MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc quy hoạch, đầu tư xây dựng CCN là chủ trương lớn nhằm tạo động lực
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn. Nó đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn
Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa đi liền với đô thị hóa. Do đó trong thời gian qua ở
các vùng nông thôn đã có hàng trăm CCN được xây dựng và phát triển. Trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay thì vấn đề phát triển các CCN giữ
vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tiến bộ, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, giải quyết tốt, có hiệu quả đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong
quá trình phát triển kinh tế – xã hội, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020.
Trong giai đoạn (2006 - 2010) Đảng và Nhà Nước ta những mục tiêu và nhiệm vụ
chủ yếu là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo
nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”. “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp”.
Hiện nay quá trình CNH, HĐH gắn liền với quá trình đô thị hóa đang diễn ra với
tốc độ ngày càng nhanh và bền vững, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao chất lượng và hiệu quả, năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế giữ vai trò quan
trọng trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020. Phát triển nhanh hơn
CN-XD cần chú ý mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa phát triển CN-XD với phát triển dịch
vụ, phát triển đô thị và phát triển về nông nghiệp hàng hóa bền vững. Đại hội X xác định:
“Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình
thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm các
điều kiện sinh hoạt cho người lao động”.
Theo thống kê của Bộ Công thương, đến năm 2011, các địa phương trong cả nước
đã quy hoạch phát triển 1.872 CCN với tổng diện tích 76.520 ha. Trong đó, 918 CCN đã
đi vào hoạt động với tổng diện tích 40.597 ha. Hiện nay, diện tích đã sử dụng và cho thuê
trong các CCN cả nước là 7.510 ha, chiếm 26,4% tổng diện tích các CCN đã hoạt động.
Huyện Điện Bàn nằm trong vùng kinh tế trọng điểm bắc Quảng Nam, có hệ thống
giao thông huyết mạch của cả nước đi qua như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, tiệm
cận với TP. Đà Nẵng - trung tâm kinh tế khu vực miền Trung; là điểm nối hai di sản Văn
hóa thế giới Hội An - Mỹ Sơn, huyện Điện Bàn đã nhanh chóng biến lợi thế so sánh
thành cơ hội thu hút đầu tư, hình thành các khu, CCN, khu du lịch, khu đô thị mới, khu
dân cư mới.
Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện Điện Bàn lần thứ XXI đã
khẳng định: “Mục tiêu xây dựng Điện Bàn cơ bản thành huyện công nghiệp do Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX đề ra cơ bản đã hoàn thành, tạo được nền tảng
vật chất, tinh thần hết sức quan trọng cho sự phát triển của huyện trong những năm
đến”. Đó là thành quả của quá trình vượt qua mọi khó khăn, thách thức, là sự cố gắng của
lãnh đạo và nhân dân trong huyện, đặc biệt là thu hút được các nguồn lực đầu tư và phát
triển, triển khai nhiều chương trình KT-XH mở hướng đột phá để thúc đẩy sản xuất phát
triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị,
tăng cường sức mạnh quốc phòng địa phương, đưa Điện Bàn chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới, tiến đến xây dựng huyện thành thị xã vào năm 2015. Đây là định hướng,
là mục tiêu số một được đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI cân nhắc, thảo luận kỹ và đi
đến quyết tâm cao, xem đây là thời cơ, vận hội mới của địa phương mình.
