Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CÔNG TÁC KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.2 KB, 17 trang )

CÔNG TÁC KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
PGS. TS. Ngô Thắng Lợi
Khoa KH và Phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân
“Thất bại trong việc lập kế hoạch là lập kế hoạch cho sự thất bại”
Mở đầu
Kế hoạch (KH) là một trong những công cụ quản lý quan trọng của các cấp chính
quyền, từ trung ương đến địa phương. KH tốt là điều kiện tiền đề để tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của công tác KH đã và đang
tiếp tục được khẳng định. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển từ KH hoá tập trung sang cơ
chế thị trường thì vai trò, bản chất và nội dung của KH cũng cần thay đổi. Nội dung
chính của bài viết này là: lý giải vì sao công cụ KH vẫn rất cần thiết trong nền kinh
tế thị trường; so sánh sự khác biệt của Kh trong nền kinh tế thị trường với KH kiểu
cũ để thấy rõ yêu cầu cần đổi mới KH trong giai đoạn hiện nay; đưa ra một số tiếp
cận mới cần được áp dụng trong đổi mới KH ở nước ta hiện nay.
I. Sự cần thiết của KH trong nền kinh tế thị trường
1. KH là một công cụ thực hiện sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị
trường: chúng ta sẽ lý giải điều này một cách hệ thống, từ việc xác định vai trò
của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường, cho đến hệ thống hoá các công cụ
thực hiện sự can thiệp, trong đó kế hoạch được xem là một trong những công
cụ giữ vị trí hàng đầu.
1.1. Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường
Trước hết phải khẳng định rằng nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, nhưng nó
cũng không phải là lý tưởng như nhiều người mong muốn, rất nhiều hạn chế từ cơ chế
điều tiết của thị trường gây ra và những hạn chế đó đã đem đến hậu quả không nhỏ. Đó là
những lý do để lý giải cho việc phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện nay thực hiện
vai trò của chính phủ trong việc can thiệp vào nền kinh tế thị trường. Tổng hợp từ lý luận
kinh tế học cũng như thực tiễn thực hiện sự can thiệp vào nền kinh tế của chính phủ nhiều
1
nước, trong đó có ở Việt Nam, cho thấy có ít nhất ba lý do chính lập luận cho sự can
thiệp của Chính phủ:


1.1.1. Nhà nước can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường, hướng hoạt động
của thị trường vào hiệu quả xã hội
Bản thân thị trường có thể đem đến những kết cục phi hiệu quả. Chính phủ can
thiệp sẽ hy vọng hướng thị trường hoạt động theo hướng có hiệu quả hơn. Trong trường
hợp thị trường độc quyền, Chính phủ can thiệp nhằm kiểm soát chặt chẽ thị trường, để
đảm bảo rằng các rào cản đối với sự gia nhập thị trường không trở thành những phương
tiện khuyến khích quyền lực độc quyền. Đối với các ngoại ứng
1
, Chính phủ can thiệp để
buộc các bên tham gia giao dịch thị trường phải tính đến tác động của mình gây ra cho
đối tượng thứ ba, nhờ đó có thể điều chỉnh các hoạt động của thị trường đạt tới mức tối
ưu xã hội. Chẳng hạn, đối với ngoại ứng tích cực, chính phủ có thể khuyến khích việc gia
tăng sản xuất bằng cách trợ cấp cho người tạo ra ngoại ứng tích cực (trợ giá cho việc tiêm
chủng là một thí dụ). Ngược lại, với ngoại ứng tiêu cực, chính phủ có thể đánh thuế để
“phạt” những người gây thiệt hại cho xã hội. Chính phủ cần đứng ra để thực hiện việc
cung cấp hàng hóa công cộng (chẳng hạn như đường sá, cầu cống và hệ thống kết cấu hạ
tầng KTXH) vì những loại hàng hoá này rất cần cho sự vận hành của nền kinh tế nhưng
khu vực tư nhân lại từ chối cung cấp. Sự can thiệp của Chính phủ trong các thị trường sẽ
bổ sung thông tin cho thị trường, hoặc kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về
thông tin để đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Vai trò này ngày càng được
nhận thức là vô cùng quan trọng, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin. Việc chính
phủ ra các qui định nghiêm ngặt về thông tin hướng dẫn sử dụng thực phẩm dược phẩm
là một thí dụ rõ ràng cho sự điều tiết của chính phủ trong trường hợp này. Cuối cùng,
khuyết tật về sự bất ổn định do nền kinh tế do thị trường gây ra (giá cả bất ổn định, lạm
phát, thất nghiệp ) có khả năng được khắc phục khi Chính phủ can thiệp bằng việc chủ
động đưa ra và thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn
phát triển kinh tế khác nhau để đưa nền kinh tế trở về trạng thái ổn định lâu dài.
1.1.2. Nhà nước can thiệp nhằm thực hiện những hoạt động mà thị trường không điều
tiết
Những thất bại thị trường đặt vấn đề cần phải có sự can thiệp của Chính phủ

nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy vậy, ngay cả khi nền kinh
1
Ngoại ứng là một thuật ngữ kinh tế để chỉ những trường hợp hoạt động của những đối tượng trên thị
trường gây ảnh hưởng đến một đối tượng khác mà những ảnh hưởng đó không được phản ánh trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ. Ví dụ điển hình nhất của ngoại ứng (tiêu cực) là ô nhiễm môi trường, trong đó các doanh
nghiệp sản xuất và làm tổn hại đến môi trường, nhưng họ không quan tâm đến điều đó một khi họ không
phải đền bù cho những thiệt hại môi trường mà họ gây ra.
2
tế vận hành có hiệu quả, thì vẫn còn hai lý do nữa để Chính phủ cần phải can thiệp, đó là
phân phối lại thu nhập nhằm thực hiện công bằng xã hội và hàng hóa khuyến dụng.
(1) Vấn đề phân phối lại thu nhập và tạo cơ hội kinh tế cho mọi người:
Sự không hoàn hảo của thị trường thường dẫn đến kết cục là sự thiếu công bằng.
Chính phủ phải có trách nhiệm thực hiện việc phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư, đồng thời trợ giúp cho các đối tượng dễ tổn thương như người già, người nghèo,
trẻ em, người tàn tật. Thông thường, Chính phủ có thể tiến hành các chương trình trợ cấp
trực tiếp cho từng cá nhân để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Nhiều khi các chương
trình phân phối lại còn được thực hiện dưới dạng cung cấp các phương tiện, dịch vụ cho
cả cộng đồng như chương trình 135 (xây dựng điện, đường, trường, trạm ở nông thôn);
chương trình nước sạch nông thôn; chương trình xóa đói giảm nghèo v.v
Mặt khác, việc sử dụng quyền lực của Chính phủ để tạo ra sự bình đẳng về cơ hội
cho mọi công dân, không phân biệt tình trạng cá nhân, có thể làm lợi cho xã hội nói
chung vì nó sẽ giúp các cá nhân có nhiều cơ hội hơn để đặt năng lực của mình vào công
việc phù hợp nhất, có năng suất cao nhất.
(2) Vấn đề hàng hóa khuyến dụng
Những hàng hóa hay dịch vụ mà việc tiêu dùng chúng có lợi cho cá nhân và xã
hội, nhưng cá nhân không tự nguyện tiêu dùng, khiến chính phủ phải bắt buộc họ sử dụng
gọi là hàng hóa khuyến dụng.
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, cá nhân nói chung nhiều khi không nhận thức hết
được lợi ích hoặc tác hại của việc tiêu dùng một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó, ngay
cả khi họ có đầy đủ thông tin. Chẳng hạn, ai cũng biết hút thuốc là có hại cho sức khỏe,

nhưng rất nhiều người vẫn tiếp tục hút. Nhiều gia đình tham gia tiêm chủng sẽ giúp trẻ
em phòng chống nhiều căn bệnh nguy hiểm nhưng họ vẫn không hướng dẫn con em mình
thực hiện công việc này, bất kể việc tiêm chủng là miễn phí hay phải trả tiền.
Như vậy, sự can thiệp của Chính phủ trong trường hợp hàng hóa khuyến dụng bắt
nguồn từ một chức năng gọi là chức năng "phụ quyền" của Chính phủ. Vai trò của Chính
phủ ở đây giống như vai trò của người cha trong gia đình. Khi người cha thấy con cái
mình chỉ hành động vì lợi ích trước mắt, mà không nghĩ đến tương lai lâu dài, thì người
cha phải can thiệp để điều chỉnh hành vi của con cái. Sự can thiệp này có thể chỉ ở mức
độ giáo dục, giải thích thuyết phục, nhưng nếu cần thì có thể biến thành mệnh lệnh bắt
buộc.
3
1.1.3. Nhà nước can thiệp nhằm hướng hoạt động KTXH của đất nước theo những mục
tiêu mà Chính phủ cần đạt tới
Nếu hai lý do trên liên quan đến những khuyết tật của thị trường trong vấn đề
phân bổ nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu ngay trước mắt thì lý do thứ ba này lại
đề cập đến một hạn chế khác của thị trường, đó là sự thiển cận không có tầm nhìn xa
chiến lược cho các vấn đề dài hạn. Nguyên nhân của nó là vì thị trường tự do được hình
thành từ sự tương tác giữa vô số người mua và người bán trên thị trường. Những người
này đều chỉ có động cơ tối đa hoá lợi ích ngắn hạn của mình, còn họ không có động lực
và phương tiện để chăm lo cho những lợi ích dài hạn của cả cộng đồng. Do đó, Chính
phủ, với tư cách là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng dân cư, phải hướng
nền kinh tế phát triển theo định hướng chiến lược dài hạn mà Chính phủ cho rằng có lợi
cho cả xã hội nói chung.
Với tư cách là một tổ chức ra đời nhằm thực thi những quyền hành nhất định đối
với xã hội, chính phủ thường đặt ra những mục tiêu mà xã hội cần đạt tới trong một thời
gian nhất định hay một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ như: Chính phủ muốn hướng trình độ
dân trí của đất nước sẽ đạt được ở một mức độ nào đó trong một khoảng thời gian nhất
định, muốn thể lực tầm vóc của người dân phải tăng lên một mức độ tương xứng so với
thế giới, hay muốn kìm hãm tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên ở một tỉ lệ thấp v.v Để
đạt được những ý muốn của mình, Chính phủ phải can thiệp trực tiếp vào các lĩnh vực đó

