Đề tài: Thực trạng dạy bồi dỡng học sinh giỏi
môn tiếng việt & một số biện pháp bồi dỡng cho học sinh.
Đặt vấn đề:
Để dạy tốt, học tốt môn tiếng việt ở tiểu học ( tập đọc, chính tả, từ ngữ ngữ
pháp ) đã khó, còn bồi dỡng học sinh giỏi môn tiếng việt ở tiểu học để có kết quả
cao thì lại càng khó hơn. Làm sao để số học sinh dự bồi dỡng học sinh giỏi nắm
vững nội dung, chơng trình học ở bậc tiểu học là một việc làm hết sức khó khăn
của ngời giáo viên.
Tập đọc là phân môn quan trọng trong chơng trình tiếng việt ở tiểu học dạy tốt
môn này không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển ở
các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện cho các em học tốt các phân môn từ
ngữ, ngữ pháp, tiếng việt, chính tả, tập làm văn có đọc tốt thì mới hiểu nội dung
yêu cầu hoặc cảm nhận đợc cái hay cái đẹp của bài văn bài thơ và hiểu rõ ý nghĩa
giao tiếp học tập đợc cách viết văn của tác giả .
phân môn từngữ ngữ pháp đựơc coi là môn dạy khó thành công trong các giờ lên
lớp vì ở các tiết này đòi hỏi ngời giáo viên phải nắm vững vốn từ vững, ngữ pháp
để cung cấp vốn từ, mở rộng vốn từ, cung cấp câu đoạn văn cho học sinh làm sao
đúng ngữ pháp về câu, từ kết cấu chặt chẽ các câu đoạn, ý bài viết.
Kể chuyện cũng đợc coi là môn dạy khó vì giọng kể của giáo viên không hấp
dẫn, nói năng, điệu bộ cử chỉ không mềm mại vì tuổi tác làm thế nào để học
sinh có ấn tợng sâu sắc với câu chuyện qua lời kể cử chỉ điệu bộ của giáo viên từ
đó học sinh hiểu nội dung cốt chuyện hiểu đợc ý nghĩa giáo dục giá trị đạo đức
hành văn câu chuyện.
Các tiết dạy ở trên lớp tập đọc từ ngữ ngữ pháp kể chuyện trong tuần giáo viên
cần hệ thống nội dung liên quan hộ trợ lẫn nhau nhằm giúp học sinh thực hành
viết bài tập làm văn tốt hơn.
1
Hay nói cách khác học sinh làm đợc bài văn hay tức là biết tổng hoà kiến thức
của các môn học trên với nhau biết vận dung vốn từ ngữ ngữ pháp nói và viết
mạch lạc câu văn hay đúng ngữ pháp ngời đọc dễ hiểu ( toát lên nhiều ý hay của
bài văn ) biết dùng hình ảnh so sánh hay nhân hoá.
Tuy nhiên việc dạy (tập đọc), viết (tiếng việt chính tả từ ngữ ngữ pháp) ở bậc tiểu
học hiện nay còn có những hạn chế và nhiều thiếu sót nhất định ảnh hởng không
tốt đến chất lợng học không tốt của học sinh. Vì thế tôi mạnh dạn nêu một số
hiện thực việc dạy bồi dỡng học sinh giỏi ở trờng và nêu lên một số biện pháp cụ
thể phạm vi bài viết việc dạy bồi dỡng học sinh giỏi và một số biện pháp dạy bồi
dỡng giỏi khối 5.
