Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Luận án Biên soạn nguồn tài liệu cho 3 kĩ năng nghe, nói và đọc tiếng Anh cho sinh viên năm thứ hai tại Đại học Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.61 KB, 12 trang )





Đại học Thái Nguyên Đại học Tổng hợp Batangas
Cộng Hòa XHCN Việt Nam Cộng hòa Philippin


NGUYỄN THỊ THU HOÀI
BIÊN SOẠN NGUỒN TÀI LIỆU CHO 3 KĨ NĂNG
NGHE, NÓI VÀ ĐỌC TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN
NĂM THỨ HẠI TẠI ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



Chuyên ngành: Ngôn ngữ và Văn học

BẢN TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TIẾNG ANH



THÁI NGUYÊN, 2015

Luận án được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



Người hướng dẫn khoa học: TS. Matilda H. Dimaano



Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học
họp tại:
…………………………………………………………………………………
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014




Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện quốc gia Việt Nam;
- Trung tâm học liệu, Đại học Thái Nguyên;
- Thư viện Trung tâm Đào tạo và Phát triển quốc tế;
- Thư viện trường Đại học Tổng hợp Batangas, Philipin.


20




1

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU

Tiếng Anh là một ngôn ngữ đa năng được xem là một ngôn ngữ
tuyệt vời. Mặc dù tiếng Anh chỉ đứng thứ ba về số lượng người sử
dụng, tiếng Anh vẫn trở thành ngôn ngữ toàn cầu và công nhận là
ngôn ngữ của thế giới.
Ngôn ngữ tiếng Anh được sử dụng rông rãi thông qua các hoạt
động kinh doanh, các viện nghiên cứu, ngành khoa học và công nghệ,
và hoạt động ngoại giao các nước. Có nhiều lý do tại sao xác định
người học ngoại ngữ cần học tiếng Anh
Nhận thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng Anh, hầu
hết chính phủ của các nước đã đầu tư vào quá trình học tiếng Anh.
Họ đã đặt ra mục tiêu để nâng cao trình độ tiếng Anh của người dân
và xây dựng các chương trình thông qua hệ thống giáo dục . Thực tế
chương trình này không phải là mới ở Việt Nam, Chính phủ đã có kế
hoạch dự án quốc gia dài hạn phù hợp với ngôn ngữ nước ngoài. Họ
thiết lập các chương trình để nâng hiện trạng không chỉ của trình độ
tiếng Anh của sinh viên mà còn là năng lực của giáo viên ngôn ngữ
từ tiểu học đến trường đại học.
Ngôn ngữ tiếng Anh có bốn phương thức hay kỹ năng, các kĩ
năng bao gồm nghe, nói đọc và viết. Trong quá trình học ngoại ngữ,
nghe nói được học trước tiên, tiếp theo sau đó là đọc và cuối cùng là
kĩ năng viết. Có hai cách để bốn phương thức ngôn ngữ có mối liên
hệ với nhau. Đó là giao tiếp trực tiếp trong hoặc ngoài và các phương
pháp giao tiếp bằng tiếng nói hoặc bằng văn bản.



2

Đọc là một kỹ năng giúp con người khám phá ra những điều
mới mẻ xung quanh phục vụ như là nền tảng của việc học tập của