bằng việc hoạch định những mục tiêu cụ thể thông qua các chiến lựơc, KH, chương trình
phát triển như: chương trình cải cách giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục, chương
trình chăm sóc sức khỏe, chương trình kế hoạch hóa gia đình v.v Cùng với việc đưa ra
các chương trình, Chính phủ sử dụng nguồn lực, khả năng tài chính của mình để tổ chức
thực hiện mục tiêu.
Một khía cạnh khác liên quan đến vấn đề sứ mệnh và an ninh quốc gia. Chính
phủ không cho phép thị trường trực tiếp can thiệp vào một số lĩnh vực như: an ninh quốc
phòng, bí mật quốc gia hay quan hệ quốc tế. Để thực hiện mục tiêu về các vấn đề này,
chính phủ tổ chức lực lượng an ninh nhân dân, quân đội nhân dân, những doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp quốc phòng và một lượng tài chính nhà nước đủ lớn để thực hiện
việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cho các lĩnh vực đó.
Như vậy, việc tăng cường sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế không chỉ
xuất phát từ những khuyết tật vốn có của thị trường mà nó còn mang một ý nghĩa cao hơn
nhằm hướng xã hội tới một đời sống tốt đẹp hơn mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng
không làm được.
4
1.2. Những công cụ thực hiện sự can thiệp
Để thực hiện được các chức năng nói trên, Chính phủ thường sử dụng nhiều công
cụ khác nhau:
1.2.1. Hệ thống pháp luật và những quy định dưới luật
Chính phủ xây dựng và thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ thống pháp luật và những
văn bản dưới luật để tiến tới quản lý bằng pháp luật. Việc sử dụng công cụ pháp luật,
giúp Chính phủ quản lý, điều tiết hành vi kinh doanh của các doanh nhân, điều tiết được
hoạt động kinh tế thị trường. Việc thiếu luật hoặc luật thiếu đồng bộ, không phù hợp sẽ
làm tổn thương đến nền kinh tế và xã hội trở nên rối rắm hơn. Vì vậy, phải xây dựng và
thực hiện đúng đắn, đồng bộ hệ thống pháp luật và các quy định dưới luật như Pháp lệnh,
Nghị định. Theo đó, mọi công dân có quyền tự do, chủ động sáng tạo trong giới hạn cho
phép của pháp luật.
1.2.2. Hoạch định phát triển
Các công cụ hoạch định phát triển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch, KH, chương

trình phát triển KTXH trực tiếp giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định vĩ mô và
định hướng tương lai trong điều kiện kinh tế thị trường. Chính phủ, thông qua công cụ
hoạch định, sẽ đánh giá được tình hình kinh tế hiện tại và mức độ, khả năng giải quyết
các vấn đề KTXH tại một thời điểm nhất định; xây dựng các mục tiêu chiến lược định
hướng sự phát triển KTXH của các nước, từng vùng, từng ngành trong tương lai; liên kết
mục tiêu đặt ra với với cơ cấu nguồn lực, thực hiện các ưu tiên đầu tư cần thiết để thực
hiện có hiệu quả các mục tiêu; liên kết các ngành, vùng kinh tế thành một tổng thể thống
nhất theo các chương trình phát triển KTXH của quốc gia và các cấp khác; gắn các chính
sách vào cơ chế giải quyết các nhiệm vụ chiến lược đặt ra; cung cấp các thông tin và tình
hình thị trường trong và ngoài nước cho các nhà kinh doanh.
1.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Để thực hiện được các chức năng của mình, chính phủ thường sử dụng một hệ
thống chính sách, bao gồm hai loại:
- Chính sách định hướng phát triển. Các chính sách này có chức năng định hướng,
hướng dẫn các hoạt động KTXH, chỉ ra cách thức vận động của nền kinh tế để
hướng tới các mục tiêu phát triển đặt ra. Hệ thống chính sách định hướng phát
triển bao gồm: chính sách phát triển các ngành kinh tế: nông nghiệp, công nghiêp,
dịch vụ; chính sách phát triển các vùng kinh tế; chính sách phát triển các lĩnh vực
5
KTXH như: dân số - lao động và giải quyết việc làm, khoa học công nghệ, đất
đai, chính sách đầu tư, chính sácch mở cửa, hội nhập v.v
- Chính sách điều tiết vĩ mô, bao gồm chính sách tài khoá, tiền tệ. Chính phủ thông
qua các công cụ chủ yếu của chính sách tài khoá như: thuế, chi tiêu và công cụ
của chính sách tiền tệ như: lãi suất, tỷ giá, quy định tỷ tệ dự trữ bắt buộc trong các
ngân hàng, lãi suất chiết khấu v.v nhằm điều tiết nền kinh tế theo hướng thúc
đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các chính sách điều tiết còn nhằm tập trung vào thực hiện tốt quá trình phân phối
và phân phối lại thu nhập giữa các đơn vị kinh tế và các thành viên trong xã hội,
cũng như bảo đảm phúc lợi xã hội cho con người.
1.2.4. Lực lượng kinh tế nhà nước

