người đại biểu nhân dân, (23).

18
34. Trương Đắc Linh (2002), Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật.
35. Trương Đắc Linh (2005), "Chính quyền địa phương ở Việt Nam: Quá trình hình thành,
phát triển và vấn đề đổi mới", Nhà nước và Pháp luật, (9), tr.32-41.
36. Trương Đắc Linh (2009), "Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện,
quận và phường: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Khoa học pháp lý, (2), tr.3-
12.
37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (đồng chủ biên) (2001), 55 năm xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
39. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
40. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

41. Quốc hội (1958), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
42. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
43. Quốc hội (1962), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, Hà
Nội.
44. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
45. Quốc hội (1983), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
46. Quốc hội (1989), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi, bổ
sung), Hà Nội.
47. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
48. Quốc hội (1994), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
49. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
50. Quốc hội (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội
51. Quốc hội (2008), Nghị quyết số 25/2008/QH12 ngày 14/11 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt
động 2004 – 2009 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Hà Nội.

19
52. Quốc hội (2008), Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11 khóa XII về thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
53. Lê Minh thông, Nguyễn Như Phát (đồng chủ biên - 2002), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
54. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, Hà Nội.
55. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Nghị quyết số 274/2009/UBTVQH12 ngày 16/01 về
danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực
hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
56. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Nghị quyết số 275/2009/UBTVQH12 ngày
16/01/2009 về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quy định nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường nơi không tổ chức Hội

đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hà Nội.
57. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), "Chuyên đề năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý hành chính nhà nước thực trạng, nguyên nhân và giải pháp",
Thông tin Khoa học pháp lý, (12).
58. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), "Chuyên đề về Tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương", Thông tin Khoa học pháp lý, (10).
59. Viện Sử học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1996), Cải cách hành
chính dưới Triều Minh Mệnh (1820-1840), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
TRANG WEB
60.
61.
62.
63.
64.
65.

20



×