một cá nhân. Nghe là một phương thức ngôn ngữ có vai trò quan
trong trong giao tiếp. Trong đó có sự tham gia tích cực của các cá
nhân trong khi nghe vì nó liên quan đến người gửi, thông tin truyền
đi và người nhận. Nói được coi là kỹ năng sản sinh trong các kĩ năng
ngôn ngữ, là một kỹ năng giao tiếp một người có thể dùng lời nói để
diên đạt suy nghĩ và ý tưởng của mình.
Là một giáo viên giảng dạy các tiếng Anh cho sinh viên năm thứ
hai của Đại học Thái Nguyên, người nghiên cứu đã gặp phải một số
vấn đề trong khi giảng dạy tiếng Anh, người nghiên cứu quan tâm
nghiên cứu hiệu quả tiếng Anh của sinh viên trong ba kĩ năng ngôn
ngữ bao gồm; kĩ năng đọc, kĩ năng nghe và kĩ năng nói để tiến tới
thiết kế nguồn tài liệu để củng cố, nâng cao hiệu quả học tiếng Anh
cơ bản của sinh viên.
Hơn nữa, trong số những sinh viên đại học tại Đại học Thái
Nguyên (ĐHTN), trên thực tế, không có đánh giá năng lực sinh viên
về ba phương thức ngôn ngữ tiếng Anh. Đó được thể hiện rõ ràng
rằng các lớp học dành cho người học ngoại ngữ sẽ mang lại nhiều lợi
ích từ phương pháp lấy người học làm trung tâm. Vì vậy, điều này có
thể cho rằng nghiên cứu này sẽ có tính khả thi trong sinh viên Đại
học Thái Nguyên và sẽ thông báo những thông tin cơ bản và cần thiết
đối với việc giảng dạy tiếng Anh hiệu quả. Hơn nữa, nghiên cứu sẽ
phục vụ như là cơ sở cho các tác giả để xây dựng tài liệu giảng dạy
và hoạt động thích hợp có thể đáp ứng nhu cầu của các học sinh.




19





18

KHUYẾN NGHỊ:
Từ các kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị sau đây được cung cấp:
1. Nguồn tài liệu đề xuất sẽ được nhà trường kiểm định trước
khi áp dụng vào thực tế.
2. Hạn chế của sinh viên trong kĩ năng đọc, nghe và nói phải
được các nhà quản lí lưu tâm.
3. Nghiên cứu tương tự có thể thực hiện theo các kĩ năng ngôn
ngữ.
4. Các nhà nghiên cứu tương lai lưu tâm đến chủ đề này và họ
có thể tiến hành nghiên cứu đề tài tương tự liên quan đến kĩ năng
viết.


3

1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này xác định ba phương thức ngôn ngữ tiếng
Anh của sinh viên đại học năm thứ hai tại Đại học Thái Nguyên, Việt
Nam để làm cơ sở cho đề xuất biên soạn nguồn tài liệu phù hợp.
Nghiên cứu này đã tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau
đây:
1. Hồ sơ dữ liệu đầu vào của sinh viên:
1.1 Giới tính;
1.2 Trình độ học vấn của phụ huynh;
1.3 Nơi sinh
1.4 Trường Phổ thông đã học (công lập hay dân lập)

2. Năng lực của sinh viên trong các kĩ năng ngôn ngữ sau là gì?
2.1. Đọc
2.2. Nghe
2.3. Nói
3. Có sự khác biệt nào về năng lực của các sinh viên khi được phân
các nhóm?
4. Làm thế nào để giáo viên đánh giá được năng lực của sinh viên
trong ba phương thức ngôn ngữ tiếng Anh?
5. Có sự khác biệt đáng kể giữa các hoạt động của sinh viên và đánh
giá của giáo viên trên ba phương thức?
6. Nguồn tài liệu gì có thể được xây dựng cho mỗi kĩ năng trong ba
phương thức ngôn ngữ tiếng Anh nêu trên?
1.3. GIÁ TRỊ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sẽ mang lại lợi ích thiết thực sau:
Sinh viên. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp cho sinh
viên những thông tin hữu ích và kiến thức liên quan tới việc họ có thể


4

nâng cao quá trình học tập ba phương thức ngôn ngữ. Họ cũng sẽ
được sử dụng nguồn tài liệu đã biên soạn.
Giảng viên. Nghiên cứu này sẽ mang lại lợi cho giảng viên
thông qua các kinh nghiệm có được trong việc sử dụng các nguồn tài
liệu phát triển các phương thức ngôn ngữ của học sinh. Họ cũng sẽ
được trang bị với các tài liệu mà họ có thể sử dụng để nâng cao hiệu
quả năng lực ngôn ngữ của sinh viên.
Các nhà quản lý. Các kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp cho
các nhà quản lí một cơ sở rõ ràng để giới thiệu sự đổi mới có thể tiến
tới nghiên cứu xa hơn cho các trường tương tự.