Hiểu theo nghĩa chung nhất, kinh tế nhà nước bao gồm tổng thể các nguồn lực do
Nhà nước sở hữu đã, đang và chưa huy động vào sử dụng. Hệ thống kinh tế Nhà nước
được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh
nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp; các ngân hàng
thương mại nhà nước; công ty bảo hiểm nhà nước. Nhóm thứ hai là hệ thống phi doanh
nghiệp nhà nước, bao gồm NSNN; Ngân hàng nhà nước; Kho Bạc nhà nước, các Quỹ dự
trữ quốc gia; hệ thống tài nguyên, khoáng sản và đất đai; các dịch vụ công cộng do nhà
nước đảm nhận.
Việc can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế đưa kinh tế nhà nước trở thành
khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trở thành một chủ thể kinh tế lớn giúp
Chính phủ thực hiện chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả. Cụ thể:
Một là, với tư cách là chủ thể kinh tế có tiềm năng mạnh, Chính phủ đã tham gia
vào vòng luân chuyển kinh tế, sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ nhà nước như một công
cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực, hướng nền kinh tế theo các mục tiêu vĩ
mô đã định.
Hai là, các lực lượng dự trữ quốc gia thể hiện cả bằng hiện vật và giá trị là công
cụ giúp Chính phủ ổn định thị trường, cân bằng cung - cầu; bảo đảm ổn định kinh tế,
công bằng xã hội, an ninh quốc gia; thực hiện các định hướng phát triển.
Cuối cùng, hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng: cung cấp
hàng hoá dịch vụ, giải quyết việc làm, thu nhập, kích thích tiêu dùng, chống đỡ khủng
hoảng kinh tế. Với tư cách là công cụ để nhà nước điều tiết các hoạt động của nền kinh tế
quốc dân, thông qua đó hướng dẫn các khu vực kinh tế khác phát triển, các doanh nghiệp
6
nhà nước còn có tác dụng thúc đẩy và tạo môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển, tham
gia vào chống độc quyền tự nhiên, tối đa hoá phúc lợi xã hội.
Ở các cấp địa phương tỉnh, huyện, chính quyền địa phương cũng áp dụng được
các công cụ trên, nhưng được cụ thể hoá theo chức năng nhiệm vụ đã được phân cấp trên
địa bàn địa phương. Ví dụ, tỉnh cũng có thể đề ra cơ chế, chính sách trong phạm vi quyền
hạn của mình như chính sách ưu đãi đầu tư, thu hút nhân tài… Tỉnh cũng sử dụng hệ
thống KHH từ KH lãnh thổ (tỉnh, huyện, xã…) đến KH các ngành (công nghiệp, nông

nghiệp, thương mại dịch vụ, giáo dục, y tế…) để điều hành nền kinh tế trên địa bàn. Tuy
nhiên, cơ chế, chính sách của địa phương đưa ra không được vượt khung do Chính phủ
trung ương đã qui định.
Như vậy, hệ thống kế hoạch phát triển (KHPT) là một công cụ quản lý của chính
phủ để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Do đó, bất cứ khi nào còn chính phủ thì chính phủ
còn sử dụng công cụ quản lý này. Đặc trưng của nhóm công cụ này khác với các nhóm
khác là ở chỗ đây là phương pháp quản lý nền kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể
hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng
thời gian nhất định của một quốc gia, một vùng, một ngành hay một địa phương, và
những giải pháp chính sách cần thiết để đạt mục tiêu với hiệu quả và hiệu lực cao nhất.
Có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về KHH phát triển KTXH như sau:
KHH phát triển KTXH là một hoạt động can thiệp có ý thức của chính phủ vào
nền kinh té thị trường trên cơ sở đánh giá thực lực của nền kinh tế và nhận thức được sự
vận động của các qui luật khách quan để vạch ra hướng phát triển cho nền kinh tế quốc
dân trong từng giai đoạn nhất định cũng như những giải pháp lớn nhằm thực hiện được
định hướng đó một cách có hiệu quả.
2. KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm
Các địa phương cũng như trên phạm vi cả nước, luôn nằm trong tình trạng khan
hiếm nguồn lực, nhất là: vốn, lao dộng có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu
cứ để thị trường điều tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá
nhiều lợi nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của
những người giầu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực không thể huy
động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội
cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được phân bổ theo KH, nó sẽ bảo đảm
hướng được vào các vấn đề mang tính bức xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo
và những tầng lớp yếu thế trong xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp
với nhu cầu trong dài hạn của đất nước và địa phương.
7
3. KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài
Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể và những

dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết để nhận được sự ủng
hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong một chừng mực nhất định việc
mô tả dự án tỷ mỷ và cụ thể trong khuôn khổ một KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu
thì mong muốn của các địa phương về việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều
bấy nhiêu. Thực tế qua Hội nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt
Nam đã có một lộ trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy hành
chính nên Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước đến nay từ cộng
đồng các nhà tài trợ quốc tế.
4. KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình và huy
động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc của một địa
phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm
lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp dân chúng đằng sau chính
phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá bỏ nghèo đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ
của quần chúng và đi sâu vào các tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi
công dân đều cùng nhau là việc để xây dựng đất nước. Nhà nước khi có một KH kinh tế
được coi là được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết để vượt qua
những lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống
trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người.
II. Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ
chế tập trung mệnh lệnh
Như vậy, dù trong bất kỳ cơ chế nào, nếu còn Chính phủ và Chính phủ vẫn còn vai
trò điều tiết nền kinh tế vì lợi ích chung của xã hội thì Chính phủ vẫn phải sử dụng KH
như một công cụ quản lý. Chính phủ nào biết phát huy sức mạnh của công cụ này thì
càng có khả năng tận dụng hết các nguồn lực hiện có để phát triển KTXH trên địa bàn.
Tuy nhiên, khi cơ chế kinh tế thay đổi thì bản chất, nội dung và phương pháp KHH cũng
phải có sự đổi mới tương ứng.
1. Sự khác biệt về bản chất
8
Xét về bản chất, KH là thể hiện sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm

định hướng phát triển và điều khiển sự biến đổi một số biến số KTXH chủ yếu để đạt
được mục tiêu đã định trước. Biểu hiện cụ thể của bản chất này: trước hết là thể hiện ở
một loạt các mục tiêu KTXH cần đạt được trong một khoảng thời gian đã định sẵn; kế
tiếp là cách thức tác động, hướng dẫn, điều khiển của Chính phủ để thực hiện mục tiêu
đặt ra. Bản chất của KHH là giống nhau nhưng biểu hiện cụ thể của nó lại khác nhau
trong mỗi nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, KHH thể hiện ở sự khống chế trực tiếp
của Chính phủ đối với những hoạt động KTXH thông qua quá trình đưa ra những quyết
định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu KH được xác định bởi các nhà KH
Trung ương tạo nên một KH kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ; nguồn nhân lực, vật tư
chủ yếu và tài chính không phải được phân phối theo giá thị trường và điều kiện cung cầu
mà phân phối theo các nhu cầu của KH tổng thể, theo những quyết định hành chính của
các cấp lãnh đạo. Bản chất củ kế hoạch trong nền kinh tế tập trung là sự cưỡng chế trực
tiếp
Trong nền kinh tế thị trường, KHH là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của Chính phủ
trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở chủ
động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu sử dụng
có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. KHH trong nền kinh tế thị trường được thể
hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp, khai thác và huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong KH là những
định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và cánh thức tác động của Chính phủ
mang tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và các công cụ của chính sách
điều tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong nền kinh tế thị trường là
tính thuyết phục gián tiếp.
Bảng 1: So sánh bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế thị trường
Cơ chế KH hoá tập trung Cơ chế thị trường
 KH mang tính chủ quan duy ý
chí: xuất phát từ ý muốn chủ
quan của nhà nước, không căn
cứ vào tiềm lực thực tế và

không gắn với nhu cầu thực sự
của nền kinh tế quốc dân
 KH gắn với thị trường: định hướng sự phát
triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực
trạng (=> khả thi), nhận thức được qui luật
(=> khoa học), nắm bắt được nhu cầu (=>
thực tiễn), vì thế => vững chắc hơn
9
 KH thay thế cho thị trường, vì
sự tồn tại của thị trường sẽ phá
vỡ những cân đối cứng mà KH
đã đề ra.
 KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị
trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn,
riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn
dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích
chung, toàn cục.
 KH mang tính mệnh lệnh: giao
chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực,
đồng thời chỉ định cả địa chỉ
tiêu thụ
 KH mang tính định hướng: Hoạt động như
bộ khung làm cơ sở để hoạch định các
chính sách đòn bẩy và các biện pháp gián
tiếp để thực hiện định hướng
 KH thiếu tính linh hoạt: vì là
pháp lệnh nên mang tính cứng
nhắc, mọi sự điều chỉnh KH chỉ
là hình thức.
 KH mang tính linh hoạt. Khi các điều kiện

thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ có sự
điều chỉnh theo.
Chính vì sự khác biệt về bản chất đó của KH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi
phải có sự đổi mới về cơ bản công tác KHH, từ tư duy đến qui trình và phương pháp lập
KH.
Việt nam hiện nay đang thực hiện quá trình cải cách kinh tế theo mô hình kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác KH
cũng đang được chuyển đổi phù hợp từ cơ chế KH tập trung sang KH định hướng phát
triển, với ba nội dung chủ yếu:
- Thứ nhất, chuyển từ cơ chế KHH tập trung phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế bao
gồm hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể là chủ yếu sang cơ chế KHH
theo phương thức khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho nền
kinh tế đa thành phần sở hữu.
- Thứ hai, chuyển từ cơ chế KHH trực tiếp mang tính pháp lệnh với hệ thống chằng
chịt các chỉ tiêu mang tính chất bao cấp cả đầu vào lẫn đầu ra sang cơ chế KHH
định hướng gián tiếp với hệ thống cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp.
- Thứ ba, chuyển từ cơ chế KHH hiện vật, mang tính chất khép kín trong từng
ngành, từng địa phương sang cơ chế KHH theo chương trình mục tiêu với sự kết
hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong lẫn bên ngoài theo hướng tối
ưu hoá và hiệu quả các hoạt động KTXH.
10

III. Những tiếp cận mới trong công tác KH
Những khác biệt nêu trên trong của công tác KH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi bản
KH phải tiếp cận đến những hướng mới như sau:
1. KH mang tính chiến lược
Nội dung của bản KH theo cơ chế cũ bao gồm nhiều chỉ tiêu chi tiết, toàn diện,
tuy vậy nó chủ yếu là mang tính tác nghiệp, cụ thể hoá các chỉ tiêu chung của nhà nước
bằng các chỉ tiêu pháp lệnh giao cho các cấp địa phương. Điều này không thể thực hiện
được trong cơ chế thị trường và không phù hợp cới cơ chế thị trường. Bởi vì:

- Hoạt động của cơ chế thị trường có một nhược điểm lớn là tính thiển cận, chú
trọng quá mức vào những lợi ích ngắn hạn, trước mắt mang tính cá nhân, mà thiếu
mất cái nhìn tổng thể, theo đuổi những lợi ích dài hạn mang tính xã hội (hoặc
cộng đồng). Tỉnh, huyện với tư cách là người đại diện chăm lo lợi ích cho toàn thể
nhân dân trên địa bàn, không chỉ thế hệ hôm nay mà còn cả mai sau, thì không thể
chấp nhận tầm nhìn ngắn hạn như vậy. Thay vì thế, tỉnh cần điều hành nền kinh tế
địa phương theo định hướng phát triển lâu dài và sử dụng những công cụ có sẵn
trong tay, trong đó có KH, để điều chỉnh sự vận động của cả nền kinh tế đi theo
định hướng đã chọn.
- Nền kinh tế thị trường thường xuyên biến động, nó chịu tác động rất lớn bởi các
nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, những yếu tố cơ
hội, thách thức thường xuyên xuất hiện rồi mất đi. Thậm chí, thị trường còn được
coi là một chiến trường, xuất hiện các yếu tố địch – ta, mạnh – yếu. Điều đó đòi
hỏi làm KH phải cập nhật được thường xuyên những yếu tố ấy, dự kiến trước
được những yếu tố sẽ xuất hiện để xác định những mục tiêu mang tính dài hạn
cần đạt tới và cách đi tối ưu cho quá trình phát triển các địa phương.
Như vậy, bản KH phải tiếp cận theo hướng mới, đó là: KH phải giảm phần định
lượng, tăng phần định tính, KH phải thể hiện được tầm nhìn chiến lược dài hạn – trung
hạn của địa phương, trên cơ sở đánh giá đúng thực chất xuất phát điểm của tỉnh nhà, chứ
không nên quá chú trọng đến điều hành sự vụ hàng năm.
Nội dung cụ thể của tầm nhìn chiến lược đó là cần phải trả tới được những câu
hỏi: Hiện nay chúng ta đang đứng ở đâu? chúng ta muốn đi tới đâu? (các mục tiêu chiến
lược) trong tương lai; Làm thế nào để đi tới? (cách đi tối ưu cho việc đạt được các mục
tiêu ấy) và làm thế nào để biết đã đi tới (các tiêu chuẩn, giám sát đánh giá).
11
2. KH gắn với nguồn lực
Để thực hiện được ý đồ chiến lược của mình, tỉnh hoặc huyện cần phải có nguồn
lực, bao gồm cả nguồn lực tự nhiên, tài chính, con người và thể chế. Lâu nay, trong lập
KH, chúng ta chỉ quan tâm đến nguồn lực tự nhiên và tài chính và trong nguồn lực tài
chính cũng chủ yếu đề cập đến nguồn lực từ ngân sách. Tuy vậy, giữa KH và ngân sách