II) Thực trạng dạy bồi d ỡng học sinh giỏi ở tr ờng tiểu học:
Thực tế ở trờng học sinh thờng đọc đợc trôi chảy, đọc hiểu nắm đợc ý chính bài
văn bài thơ nhng lại ít học tập đợc cách viết văn hay cách dùng từ ngữ bằng lối so
sánhhay nhân hoá của tác giả để làm nổi bật nội dung bài văn, thơ còn giáo viên
thì nhiều đồng chí học toán nên phần cảm thụ cái hay cái đẹp của bài văn còn
hạn chế hay khi học từ ngữ ngữ pháp giáo viên mới chỉ truyền thụ kiến thức cơ
bản ở sách giáo khoa. Phần mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế nên học sinh khi
viết văn thờng bị bí từ thiếu từ và cách đặt từ đặt ngữ trong câu thờng cha hợp lý
hoặc là dẫn dắt vào nội dung bài thờng khô khan, ngắn gọn, lời văn thiếu hình
ảnh sinh động (tức là giáo viên cung cấp vốn từ ngữ cha nhiều, cha làm giàu vốn
từ ngữ cho học sinh ) khi lên lớp bài dạy tập làm văn miệng cha cho học sinh
nhiều học sinh trình bày ý kiến riêng của mình mà chủ yếu là giáo viên hớng dẫn
định hớng cơ bản cho học sinh vì thế khi làm bài viết có nhiều em có nội dung na
ná giống nhau. Qua dự giờ thăm lớp tôi thấy giáo viên vẫn còn giảng nhiều cha
thực sự đổi mới phơng pháp giảng dạy cha lấy học sinh làm nhân vật trung tâm
2
hớng tích cực học tập cho học sinh. Qua các giờ tập đọc giáo viên chủ yếu giảng
giải nhiều về nội dung của bài: từ khó đọc câu, câu khó đọc, đoạn khó đọc. Giải
nghĩa từ khó từ trọng tâm nhng lại ít chú ý hớng dẫn học sinh tiếp thu cái hay cái
đẹp của bài tập đọc. Hay là ở chỗ nào: hành văn trôi chảy hay là tác giả biết duy
trì khéo léo đảo ngũ, hay so sánh, hay nhân hoá để làm nổi bật nội dung chính
của bài mà ngời đọc nh bị cuốn hút.
Mỗi câu, đoạn, ý văn hay cha cho học sinh chép lại hay lý dẫn học sinh vận dụng
cách viết nh tác giả.
Còn khi dạng từ ngữ ngữ pháp cũng vì sợ không đủ thời gian để giải quyết hết
nội dung cần truyền đạt trong bài, nên từ ngữ cần ghi nhớ nên giáo viên cũng lần
lợt đa ra đầy đủ có kèm theo các câu hỏi gơi ý để học sinhtrả lời vì thế giờ từ ngữ
ngữ pháp thời gian thờng kéo dài phần mới, còn phần luyện, thực hành bị xem
nhẹ và ít hớng dẫn cho học sinh các từ này thờng vận dụng các bài làm văn theo
thể loại nào ( kể, tả, tờng thuật, viết th ).
Vì thế khi dạy bài tập đọc có một số từ khó: khó về mặt ngữ nghĩa, khó về cách
đọc. Việc giảng từ khó đọc từ khó cần đợc đặt ra trong quá trình luyện đọc của
học sinh. Khi đợc đặt trong cảnh, trong môi trờng ngôn ngữ, học sinh dễ hiểu, dễ
đọc các từ đó- hay việc dùng từ, ngữ đặt trong văn cảnh nào thì hợp lý mà lại
hay? Hay từ ngữ này hay trong hoàn cảnh nào và hoàn cảnh nào cha hợp lý? Câu
tối nghĩa ( dạy từ ngữ ngữ pháp ) thế mà nhiều giáo viên lại tách phần giảng từ
khó, luyện đọc về ngữ nghĩa và vận dụng các từ ngữ đặt đúng trong các văn cảnh
thì giáo viên cho thành một mục riêng và tiến hành sau khi đã đọc, đọc xong
bài ?
- Giáo viên cha nhuần nhuyễn phơng pháp mới - học sinh đợc làm nhiều hơn.
học sinh đợc trinh bày ý kiến riêng của mình, học sinh đợc trao đổi với các bạn
- Giáo viên cha thích hợp kịp thời nội dung bài này có liên quan vận dụng đến
nội dung bài kia( ý bài tập -đọc từ ngữ cần dùng để bổ sung viêt một bài văn,
đoạn văn hay giàu hình ảnh ).
3
- Số ít giáo viên cha thực sự say-hng phấn khi dạy tiếng việt xem tiếng việt là
môn khó dạy vì nó rộng không có đáp án cụ thể nh môn toán.
Tóm lại: việc dạy môn tiếng việt để học sinh có vốn từ ngữ-ngữ pháp phong phú,
biết vận dụng vào viết văn hay_ làm áao khi đọc bài văn, bài dự thi học sinh giỏi
của mình ngời đọc hiểu:
+ Nắm đợc nội dung chiónh của đề.
+ Hiểu đợc nghĩa và ý, từ ( ý 1, ý2 (phần từ ngữ-ngữpháp )).
+ Biết đợc dụng ý của tác giả( qua đề cảm thụ).