Nhà hoạch định chính sách. Các nhà hoạch định chính sách sẽ
có cách nhìn sâu sắc về kĩ năng ngô ngữ tiêu biểu thông dụng trong
sinh viên và sẽ khơi nguồn sự ủng hộ và các chính sách thích hợp cho
các kết luận trong nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu sẽ cung cấp cho các giáo
viên phương pháp dạy học và các thủ thuật hữu ích để nâng cao hiệu
quả giảng dạy. Giáo viên có thể giảm bớt hạn chế và dạy học hiệu
quả hơn.
Nhà nghiên cứu trong tương lai. Các nhà nghiên cứu khác có
thể quan tâm đến chủ đề này để họ có thể tiến hành các nghiên cứu
tương tự.
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định năng lực của học
sinh trong ba phương thức của ngôn ngữ cụ thể; đọc, nghe và nói. Hồ
sơ của sinh viên năm thứ hai cũng đã được xác định về mặt giới tính,
'trình độ học vấn, học sinh cha mẹ, nơi xuất xứ và loại hình trường đã
học.


17

dụng là: Cronbach alpha, tương quan, Mean, Tỷ lệ, Bảng xếp hạng,
Standard Deviation và T- test.
KẾT LUẬN:
Dựa từ các kết quả nghiên cứu, các kết luận sau đây được rút ra:
1. Trong số sinh viên tham gia điều tra, làm bài test, số sinh
viên nam có cha mẹ đạt trình độ đào tạo PTTH nhiều hơn nữ. 95.7%
tốt nghiệp PTTH tại các trường công lập.
2. Nhìn chung sinh viên đạt mức kết quả thấp trong các bài test
đọc với trung bình 22.72% kết quả đúng và kết quả kĩ năng nói cũng

tương tự.
3. Có sự khác biệt về năng lực của sinh viên trong các nhóm bài
kiểm tra được sắp xếp tầng bậc theo mô tả sự biến đổi.

4. Phần lớn các kĩ năng được đánh giá là sinh viên năm thứ hai
ít được thực hành. Giáo viên chỉ coi trọng đọc hiểu và đọc trong ngữ
cảnh vì các kĩ năng quan trọng hơn góp phần quan trọng đến quá
trình phát triển của sinh viên năm thứ hai.
5. Năng lực đọc của sinh viên không có mối liên hệ với đánh
giá của giáo viên trong khi năng lực nghe của sinh viên có mối liên
hệ với đánh giá của giáo viên. Sẽ được phản ánh rõ hơn trong nhận
xét và đánh giá của giáo viên. Năng lực nói của sinh viên không có
mối quan hệ với đánh giá thường xuyên của giáo viên nhưng lại có
mối quan hệ với mức độ đánh giá tầm quan trọng của kĩ năng.
6. Biên soạn các nguồn tài liệu dựa trên kết quả năng lực của
sinh viên đạt chỉ số thấp nhằm nâng cao quá trình học tập các kĩ năng
tiếng anh của người học.



16

6. Biên soạn các bài tập để nâng cao hiệu quả của sinh viên trong
quá trình học ba phương thức của ngôn ngữ
Trong quá trình biên soạn các bài tập khắc phục hậu quả của ba
phương thức ngôn ngữ cho nhóm sinh viên Việt Nam, căn cứ dựa
trên các cơ sở sau đây: kết quả hiệu suất thấp của các sinh viên trong
các kĩ năng; mối quan hệ có ý nghĩa của các kết quả với các biến hồ
sơ; và mối quan hệ có ý nghĩa của các kết quả với đánh giá của giáo
viên. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc biên soạn bài tập

khắc phục hậu quả là cung cấp một công cụ để giải quyết các bất cập
trong thọc tập của sinh viên. Điều này là rất quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển chiến lược giáo dục ngôn ngữ trong giáo dục

CHƯƠNG V
TÓM TẮT, KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
This chapter presents the summary of findings, conclusions
and recommendation of the study.
TÓM TẮT:
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng phân tích diễn ngôn để
chuẩn bị cho các hoạt động tích hợp nói và viết cho sinh viên năm
thứ nhất tại Đại học Thái Nguyên.
Nghiên cứu này đã khiến sử dụng các phương pháp mô tả trong
nghiên cứu để xác định " khả năng phân tích diễn ngôn để chuẩn bị
cho các hoạt động tích hợp nói và viết cho sinh viên năm thứ nhất tại
Đại học Thái Nguyên" .Có 200 học sinh và 30 giáo viên là những
người được hỏi trong nghiên cứu. Các công cụ thống kê được sử