vẫn chưa có sự gắn kết thực sự, dẫn đến mục tiêu KH đề ra nhưng không có hoặc không
đủ nguồn lực để thực hiện. Điều này làm KH bị xem nhẹ, tình trạng ”KH treo” diễn ra
phổ biến, trong khi nguồn lực vốn đã hạn hẹp lại bị dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp. Muốn
KH thực sự là công cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước thì KH phải gắn với nguồn lực,
trong đó không chỉ nguồn lực tự nhiên, vật chất và tài chính, mà tất cả các nguồn lực
khác về con người, xã hội - thể chế cũng phải được phát huy tối đa.
Thông thường, các nhà lập KH có thể chia nguồn lực (hay nói rộng hơ là tiềm
năng nguồn lực) làm 2 nhóm: Nhóm nguồn lực vật chất và nhóm nguồn lực phi vật chất.
Nguồn lực vật chất bao gồm: nguồn gắn với đất và không gắn với đất. nguồn gắn với đất,
đó là: tự nhiên, đất đai, cơ sở hạ tầng v.v , nguồn không gắn với đất bao gồm: vốn, lao
động. Các nguồn lực phi vật chất gồm có: các yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, vốn nhân
lực, thể chế chính sách v.v
Nguồn lực tự nhiên của một tỉnh chỉ có hạn, và việc khai thác bừa bãi những
nguồn lực này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Nếu không có sự kết hợp
khôn ngoan giữa nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác thì sẽ chỉ là sự lãng phí tài
nguyên và hy sinh lợi ích của thế hệ tương lai cho những lợi ích thiển cận của thế hệ hiện
tại.
Nguồn lực tài chính từ ngân sách thì cũng chỉ có hạn. Với một tỉnh trung bình
hiện nay của Việt Nam, nguồn lực này chiếm khoảng 50-60% tổng vốn đầu tư xã hội.
Điều đó có nghĩa là nếu chỉ dựa vào nguồn lực ngân sách thôi thì không thể tạo ra bước
phát triển đột phá cho tỉnh, nhất là trong điều kiện nguồn lực ngân sách đã tương đối ổn
định theo Luật Ngân sách 2002. Như vậy, làm thế nào để có thể khai thác và phát huy tối
đa các nguồn lực khác ngoài ngân sách, đặc biệt là từ khu vực tư nhân là một câu hỏi lớn
cần đặt ra. Trong kinh tế thị trường, tỉnh không thể chỉ định khu vực tư nhân phải đầu tư
vào ngành này, ngành khác, vùng này, vùng kia Đó là lựa chọn của bản thân nhà đầu tư,
dựa trên sự cân nhắc về khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư khác nhau.
Nguồn nhân lực không phải là nguồn lực bằng tiền có thể trực tiếp huy động ngay
vào phát triển, nhưng đây lại là yếu tố quyết định đến mọi sự phát triển trên địa bàn tỉnh,
vì con người là tác nhân của sự phát triển, cũng là đối tượng thụ hưởng thành quả của sự
12