+ Bộc lộ đơc thế giới nội tâm của mình, qua bài viết tập làm văn.
Thực tế ở trờng, giáo viên và số đông học sinh cha đáp ứng đợc yêu cầu. Qua các
giờ thực tập- dự giờ, thăm lớp, qua khảo sát tại chỗ, hoặc qua bài soạn bồi dỡng
học sinh giỏi k
4-5
có số bài cụ thể:
Bài tập đọc lớp 5: Núi rừng Trờng Sơn sau cơn ma; mùa hoa bởi
Từ ngữ lớp 5: các dạng từ láy; từ tợng hình; từ tợng thanh
Ngữ pháp lớp 5: bộ phận song song; câu ghép
Học sinh ở lớp có tỉ lệ nắm vững bài, hứng thú trong giờ học hăng say xây dựng
bài có nhiều ý đúng ý hay .
Còn giờ tiếng việt ở lớp số học sinh trả lời xây dựng bài ít, không khí lớp học
không sôi nổi.
Phần mở rộng vốn từ giáo viên cung cấp cha nhiều cha định hớng cho học sinh
cách sử dụng từ, ngữ vào một số văn cảch trong khi làm bài tập văn.
Giờ ngữ pháp ở lớp có học sinh còn mơ hồ về câu từ ghép tổng hợp, từ ghép phân
loại, hoặc xác định thành phần phụ trong câu cha chắc hẳn
Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng lên lớp của giáo viên lí do là một số
giáo viên học toán cấp hai dạy tiểu học hoặc cao đẳng toán dạy tiếng việt ở tiểu
học nên vẫn có một số hạn chế nhất định.
4
Hơn nữa giáo viên cha phân loại cụ thể đối tợng học sinh trong lớp mình dạy để
lựa chọn nội dung dạy học nào, yêu cầu mức độ nào là phù hợp là vừa sức, vừa
vận dụng linh hoạt phơng pháp dạy học và hình thành tổ chức dạy học.
Đối vớinhững học sinh khá và giỏi thì ngời giáo viên phải lên lớp ở mức độ nội
dung yêu cầu cao hơn nhằm giúp các em phát triển kiến thứcvững vàng trong các
giờ kiểm tra hoặc trong các bài thi.
Qua các giờ thực tập thăm lớp thông qua phơng pháp trắc nghiệm( kiểm tra 10
phút ) tôi có số liệu cụ thể nh sau:
TT Lớp
Số học sinh đợc
kiểm tra
Tập đọc Cảm thụ văn Từ ngữ-ngữ pháp TLV
Giỏi Khá TB Yếu
Giỏi Khá TB Giỏi Khá
T
B
Yếu Giỏi Khá TB
1 5A 10 3 2 3 2 3 2 3 2
2 5C 10 5 2 2 1 4 3 2 1
III ) nguyên nhân:
Giáo viên cha tự rèn luyện, nghiên cứu để nâng cao năng lực chuyên môn đặc
biệt là kiến thức tiếng việt.
Thí dụ: sau mỗi bài tập đọc, học sinh hiểu nội dung bài là các em có thể viết đợc
thành bài văn, đoạn văn cảm thụ hay hiểu đợc ý nghĩa sâu xa của bài học đó.
Tre Việt Nam- Nguyễn Duy: nòi tre đâu chịu mọc cong
Có manh áo cộc tre nhờng cho con.
Đó là hình ảnh măng tre nhọn nh chông gợi cho ta thấy sự kiêu hãnh, hiên ngang
bất khuất của loài tre hay cũng chính là dân tộc việt Nam!
Hình ảnh cây tre lng trần phơi nắng phơi sơng có ý nói đến sự dãi dầu chịu đựng
mọi gian khổ thử thách trong cuộc sống.
Hình ảnh có manh áo cộc tre nhờng cho con gợi cho ta nghĩ đến sự che chở hy
sinh tất cả( mà ngời mẹ dành cho con)thể hiện lòng nhân ái và tình mẫu tử thật
cảm động.
5
Bài: mùa hoa bởi: - cái hay ở bài là tình cảm yêu quê hơng đất nớc của anh bộ
đội. Mỗi lần nghĩ về quê là mỗi lần lòng anh thấy xốn xangnghĩ về mùa hoa bởi
nơi sinh ra và lớn lên quê hơng Hà Tĩnh.