5

Phương pháp mô tả là phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong khảo sát để đánh giá giáo viên và các bài test dùng để xác định
năng lực ngôn ngữ của sinh viên. Người tham gia nghiên cứu bao
gồm 357 sinh viên năm thứ hai tại một số trường đại học được lựa
chọn của Đại học Thái Nguyên, Việt Nam và 60 giảng viên tiếng
Anh. Phiếu khảo sát và bài kiểm tra là nguồn dữ liệu phục vụ cho
phân tích thống kê trong nghiên cứu.
Nghiên cứu được giới hạn các thành phần hồ sơ của sinh viên
đại học năm thứ hai của Đại học Thái Nguyên và giới hạn ba phương

thức được nêu trên trong nghiên cứu cũng như các câu trả lời của
giảng viên tiếng Anh để trả lời các linh vực khác của nghiên cứu.
Nghiên cứu cũng giới hạn đến năm học của các sinh viên được chỉ ra
trong nghiên cứu và các khu đối tượng quy định. Nghiên cứu này
không bao gồm kĩ năng viết do đó đã trở thành một phần giới hạn của
nghiên cứu.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Trong phần này, người nghiên cứu giới thiệu một số các
nghiên cứu liên quan tới chủ để của luận án.
2.2. MÔ TẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này đã được sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống để
đại diện cho dòng chảy của nghiên cứu. Các thành phần được nhóm
lại thành dữ liệu đầu vào, quá trình nghiên cứu và kết quả, cụ thể
được trình bày trong bảng dưới đây:



6

ĐẦU VÀO TIẾN TRÌNH ĐẦU RA











Bảng 1
Tiến trình nghiên cứu








Thiết kế nguồ
n
tài liệu cho
ba kĩ năng
ngôn ngữ





Bài kiểm
tra của
GV

Câu hỏi
điều tra


A. Dữ liệu đầuvào:


1. Giới tính
2. Trình độ học vấn của
cha mẹ
3.Nơi sinh
4. Loại trường PTTH
B. Khả năng của sinh
viên trong:
1. đọc
2. nghe
3. nói
C.Đánh giá của giảng
viên
1. đọc
2. nghe
3. nói



15

đương với khá quan trọng, bốn mục có số điểm là 3,0 hoặc hơi quan
trọng và ba mục có một số điểm là 2.0 hoặc ít quan trọng. Điều này
cho thấy rằng những giáo viên chỉ xem xét đọc hiểu và dấu hiệu ngữ
cảnh như kỹ năng quan trọng hơn đã được nhấn mạnh trong giai đoạn
phát triển của sinh viên năm thứ hai. Điều này phản ánh phương pháp
giảng dạy chưa đồng bộ mà các giáo viên sử dụng. Điều này ngụ ý
rằng các giáo viên đang sử dụng một cách tiếp cận thiếu cân bằng
trong giảng dạy các phương thức đọc, nghe và nói.
5. Mối quan hệ của việc đánh giá của giáo viên và năng lực của

sinh viên trong ba phương thức ngôn ngữ
Năng lực đọc của sinh viên có khác nhau từ mức độ xếp hạng và
mức độ quan trọng của giáo viên. Điều này ngụ ý rằng khả năng đọc
của học sinh không liên quan đến đánh giá của giáo viên. Tuy nhiên
năng lực nghe của sinh viên không có sự khác biêt so với tần xuất và
mức độ xếp hạng tầm quan trọng của giáo viên. Điều này có nghĩa là
hiệu suất nghe của học sinh liên quan đến đánh giá của giáo viên và
là phản ánh đúng việc đánh giá đúng sự thật và đánh giá của giáo
viên.
Năng lực nói của sinh viên có sự khác biệt đáng kể với đánh
giá tần xuất của các giáo viên nhưng không có khác biệt với mức độ
tầm quan trọng. Điều này có nghĩa là khả năng nói của học sinh
không liên quan đến đánh giá tần số của giáo viên nhưng có liên quan
tới mức độ đánh giá tầm quan trọng. Nhìn chung, có thể khẳng định
rằng trong số ba phương thức ngôn ngữ, khả năng nghe của sinh viên
có mối liên hệ đến sự đánh giá của giáo viên. Kĩ năng đọc và kĩ năng
nói chung hoàn toàn độc lập trong đánh giá của giáo viên.