phát triển đó. Khi con người được làm việc trong một điều kiện cởi mở, kích thích sáng
tạo và được đãi ngộ thoả đáng thì sẽ phát huy được trí tuệ, sáng tạo và sẽ đóng góp lớn
nhất cho sự phát triển của tỉnh.
Để thu hút nguồn lực này, tỉnh chỉ có thể dựa vào một môi trường chính sách
thuận lợi, thân thiện với các nhà đầu tư, nhằm hướng các nhà đầu tư đầu tư vào những
lĩnh vực mà tỉnh mong muốn. Muốn vậy, cần có sự đổi mới về thể chế để tạo ra một môi
trường như vậy.
3. Thực hiện sự tham gia của các bên trong lập KH
Một bản KH mang tầm chiến lược, phải tính đến nhu cầu, nguyện vọng của các
nhà đầu tư nói riêng và tất cả các thành phần kinh tế nói chung. Nói cách khác, bản KH
đó phải có tính chất cùng tham gia.
Đối với KHPT KTXH ở địa phương, các bên liên quan bao gồm:
- Cấp tỉnh: Bộ KHĐT, Các bộ ban ngành, Chính phủ và quốc hội, UBND, HĐND
tỉnh/ thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong vùng, Các sở ban ngành trong tỉnh, và
trong vùng, UBND các huyện/quận trong tỉnh, Các tổ chức đoàn thể, các thành
phần kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhà nước và tư nhân, các tổ chức phi
chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong tỉnh.
- Cấp huyện: UBND, HĐND tỉnh/thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong vùng, Sở
KHĐT, UBND và HĐND huyện/quận, các phòng ban ngành trong huyện, và một
số huyện trong tỉnh, các tổ chức đoàn thể, các thành phần kinh tế, các tổ chức phi
chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong huyện.
Sự tham gia các bên liên quan vào quá trình lập KHPT KTXH của các cấp tỉnh,
huyện, thậm chí phường xã, thôn bản sẽ dẫn đến:
13
- Đầu tư có hiệu quả hơn do có sự lựa chọn mục tiêu chính xác đối tượng đầu tư
hợp với nguyện vọng và nhu cầu các bên liên quan hay của dân, và qua đó nhà
nước sẽ được sự ủng hộ của các bên liên quan trong đó đặc biệt là dân chúng và
họ sẽ tạo điều kiện cho việc tiến hành các chủ trương, chính sách của nhà nước
được thuận lợi hơn. Chủ trương của Nhà nước là người dân phải được hưởng lợi
từ các chỉ tiêu công cộng, do đó các công trình cơ sở hạ tầng và dịch vụ công

cộng đều phải hợp lòng dân. Các KH dự án đều xây dựng thể chế cụ thể hoá các
chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho người dân tham gia lựa
chọn công trình, tham gia quản lý và thực hiện triển khai công trình.
- Các bên liên quan được tham gia, tính trách nhiệm và nghĩa vụ của họ được nâng
cao, công trình được duy tu, bảo dưỡng tốt hơn; Sự gắn bó (đoàn kết) cộng đồng
tốt hơn; Các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội dần được đẩy lùi trong dân chúng.
Đặc biệt trong hướng tiếp cận này, cần nhấn mạnh sự tham gia từ phía cộng đồng
dân cư trong lập KHPT. Điều này có tác dụng:
- Biến người dân trở thành chủ thể của quá trình lựa chọn và ra các quyết định
KHPT. Điều đó bảo đảm cho các KHPT hướng vào dân, phục vụ nguyện vọng
của nhân dân, của người nghèo và những tầng lớp yếu trong xã hội, tạo điều kiện
cho họ được hưởng lợi nhiều nhất từ các hoạt động phát triển
- Biến người dân trở thành chủ thể quản lý thực hiện các KHPT. Điều này bảo đảm
khả năng huy động tối đa nguồn lực trong dân cư phục vụ quá trình phát triển, bảo
đảm sử dụng nguồn lực tốt nhất, tiết kiệm nhất và hiệu quả cao nhất, bảo đảm các
tiến độ triển khai thực hiện hoạt động phát triển. Dân tham gia phân bổ nguồn lực
thì quyền lợi của dân sẽ nhiều hơn và hạn chế được thất thoát. Dân được tham gia
quản lý thì họ sẽ nhận thức được yêu cầu trách nhiệm của họ được nâng cao. Là
cơ sở để thực hiện đầu tư của nhà nước, tư nhân hay tiếp nhận viện trợ nước ngoài
đúng hướng, có hiẹu quả hơn. Hơn thế nữa, người dân sẽ phát huy cao nhất trí tuệ,
sự thông minh của mình, hiến nhiều kế hay trong quá trình thực hiện các hoạt
động phát triển, quan điểm "dân làm" được thực thi triệt để nhất. Cộng đồng dân
cư thông qua các tổ chức của mình sẽ đảm nhận được những công việc mà trước
đây không thể làm được, qua đó, trình độ và tính chủ động, tính trách nhiệm,
nghĩa vụ của người dân, của cán bộ cấp cơ sở được nâng cao.
- Biến người dân trở thành chủ thể sử dụng các thành quả của các KHPT. Điều này
bảo đảm tính bền vững , hiệu quả trong sử dụng kết quả của hoạt động phát triển.
14
Chỉ khi nào cộng đồng dân cư và doanh nghiệp thấy tiếng nói của mình được
phản ánh trong bản KH, chỉ khi nào mục tiêu phát triển mà tỉnh đề ra đồng thuận với