Bài: con chuồn chuồn nớc: tác giả dùng tính từ miêu tả, hình ảnh so sánh gợi lên
cái đẹp trong sáng, hấp dẫn của chú chuồn chuồn nớc khiến ngời đọc
ở đoạn 2 tác giả cũng cách miêu tả linh hoạt đó, tránh sự đơn điệu tác giả đã lấy
cái tĩnh tại của hồ rộng mênh mông và làn sóng, của luỹ tre rì rào để tả cái
đang chuyển động là chú chuồn chuồn nớc đang bay. Làm cho ngời đọc tợng t-
ơng ra hình ảnh thanh thản, nhẹ nhàng trong dáng bay của chú chuồn chuồn nớc.
Từ những bài tập đọc cụ thể, giáo viên rút ra đợc cách dùng từ đặc tả để vận dụng
vào các bài viết thể loại miêu tả, lối so sánh hành văn nhẹ có hình ảnh tạo cho
ngời đọc có sức lôi cuốn ở những bài viết ở các thể loại khác nhau:
+ Giáo viên cha dành nhiều thời gian để rèn luyện kĩ năng viết văn cảm thụ cho
học sinh, giáo viên phải công phu "chải chuốt" lời văn thế nào cho phù hợp với
ngữ nghĩa, văn cảnh, đúng ngữ pháp mà vẫn bộc lộ đợc nội tâm của mình của tác
giả.
+ Giáo viên cha sử dụng hiệu quả nhiều phân môn.
Thí dụ: giờ học từ ngữ-ngữpháp là kiến thức cơ bản, hỗ trợ rất nhiều cho việc sử
dụng vốn từvào giờ tập làm văn viết- rèn học sinh kỹ năng viết câu đúng ngữ
pháp kỹ năng viết một số thể loại văn cụ thể biết chắt chiu vốn từ trong mỗi bài
giảng tập đọc từ ngữ-ngữpháp để hớng dẫn học sinh vận dụng vào bài viết - viết
đúng viết hay.
Thí dụ: bài tập đọc: Núi rừng Trờng Sơn sau cơn ma.
Bài từ ngữ: từ láy, từ tợng hình tợng thanh để hớng học sinh viết
- khi dạy các văn tả cảnh thể loại văn tả cảnh tờng thuật, kể chuyện, viết th giáo
viên cha hớng dẫn cho học sinh biết cách dùng một số từ đặc tả.
ở thể loại văn tả cảch cần dùng từ so sánh
ở thể loại văn tờng thuật
6
ở thể loại văn kể chuyện: nhân hoá, mợn lới, sáng tạo thêm
ở thể loại văn viết th: dùng một số từ kể, câu kể, câu ghép
- Khi soan bài giáo viên không tập định hớng chia thời gian cho hợp với bài
giảng thờng là giành thời gian cho phần truyền thụ kiến thức mới mà xem nhẹ
phần luyện tập, vận dụngthực hành.
Để khắc phục những thiếu sót trên, mỗi giáo viên cần chịu khó học hỏi, tích luỹ
kinh nghiệm, tich luỹ kiến thức về tiếng việt. Thông qua giờ tập đọc- tập làm văn
để giúp học sinh cảm thụ ý văn hay, hình ảnh đẹp do tác giả viêt nên mà ngời
giáo viên là ngời hớng dẫn, gợi ý, học sinh hiểu chủ động tiếp thu một cách thú
vị, tích cực, thoải mái, khám phá nhiều điều mới mẻ.
IV ) một số biện pháp:
1) Khi dạy các bài từ ngữ giáo viên cần cung cấp cho học sinh lý thuyết về từ
gồm cấu tạo từ, các lớp từ.
Về cấu tạo từ: từ ghép, từ láy, từ tợng hình
Thí dụ: hoang phí, đoàn kết, nhanh nhẹn, chậm chạp, róc rách, líu lo, kĩu kịt, áo
quần, sách vở, ăn uống
Giáo viên tập trungvào việc giải nghĩa từ để học sinh nắm vững cấu tạo từ, để
phân loại chính xác.