14

không xem xét các tiêu chí được liệt kê để đánh giá các kỹ năng trên
của sinh viên năm thứ hai. Kết quả này là rất ngạc nhiên bởi vì các
câu hỏi khảo sát đã được phê duyệt bởi ba chuyên gia ngôn ngữ tiếng
Anh và 30 giáo viên tiếng Anh mà không phải là những người được
điều tra, tất cả họ đều cho rằng các câu hỏi khảo sát cho phù hợp.
Điều này cho thấy rằng những giáo viên tham gia điều tra có thể
không hoàn toàn nắm được khái niệm của cuộc khảo sát hoặc họ
không nắm rõ các câu hỏi trong bối cảnh giảng dạy tiếng Anh tại các
cấp độ và trả lời các câu hỏi khảo sát ngẫu nhiên. Các mâu thuẫn rõ

ràng của các câu trả lời được thể hiện như trong mục 3 và 4, nơi xếp
hạng hoàn toàn khác nhau mặc dù hai mục điều chỉ cùng một nội
dung. Một ví dụ khác tại mục 5 và 6, mục 5 đạt không % cho cột
đồng ý và cho mục 6 đạt 5 phần trăm. Trong khi hai % là mức độ
thấp, 0% là kết quả không chấp nhận được từ các giáo viên tiếng
Anh.
Theo quan niệm giáo viên tham gia nghiên cứu xem xét đến tần
suất sử dụng của các sinh viên, đa số các mục có tỉ lệ dưới 2,5 và chỉ
có một có một mục đạt 2.5 là mục số 7 đọc hiểu. Điều này có nghĩa
rằng đây là kĩ năng duy nhất mà các giáo viên thường xuyên cho sinh
viên thực hành.
Bảy hạng mục xếp hạng tương đương với 2,0 hoặc hiếm khi
được thực hiện và một mục xếp hạng 1,0 hoặc không được thực hiện.
Mục này là mục số 9 vốn liên quan tới kỹ năng nói. Điều này chỉ ra
rằng phần lớn các mục đang được đánh giá hiếm khi được dùng cho
sinh viên năm thứ hai.
Đối với nhận thức của người trả lời, giáo viên dựa theo mức độ
quan trọng chỉ có hai mục có số điểm trung bình gần 4,0 hoặc tương


7

CHAPTER III
METHODOLOGY
Mô tả nghiên cứu
Nghiên cứu này đã sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cách sử
dụng các công cụ nghiên cứu các câu hỏi khảo sát và kiểm tra thử
nghiệm được thực hiện để xác định hiệu suất của học sinh trong ba
chế độ ngôn ngữ cụ thể; nghe, đọc và nói. Theo Best (2004), nghiên
cứu mô tả là một nghiên cứu trong đó ghi lại, phân tích, và giải thích

các điều kiện tồn tại. 'Câu trả lời cho các bài kiểm tra và giáo viên
Học sinh trả lời cho các câu hỏi khảo sát cấu thành các dữ liệu đã
được phân tích thống kê.
Đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng của nghiên cứu này bao gồm 357 sinh viên năm
thứ hai và 60 giảng viên tiếng Anh của một số các trường Đại học
thành vên thuộc Đại học Thái Nguyên.Các sinh viên được học theo
chương trình tiếng Anh năm thứ hai tại năm trường đại học trong tỉnh
Thái Nguyên.
Công cụ nghiên cứu:
Nghiên cứu này đã sử dụng các công cụ nghiên cứu sau:
Bài kiểm tra do người nghiên cứu thiết kế. Bài kiểm tra được thiết
kế để đánh giá mức độ năng lực thể hiện ba phương thức ngôn ngữ
tiếng Anh như đọc, nghe và nói của sinh viên tại Đại học Thái
Nguyên.
Bảng câu hỏi khảo sát. Bảng này được thiết kế riêng cho giảng viên
nhằm để xác định cách giáo viên đánh giá ba phương thức học tập
của sinh viên.
Thu thập số liệu