mong muốn của người dân và doanh nghiệp thì khi đó các thành phần này mới thấy bản
KH đó là “của họ” và họ mới tích cực cùng chính quyền phấn đấu thực hiện nó. Và cũng
chỉ lúc đó, tỉnh mới có thể hy vọng huy động được một cách tối đa nguồn lực tài chính
ngoài ngân sách vào đầu tư phát triển.
4. KH mang tính lồng ghép
Quan điểm "lồng ghép" trong soạn lập KH đã trở thành khá phổ biến và gắn liền
với quá trình đổi mới KHH ở nước ta. Trong thời gian qua, trên thực tế, chúng ta đã có
những hoạt động cụ thể triển khai theo quan điểm này, đó là: dự án "Lồng ghép biến dân
số vào KHH phát triển ở Việt Nam" (Dự án VIE/97/P15); "Sổ tay xây dựng KHPT bền
vững ngành và địa phương" (Dự án VIE/01/021); Dự án lồng ghép Chiến lược toàn diện
về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS) vào lập kế hoạch địa phương (TF 051164) nhằm
đưa quan điểm và yêu cầu phát triển bền vững vào lập KH của các ngành và các địa
phương khi xây dựng KHPT KTXH 5 năm của Bộ, ngành, địa phương mình; Bộ KHĐT
đã đưa ra hướng dẫn cụ thể những yêu cầu lồng ghép CPRGS trong quá trình xây dựng
kế hoạch 5 năm 2006-2010, đồng thời phối hợp với Tổ công tác liên ngành CPRGS hỗ
trợ các địa phương về nâng cao năng lực xây dựng KHPT KTXH ở địa phương có tính
đến yếu tố tăng trưởng và giảm nghèo v.v
Lồng ghép một yếu tổ nào đó trong KH có nghĩa là đưa yếu tố đó vào với tư cách
là hạt nhân, là mục tiêu cuối cùng của KH, hướng toàn bộ nội dung của KH theo quỹ đạo
của yếu tố này trong quá trình xác định mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian, chỉ tiêu
kết quả, các yếu tố đầu vào, chương trình hành động và giải pháp tổ chức triển khai thực
hiện. Lồng ghép biến dân số trong KHPT tức là phải xem yếu tố dân số (quy mô, cơ cấu,
chất lượng dân số) là đối tượng chính, để từ đó đặt ra những yêu cầu của KHPT KTXH,
trong đó đặc biệt gắn với KH về nâng cao múc sống dân cư, KH giáo dục, KH y tế và
chăm sóc sức khỏe, KH môi trường. Lồng ghép quan điểm phát triển bền vững trong lập
KH tức là phải coi ba yếu tố KTXH và môi trường là nội dung chủ đạo trong thiết kế các
chỉ tiêu phát triển ngành, địa phương. Lồng ghép CPRGS vào KH đòi hỏi gắn kết hai yếu
tố tăng trưởng và giảm nghèo vào nhau, trong đó mục tiêu giảm nghèo phải được coi là
mục tiêu cuối cùng, dài hạn của KH, còn mục tiêu tăng trưởng chỉ là mục tiêu trung gian,
là phương tiện để giảm nghèo và nâng cao phúc lợi xã hội.

Thực hiện quan điểm lồng ghép trong lập KH có tác dụng rất quan trọng:
15
- Đây chính là chính là cách thực thực hiện sự chuyển đổi công tác KHH từ trạng
thái mệnh lệnh, nặng nề, trải theo diện rộng, ôm đồm với nhiều chỉ tiêu rời rạc,
riêng biệt, mang tính tác nghiệp, hiện vật sang một trang thái năng động hơn, có
chủ đề rõ ràng hơn và mang mầu sắc chiến lược phù hợp với điều kiện của kinh tế
thị trường. Lập KH theo quan điểm lồng ghép sẽ hướng nguồn lực tập trung vào
những vấn đề bức xúc, đột phá và là cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện KH
dưới dạng các chương trình, dự án mang tính hiệu quả cao.
- Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi phải quan tâm nhiều hơn đến mục tiêu
cuối cùng của xã hội, trong đó con người là yếu tố trung tâm. Vấn đề cuối cùng
mà một nền kinh tế muốn phấn đấu không phải là tăng trưởng kinh tế, không phải
là vấn đề chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hay là phát triển ngoại thương v.v mà
nó phải là đem lại những gì cho con người và duy trì, phát triển nó trong dài hạn
như thế nào? Lồng ghép, mà thông thường là lồng ghép những biến xã hội vào
trong các KH kinh tế chính là hướng hoạt động kinh tế của đất nước, của địa
phương, của ngành vào quỹ đạo phục vụ con người, vì con người, hướng các hoạt
động kinh tế vào quỹ đạo của quan điểm hiệu quả KTXH chưa không phải là hiệu
quả tài chính hay kinh tế đơn thuần.
- Cho phép chúng ta có thể giảm bớt được số lượng các chỉ tiêu định lượng trong
KH, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường, nhưng lại không làm giảm
tính chất định lượng vốn là bản chất của KH do hướng vào việc thiết kế các chỉ
tiêu mang tính lồng ghép, phản ánh nhiều nội dung hơn trong một chỉ tiêu. Các
chỉ tiêu lồng ghép sẽ là cơ sở để các nhà KH và quản lý đưa ra được những giải
pháp đồng bộ hơn, toàn diện hơn, các giải pháp này có cơ sở để ràng buộc lẫn
nhau và thực hiện được các giải pháp này là cơ hội để chuyển nền kinh tế theo
hướng chủ đề trọng tâm một cách có hiệu quả nhất.
Kết luận:
Tóm lại, cũng như cây cọ là công cụ giúp người hoạ sĩ vẽ tranh, cây kim là công
cụ giúp người thợ may may áo, KH là công cụ giúp các nhà quản lý thực hiện tốt hơn vai

trò quản lý sự phát triển KTXH trên địa bàn. Tuy nhiên, cũng là những công cụ đó, nếu
người hoạ sĩ biết sử dụng một cách thuần thục thì có thể trở thành nổi tiếng, người thợ
may có thể thu hút được nhiều khách hàng, còn nếu không thì chỉ là những người thợ
bình thường. KH cũng vậy. Nhà quản lý nào biết sử dụng công cụ này một cách nhuần
nhuyễn và đúng cách thì nó sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý. Ngược lại, nếu chúng
ta vẫn tiếp tục sử dụng nó một cách hình thức thì bản kế hoạch soạn thảo ra sẽ không có
nhiều ý nghĩa đóng góp vào việc nâng cao chất lượng quản lý ở địa phương. Đổi mới KH
16
là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược và điều kiện hiện nay là tương đối thuận lợi
cho việc đổi mới công tác KHH cấp tỉnh. Cơ hội đã mở ra, vấn đề còn lại là ở quyết tâm
của các cấp lãnh đạo tỉnh muốn sử dụng công cụ này như thế nào.



17

×