áo dài: áo dài mà mặc ngắn nh thế này làkhông hợp nữa( thêm xem)
cây cối, hỏi han: có vẻ âm thanh giống nhau là từ láy
tre pheo :một tiếng mất nghĩa thì xếp vào từ ghép
quần áo: từ ghép tổng hợp vì quan hệ giữa 2 tiếng ngang nhau nếu có thêm đợc
một từ ở giữa thì gọi là từ ghép tổng hợp
thí dụ: quần và áo, xe cộ -> xe và cộ
nhằm phát huy vốn từ dựa vào cấu tạo, yêu cầu học sinh tìm những từ có nhiều
tiếng trong đó cótiếng mới, xấu
mới mới lạ xấu xấu xa
mới tinh xấu xí
7
mới mẻ
Các lớp từ: từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, gần nghĩa.
Thí dụ: cao, thấp, nông, sâu, chết, hy sinh
b) Khi dạy bồi dỡng yêu cầu cần đạt của phần lý thuyếtvề từ là khái quát thành
kiểu dạng bài :
*) Cho từ rồi yêu cầu xác định ( từ đơn, từ ghép, từ láy )
*) Cho từ trong câu nhận định kiểu cấu tạo(từ đơn, từ ghép, từ láy)
*) Cho một tiếng tìm từ theo kiểu cấu tạo(từ đơn, từ ghép, từ láy)
2) Khi học sinh nắm vững lý thuyết về từ , giáo viên hớng học sinh vào phần thực
hành từ ngữ. Có thể hỏi trực tiếp về nghĩa của tiếng nghiã của từ, thành ngữ, tục
ngữ, hoặc sử dụng vốn từ để tạo từ, điền từ, thay từ, đặt câu, và viết đoạn văn,
chữa lỗi dùng từ.
Thí dụ:- Chỉ ra các vế đối lập về nghĩa của các từ: đoàn kết, liên kết, cấu kết.
- Dựa vào nghĩa để phân loại nhóm từ cùng nghĩa hoặc gần nghĩa các từ
sau: gầm, vồ, tha, rợt, cắn, chộp, quắp, đuổi, ngoạm, rỗng,
- Tìm từ theo nhóm nghĩa: xếp các từ sau theo nhóm có từ đánh cùng
nghĩa với nhau: đánh trống, đánh giày, đánh tiếng, đánh trứng, đánh cá, đánh
đàn, đánh răng, đánh điện, đánh phèn, đánh bẫy
*) Loại bỏ từ lạc
*) Tìm từ đồng âm đa nghĩa
c) Sử dụng từ: sau khi dạy xong bài từ ngữ giáo viên cần cho học sinh luyện tập,
vận dụng, sử dụng từ bằng cách:
- Tạo từ: cho một hình vị tạo ra từ mới
- Điền từ: phải lựa chọn những từ có khả năng bị hạn chế khống chế lợng từ cần
điền.
- Thay từ : nhằm mục đích sau khi thay hay hơn từ cho trớc
- Đặt câu và viết đoạn: cần chọn từ nhằm kiểm tra học sinh có hiểu từ không?
8
Thí dụ: viết một đoạn văn ngắn khoảng 20 dòng kể một câu chuyện từng để lại
ấn tợng đẹp đẽ về tình bạn dới mái trờng tiểu học.
- chữa lỗi dùng từ: từ sai ngữ pháp, từ lạc
Ngoài ra khi bồi dỡng học sinh giỏi giáo viên cần phải nâng cao cho học sinh:
-Tìm từ khi biết nghĩa của nó.
- Biện pháp tu từ( so sánh, nhân hoá ) làm nổi bật sự vật, hiện tợng cần so sánh,
cần nâng cao.
- Khi ra đề cần tăng độ khó yêu cầu của đề bằng cách hỏi tại sao?
2) Khi dạy các bài ngữ pháp:
a) Khi dạy phân môn ngữ pháp ngời giáo viên phải cung cấp cho học sinh giỏi
sáu mạch kiến thức cơ bản đó là:
*) Khái niệm câu: câu đơn bình thờng và câu đặc biệt, câu có đủ chủ ngữ vị ngữ
và câu rút gọn
*) Thành phần câu( chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ )
*) Phân loại câu theo cấu tạo
*) Phân loại theo mục đích nói ( câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm)
*) Dấu câu ( chấm, phẩy, dấu ngoặc kép, ngoặc đơn, dấu hai chấm, dấu cảm )
*) Từ loại: danh từ, động từ, tính từ
b) Khi dạy bồi dỡng cho học sinh, giáo viên có thể yêu cầu cao hơn bằng nhiều
cách:
- Chữa lỗi câu sai:
Ví dụ : Hãychữa lại mỗi câu sai sau bằng 2 cách khác nhau( chỉ đợc thay
đổi nhiều nhất 2 từ ở mỗi câu)
+ Vì sóng to nên thuyền không bị đắm.