8

Các bảng câu hỏi khảo sát cho giáo viên và bài kiểm tra cho học
sinh là được thiết kế để đánh giá mức độ hiệu quả của sinh viên năm
thứ hai trong ba phương thức của ngôn ngữ tiếng Anh là; nghe, đọc
và nói.
Việc phê duyêt ban đầu của các bảng câu hỏi đã được thực hiện.
Sinh viên tham gia test thử nghiệm không phải là những người được
hỏi trong nghiên cứu để xác định điểm mạnh và điểm yếu của các bài

kiểm tra.
Khi các câu hỏi đã được chỉnh sủa dựa trên các góp ý trong lần
phê duyệt ban đầu, người nghiên cứu gửi thư cho hội đồng đánh giá
và thông qua. Sau khi được chấp thuận, người nghiên cứu sẽ chỉnh
sửa lại cho hoàn thiện và viết thư tới hiêu trưởng của các trường
thuộc Đại học Thái Nguyên xin phép làm điều tra.
Trong quá trình thu thập số liệu, người nghiên cứu phối hợp
với giảng viên giảng dạy trực tiếp hướng dẫn sinh viên cụ thể cách
hoàn thiện thông tin trong bài test và tiến hành ghi âm sinh viên về
chủ đề đã được thiết kế dành riêng cho kỹ năng nói. Phần bài test sẽ
được thu lại và niêm phong.
Các phiếu điều tra của giảng viên được chuyển tới 60 giảng viên
để họ trả lời. Hướng dẫn được cung cấp cách họ sẽ trả lời các câu hỏi
điều tra. Các giáo viên đã có đủ thời gian để trả lời toàn bộ câu hỏi.


13

giáo dục ở bậc đại học đã được điều chỉnh bởi các trường Đại học
Thái Nguyên, thực tế các sinh viên nam và nữ có những khả năng
khác nhau về nghe và nói nhưng không phải kĩ năng đọc. Kiến thức
này sẽ dẫn đến các module chuyên biệt cho sinh viên nam và nữ về
nghe và nói và một mô-đun chung cho kĩ năng đọc.
Trên khía cạnh giáo dục của phụ huynh, điều này có thể được
lưu ý rằng chỉ có trình độ đại học hoặc khác có một sự khác biệt đáng
kể với kĩ năng nói. Điều này có nghĩa rằng giáo dục của cha mẹ ảnh
hưởng đến kỹ năng nói của sinh viên và kết quả này đặc biệt được
quan sát giữa các phụ huynh có trình độ học đại học và những người
dưới trung học hoặc giáo dục khác.
Đối với nơi xuất xứ có thể được quan sát thấy rằng trong tất cả

ba phương thức, các giá trị p đạt dưới 0,05 và có sự khác nhau đáng
kể ở nguồn gốc thành thị và nông thôn. Điều này có nghĩa rằng đây là
một yếu tố quan trọng trong năng lực học tập của người học. Trong
trường hợp của các loại trường THPT, có thể được lưu ý rằng tất cả
các giá trị p dưới mức 0.05 cho thấy rằng năng lực của các sinh viên
trong ba phương thức có khác nhau đối với cả các trường học tư thục
và trường công. Các trường tư thục được thực hiện tốt hơn so với
những người trong các trường công lập. Điều này có nghĩa rằng giáo
dục trong các trường công lập đặc biệt về ngôn ngữ tiếng Anh, có
phải cải thiện để được ngang bằng với những người trong các trường
tư thục.
4. Đánh giá của giảng viên về kĩ năng Đọc, Nghe và Nói
Một trong số 13 tiêu chí đạt chọn ô đồng ý chiếm > 50 phần
trăm là phân tích ngữ âm. Tất cả 12 tiêu chí còn lại đều chọn không
đồng ý của>50 phần trăm. Điều này có nghĩa rằng những giảng viên