+ Tuy Minh đau chân nhng bạn vẫn phải nghỉ học.
- Thêm vị ngữ:
Ví dụ : Điền vào chỗ trống của các dòng sau những từ ngữ thích hợp để tạo
thành các câu miêu tả cảnh vật ở vùng cao.
9
Đã sang tháng Tám, vùng cao trời . những dãy núi dài .nớc đàn
bò con vàng, con đen. Đàn dê Nơng ngô Nơng lúa
-Đảo ý vẫn giữ nguyên nội dung thông báo.
Thí dụ: Lom khom dới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
- Cho sẵn đờng rang giới hoặc không cho sẵn đờng ranh giới
Thí dụ : + Hoa thảo quả nảy dới gốc cây kín đáo và lặng lẽ.
+ Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những cành cây, đỏ những góc
phố.
-Xác định chức vụ ngữ pháp của từ và cụm từ trong câu:
Thí dụ : Tìm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, danh từ trong câu:
Ngay thềm lăng, mời tám cây vạn tuế tợng trng cho một đoàn quân danh
dự đứng trang nghiêm.
c) Sau khi giáo viên cung cấp kiến thức cơ bản vốn ngữ pháp cho học sinh,
khi ra đề thi giáo viên cần tăng độ khó cho học sinh bằng cách :
- Nêu ý nghĩa của dấu trong câu
- Giải thích vì sao lại phải nh vậy ?
Thí dụ : Vì sao nghĩa của quả trong quả ổi, quả cam, quả bởi lại khác so với
quả trong quả tim, quả đồi, quả đất.
- Em hãy chỉ ra những từ dùng sai trong các câu sau, phân tích nguyên nhân
và chữa lại cho đúng.
Thí dụ : + Món quà tuy nhỏ nhen nhng em rất quý.
+ Bạn Hùng chạy bon bon .
3).Khi dạy cho học sinh phần cảm thụ văn học:
* Qua mỗi bài văn, mỗi bài thơ thông qua giờ tập đọc ngời giáo viên cần
phải chỉ ra tín hiệu nghệ thuật để học sinh nhận ra cái hay cái đẹp trong mỗi bài
học.
10
Thí dụ: Khi dạy bài " Quê hơng" - Đỗ Trung Quân Giáo viên phải hớng dẫn
cho học sinh cảm nhận đợc ý nghĩ và tình cảm của nhà thơ đối với quê hơng nh
thế nào ? " cánh diều biếc"" con đò nhỏ là những kỉ niệm in đậm dấu ấn của tuổi
thơ đẹp, thú vị trên quê hơng với những âm thanh nhẹ nhàng êm đềm mà lắng
đọng. Có thể những sự vật đơn sơ, giản dị trên quê hơng luôn có sự gắn bó với
con ngời và trở thành những kỉ niệm không bao giờ quên. Nghĩ về quê hơng nh
vậy chứng tỏ tình cảm của nhà thơ đối với quê thật đẹp đẽ và sâu sắc.
Hay bài " Tre Việt Nam "- Nguyễn Duy. Tác giả đã dùng các điệp từ : Qua
đi, mai sau Có dụng ý tre Việt Nam sẽ tồn tại mãi mãi cũng nh dân tộc Việt
nam. Những phẩm chất truyền thống tốt đẹp sẽ đợc nối tiếp nh tre già măng mọc.
* Cũng thông qua bài tập đọc giáo viên hớng dẫn cách dùng các biện pháp
tu từ của tác giả để thể hiện sự đặc sắc, độc đáo trong lối viết văn, thơ của mình
mà ngời đọc càng yêu quý hơn.
Thí dụ : Bài " Rừng mơ"
Tác giả dùng từ quả vàng chíu chít: chíu chít gợi lên quả rất nhiều sai xúm
xít với nhau.
Mơ chín nhiều nh sao trên trời quây quần vừa nêu đợc số lợng nhiều vô kể
của rừng mơ vừa làm cho rừng mơ sinh động hẳn lên.
Nghe khát vị mơ chua- Nếu thay từ khát bằng từ "thèm" thì câu thơ không
còn hay nữa.
Thí dụ : Bài " cây dừa" - Trần ĐăngKhoa - tiếng việt 2
Dùng phép nhân hoá đợc thể hiện trong các từ: Bàn tay đón gió, gật đầu gọi
trăng. Các từ ngữ này có tác dụng vật vô tri là cây dừa cũng có những biểu hiện
tình cảm nh con ngời. Dừa cũng mở rộng vòng tay đón gió cũng gật đầu mời gọi
trăng lên. Qua cách nói nhân hoá, cảnh vật trở nên sống động có hồn và có sức
gợi cảm, gợi tả.
- Phép so sánh đợc thể hiện trong các từ ngữ: quả da ( giống nh) đàn lợn con. Tàu
dừa ( giống nh ) chiếc lợc cách so sánh ở đây khá bất ngờ, thú vị thể hiện sự liên
11
tởng, tởng tợng phong phú của tác giả. Cách so sánh này cũng có tac sdụng làm
cho cảnh vật trở nên sống đọng có đờng nét hình khối. Có sức gợi tả, gợi cảm
cao.
* Qua mỗi bài thơ, bài văn hay mà tác giả đã dùng nhiều hình ảnh đẹp, giáo viên
phải hớng dẫn cho học sinh cách cắt nghĩa các hình ảnh thơ, văn.
Thí dụ: bài Luỹ Tre- Nguyễn Công Dơng
" Luỹ tre cong gọng vó
kéo mặt trời lên cao"
Các sự vật: ngọn tre- gọng vó- mặt trời vốn dĩ không liên quan đến nhau, nhng
qua liên tởng, tởng tợng của tác giả thể hiện trên hai dòng thơ trên, các sự vật này
dờng này nh có sự liên hệ với nhau: ngọn tre cong cong nh cái gọng vó, cái gọng
vó lai đang kéo mặt trời lên cao. Cảnh vật nh hoà quyện với nhau, tạo nên sự
sống động cho hình ảnh thơ.
* Khi dạy bồi dỡng giáo viên ra đề kiểm tra cảm thụ tổng thể
Thí dụ: vờn nhà- Tố Hữu
" Hiên trong xanh, mát bóng râm
đơn sơ cây ổi ngậm ngùi đơm hoa
quả to nấp dới lá già
để say thu bỗng và ra ngọc ngào"
Hãy nêu nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả trong đoạn thơ trên với cách
miêu tả ấy, nhà thơ đã giúp em cảm nhận đợc hình ảnh cây ổi đẹp nh thế nào?
4) Hớng dẫn học sinh học viết văn
Để viết những bài văn hay(theo từng thể loại: kể chyện, viết th, tờng thuật, tả
cảnh ) ngời giáo viên cần phải tích luỹ nhiều bài văn hay hoặc mình phải viết
nhiều bài, nhiều lần theo một chủ đề nhất định sau đó thông qua giờ tập làm văn
giáo viên cần gọi nhiều học sinh trao đổi bài làm của mình, để học sinh mạnh
dạn và nêu ý kiến cá nhân để giáo viên và bạn góp ý sữa chữa.
12
- Sau khi nghe bài đọc của bạn, các em tự tìm lấy các lỗi mà bạn bị vấp. ( th-
ờng viết khô khan, liệt kê1 kiểu t duycủa học sinh là rời rạc khôn có quan hệ với
nhau, chỉ thuần tuý giới thiệu các bộ phậncủa khuôn mặ( văn tả ngời) chứ không
có cảm xúc)
Từ đó hớng dẫn cho học sinh cách dùng từ thay từcho hợp lý cho hay
-Hớng dẫn cho học sinh cách dùng dấu chấm, phẩy hoặc thay từ sửa vế câu cho
hợp lý.
Thí dụ: trong 2 vết thơng của anh bộ đội, một vết thơng trên thân thể anh, còn vết
thơng kia ở trên chiến trờng( nếu nh vạy là thiếunhất quán- nên chữa lại anh bộ
đội bị 2 vết thơng: một vết thơng ở cánh tay, một vết thơng ở bắp đùi hoặc anh bộ
đội bị hai vết thơng: một vết thơng ở Đèo Khế, một vết thơng ở Điện Biên Phủ.
- Ngoài ra giáo viên cần hớng dẫn cho học sinh cách dùng lớp từ- tính thái từ để
chuyển đổi cảm xúc.