12

ngoài đối với tất cả những sinh viên được hỏi cho biết họ không có
kinh nghiệm hoặc gặp sai lầm khi xử lý thông tin.
2.3. Kĩ năng Nói. Năng lực nói của sinh viên đạt kết quả trung
bình 47,80 phần trăm, tương tự như nghe các sinh viên đã được thực
hiện ở mức trung bình trong các phương thức nói. Hơn nữa, nhìn vào
các tiêu chí, qua quan sát thấy rằng điểm số là đồng nhất.
Điều này cho thấy rằng năng lực của các học sinh trong các tiêu
chí của kĩ năng nói là phù hợp và tất cả kết quả đều dưới 50 phần
trăm. Đánh giá trung bình thấp của học sinh trong phương thức này
không chỉ phù hợp với những kết quả đạt được trong việc đọc và
nghe nhưng là đáng báo động, đánh giá sinh viên đang ở cấp độ thứ

hai. Điều đó thể hiện rằng kỹ năng nói của học sinh đã chưa hoàn
thiện mặc dù là họ có thể đã trải qua các khóa học tiếng Anh, hoặc
tiếp xúc với các phương tiện truyền thông.
Kết quả thấp trong năng lực nói của sinh viên phù hợp với kết
quả của kĩ năng đọc và nghe đã phản ánh về sự bất cập và thiếu hiệu
quả của các khóa học tiếng Anh cơ bản mà học sinh đã tham gia
trong việc giải quyết nhu cầu học ngôn ngữ của họ.
3. Năng lực thể hiện ba phương thức ngôn ngữ của sinh viên
trong các nhóm thử nghiệm được phân loại theo biến động của
hồ sơ
Đối với giới tính, các giá trị p của nghe và nói là dưới 0,05 chỉ
ra rằng năng lực của sinh viên nam và nữ là khác nhau đáng kể. Điều
này có nghĩa rằng giới tính là một yếu tố có ảnh hưởng đến kỹ năng
nghe và nói của sinh viên. Tuy nhiên đối với kĩ năng đọc, Tuy nhiên
lớn hơn 0,05 chỉ ra rằng giới tính là một nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến kỹ năng đọc. Nó là thú vị để lưu ý rằng trong khi đồng


9

Ngay sau khi họ hoàn thành, các câu hỏi sẽ được lấy thu lại và niêm
phong.
Các bài kiểm tra của sinh viên và phiếu khảo sát của giáo viên
sau khi thu về được phân tích và để chuẩn bị cho việc xử lý số liệu.
Xử lý số lệu thống kê
Nghiên cứu có sử dụng các phương pháp phân tích thống kê để
giải thích ý nghĩa và phân tích của nghiên cứu sau đây:
Dữ liệu được phân tích bằng cách sử dụng phần mềm SSPS.
Trung bình. Điều này đã được sử dụng để xác định số điểm trung
bình của sinh viên trong các bài kiểm tra.

Tỷ lệ phần trăm. được sử dụng để xác định mức độ liên quan đến
toàn bộ câu trả lời.
Xếp hạng. Điều này đã được sử dụng để xác định tầm quan trọng
về vị trí
Độ lệch chuẩn. Điều này đã được sử dụng để xác định các biến của
điểm số của sinh viên trong các kết quả làm bài kiểm tra
T-test. Điều này đã được sử dụng để tìm ra sự khác biệt có ý nghĩa
quan trọng của đối tượng được so sánh.
CHƯƠNG IV-dang lam
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Dữ liệu đầu vào của sinh viên


10

Có sự phân chia tương đương của cả hai giới tính trong số
những sinh viên tham dự, số sinh viên nam nhiều hơn nữ là bảy phần
trăm. Điều này có nghĩa rằng không có nhân tố giới tính đã làm thay
đổi số lượng sinh viên Sinh viên năm hai tại Đại học Thái Nguyên.
Hơn nữa, điều này ngụ ý rằng bình đẳng giới ở các trường đại học là
cung cấp giáo dục cho cả học sinh nam và nữ.
1.2 Giáo dục của phụ huynh. Trong số 357 sinh viên tham gia
nghiên cứu có 151 hoặc 42,29 phần trăm có cha mẹ giáo dục đại học.
Tiếp theo là 111 hoặc 31,18 phần trăm mà cha mẹ được giáo dục
trung học và 95 hoặc 26,52 phần trăm mà cha mẹ các chứng chỉ như
giáo dục dạy nghề và giáo dục người lớn. Điều này có nghĩa rằng gần
một nửa sinh viên được cha mẹ định hướng trong việc học và theo
đuổi giáo dục đại học. Đây cũng là một dấu hiệu tốt cho sinh viên khi
cha mẹ tốt nghiệp trung học hoặc trình độ khác bởi vì điều này cho
thấy sự thay đổi động lực của cha mẹ khi để con tham gia giáo dục

đại học sẽ đảm bảo tương lai sự nghiệp và an ninh của con cái họ.
1.3 Hồ sơ cư trú. Sinh viên có nguồn gốc từ 14 địa điểm khác nhau
tại Việt Nam bốn địa điểm ở thành thị và vùng nông thôn là mười.
Nó cũng có thể được lưu ý rằng 36,56 phần trăm số sinh viên được
hỏi đến từ các khu vực đô thị và 63,44 đến từ các vùng nông thôn.
Điều này ngụ ý rằng hầu hết những sinh viên được hỏi lớn lên và
được hưởng môi trường giáo dục sớm tuy nhiên không được sử dung
công nghệ cao trong học tập.
Điều này có thể được lưu ý rằng không có tỉnh nào chi phối
phần lớn các sinh viên. Số phần trăm cao nhất là 10,75 bao gồm bốn
tỉnh bao gồm cả thành thị và nông thôn: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà
Tĩnh và Thái Bình.



11

1.4 Loại hình trường. Đa số sinh viên chiếm tới 95,70 phần trăm tốt
nghiệp trung học tại các trường công lập. Chỉ có 15 trong số 357
chiếm 4,3 phần trăm sinh viên đã học trung học tại các trường tư.
Điều này có nghĩa là phần lớn sinh viên đã lựa chọn các chương trình
giáo dục chuẩn của các trường công lập.
2. Năng lực của sinh viên trong ba Phương thức ngôn ngữ
2.1. Kĩ năng Đọc. Nhìn chung sinh thường có kết quả thấp trong
tất cả các bài test trung bình câu trả lời đúng chỉ chiếm 22,72 phần
trăm và tương đương bằng lời nói của trung bình thấp. Trong thực tế,
nó chỉ được ba trong số 16 tiêu chí có tỉ lệ phần trăm điểm đúng là
trên 50% và những gắn liền với phân tích ngữ âm, lựa chọn tiêu đề và
câu chủ đề. Các tiêu chí với số phần trăm cao nhất là phân tích ngữ
âm, lựa chọn tiêu đề và sau đó bằng câu chủ đề.

Năng lực của sinh viên trong kĩ năng đọc làs yêu và không phần
mà những gì được mong đợi của họ. Rõ ràng là kỹ năng của họ đã
không hoàn thiện như họ đã thể hiện tốt chỉ thuộc về kỹ năng đọc
như nhận dạng từ (phân tích cụ thể về ngữ âm) và dàn ý và tóm tắt
(đặc biệt là tiêu đề lựa chọn và chủ đề của câu). Kỹ năng của họ đã
không phát triển và mở rộng các kỹ năng đọc chuyên sâu như đọc
hiểu và chưa chỉ ra tính bền vững để đảm bảo sự hiểu biết đầy đủ của
các tài liệu đọc.
2.2. Kĩ năng nghe. Nói chung Học sinh chỉ đạt kết quả trung
bình 59,67 phần trăm. Giá trị này có thể được xếp vào vị trí cao vì
kết quả trên 50 phần trăm, trong đó tiêu chí 3B và 3D đóng góp cho
giá trị cao này. Trong thực tế, tiêu chí 3C chỉ đạt 0% và chỉ có 19
phần trăm cho mục 3A. Sự chênh lệch rõ ràng trong bốn mục cho
một kỹ năng không phù hợp. Dường như mục 3C là lĩnh vực bên

×