Thí dụ: ôi chao! Chú chuồn chuồn nớc mới đẹp làm sao
- Hớng dẫn cho học sinh cách khôi phục cách viết văn hay
Thí dụ: tìm từ dùng sai trong từng câu sau và sửa lại cho đúng và hay:
a) Chúng ta cần tố cáo những khuyết điểm của bạn để giúp nhau cùng tiến bộ
b) Một không khí nhộn nhịp bao phủ thành phố
- Giáo viên cần dành một thời gian nhất định để học sinh thực hành viết nháp,
thực hành việc cụ thể. Có thực hành cụ thể học sinh dễ thâm nhập để viết văn và
các em có thể viết nháp đợc vài lần thì mới chải chuốt đợc thành văn.
- Khi ra đề tập làm văn giáo viên cần tổng hợp nhiều dạng đề:
+) Đề ra theo thể loại có nâng cao.
+) Đề cho nội dung bố cục cho trớc.
+) Đề theo lối văn tự sự.
+) Đề theo lời kể của nhân vật- hay của mình nhập vai nhân vật.
13
-Ngời giáo viên luôn mang trong mình những suy nghĩ tìm hiểu, ghi chép tích luỹ
những ý thơ áng văn hay hoặc là những ảnh đẹp mà đâu đó các nhà thơ, nhà văn
đã diễn tả thông qua lối viết văn tả cảnh, kể chuyện, tờng thuật.
V ) một số kết quả b ớc đầu:
Từ những lý do nêu trên tôi băn khoăn suy nghĩ tìm ra một số biện pháp để giáo
viên vận dụng, thể nghiệm vào những bài dạy, bài học cụ thể . Kết quả đã đợc
nâng lên nh sau:
Năm học
Tổng số lớp
khối 5
Số học sinh
giỏi tỉnh
Trong đó
Nhất Nhì Ba
03 - 04
7 lớp
260 học sinh
30/45 0 2 6 66% 12%
04 - 05
7 lớp
255 học sinh
52/55 1 1 13 94,5% 20.3%
Trên đây là những số liệu có thực đã thể hiện qua kết quả thi học sinh giỏi tỉnh
2 năm qua.
Tóm lại: sau một thời gian suy nghĩ vì sao chất lợng dạy học thấp, kết quả thi học
sinh giỏi hàng năm không cao, chỉ đạt tỉ lệ 8->10% trên học sinh toàn khối. Khi
cha áp dụng kinh nghiệm này, học sinh còn nhiều sai sót khi làm bài: một số em
nắm phần từ ngữ-ngữ pháp không vững, 1 số thì phần cảm thụ còn hạn chế hoặc
một số em hành văn còn lủng củng thiếu từ, không thể hiện đợc nội tâm bài viết
của mình- sau khi vận dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy cho học sinh
khối 5 của trờng, tôi nhận thấy các em có kỹ năng xác định cấu tạo từ, câu, thành
phần câu, từ loại ( trong phân môn ngữ pháp )biết sử dụng vốn từ vào các tiết
làm văn viết .
14
Có nh thế các em mới áp dụng và học tốt bài thực hành, các em viết đợc những
bài văn đúng yêu cầu đề và hay vớinhững câu gãy gọn, súc tích, giàu hình ảnh.
Bằng những phơng pháp trên không những giúp học sinh có kỹ năng học tốt phân
môn từ ngữ-ngữ pháp mà còn giúp học sinh đọc hay, nói hay và viết văn hay.
Về phía giáo viên nắm chắc phơng pháp giảng dạy theo thành phần đổi mới giúp
học sinh chiếm lĩnh tri thức qua các phân môn và nắm đợc mạch kiến thức liên
quan, có mối quan hệ hữu cơ giữa các bài học, môn học, biết phân tích, so sánh,
đối chiếu để tìm ra những nét tơng đồng và những nét riêng biệt đặc trng cho mỗi
đơn vị kiến thức.
- Trên đây là toàn bộ nội dung, phơng pháp và kết quả có đợc từ khi tôi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm bằng các phơng pháp dạy trên.
Rất mong nhận đợc sự giúp đỡ, góp ý của đồng nghiệp, của những ngời đi trớc
để tôi có thể tổ chức các tiết dạy có hiệu quả cao hơn và có thể trao đổi những
kinh nghiệm với đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lợng giảng dạy môn tiếng
việt nói chung và việc bồi dỡng học sinh giỏi nói riêng có kết quả ngày càng cao.
15