Để đạt được mục tiêu ấy, nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đã đề ra
9 chỉ tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2015. Trong đó có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
toàn nền kinh tế trong 5 năm 2010-2015 phải tăng cho được từ 20- 22%/năm, trong đó
công nghiệp 20-22%,dịch vụ tăng 22-23%, nông nghiệp tăng 3,5- 4%. Cơ cấu kinh tế đến
năm 2015 với công nghiệp – xây dựng cơ bản chiếm 76%, dịch vụ 20%, nông nghiệp 4
%, thu nhập đầu người đạt 40 – 42 triệu đồng/ năm, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn dưới
4%
Trong bối cảnh đó, phát triển các CCN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
phát triển công nghiệp và thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa trên địa bàn huyện. Đến
cuối năm 2011 toàn huyện đã quy hoạch và đưa vào hoạt động 11 CCN và các CCN này
cũng đang trên đà phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, xây
dựng không gian đô thị trên địa bàn huyện theo hướng đô thị hóa. Tuy nhiên bên các
thành tựu cơ bản CCN huyện cũng tồn tại những hạn chế như: quy hoach thiếu đồng bô,
nguồn lao động chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, ô nhiễm môi trường…
Vì vậy việc đánh giá thực trạng phát triển của các CCN trên địa bàn huyện có ý
nghĩa hết sực quan trọng. Đó là cơ sở để xây dựng định hướng phát triển CCN trong thời
gian tới. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Phát triển Cụm công nghiệp trong tiến trình đô
thị hóa ở huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, các chuyên đề, luận án
nghiên cứu về vấn đề phát triển CCN gắn với tiến trình đô thị hóa; về đô thị hóa nông
nghiệp, nông thôn; về phát triển các CCN ở Việt Nam và ở một số địa phương khác
Nhìn chung, các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu quá trình xây
dựng và phát triển của các CCN ở Việt Nam là rất phong phú và phản ánh nhiều góc độ
khác nhau. Các công trình đã khẳng định yêu cầu khách quan và tính cấp thiết phải xây
dựng mô hình kinh tế CCN ở Việt Nam và một số địa phương khác; đồng thời các đề tài
đã phản ánh khá rõ nét thực trạng cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
xây dựng, phát triển CCN ở Việt Nam và ở các địa phương. Tuy nhiên, các nghiên cứu
này mới tập trung nghiên cứu những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước, hoặc
trên một địa bàn, một vùng, một tỉnh khác. Đến nay, ở Huyện Điện Bàn chưa có công
trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về vấn đề phát triển các CCN
trong tiến trình đô thị hóa trên địa bàn huyện.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài nghiên cứu phát triển các CCN trong tiến trình đô
thị hóa theo hướng tiếp cận của kinh tế chính trị trên địa bàn huyện Điện Bàn. Đề tài là sự
nghiên cứu những nguyên lý chung về CCN và đô thị hóa từ đó vận dụng vào việc phát
triển CCN gắn với đô thị hóa ở địa bàn huyện Điện Bàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của đề tài
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về phát triển CCN, phân tích thực trạng về phát
triển CCN trong tiến trình đô thị hóa ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài đưa ra phương hướng và các giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa ở huyện Điện Bàn trong thời gian
tới.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc phát triển CCN trong
việc thực hiện quá trình đô thị hóa.
- Phân tích thực trạng phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa trên địa bàn huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2007 - 2011.
- Nghiên cứu, đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
đẩy nhanh khả năng phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa ở địa bàn huyện trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về vai trò và tác động của phát triển
CCN trong tiến trình đô thị hóa.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: nghiên cứu tại các CCN trên địa bàn huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam.
+ CCN Trảng Nhật 1 (xã Điện Thắng Trung).
+ CCN Trảng Nhật 2 (xã Điện Hòa).
+ CCN Thương Tín 1 (xã Điện Nam Đông).
+ CCN Thương Tín 2 (xã Điện Nam Đông)
+ CCN An Lưu (xã Điện Nam Đông).
+ CCN Cẩm Sơn (xã Điện Tiến).
+ CCN Vân Ly (xã Điện Quang).
+ CCN Bồ Mưng (xã Điện Thắng Bắc).
+ CCN An Dương (xã Điện Nam Đông và Điện Dương).
+ CCN Đông Khương (xã Điện Phương).
+ CCN Bích Bắc (xã Điện Hòa).
- Về thời gian: giai đoạn 2007-2011
- Về nội dung nghiên cứu: khảo sát thực tế, nghiên cứu thực trạng phát triển của
các CCN trong tiến trình đô thị hóa, đề xuất phương hướng và những giải pháp phát triển
CCN trên địa bàn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: nghiên cứu, phân tích vấn
đề một cách khoa học, khách quan.
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập tài liệu, số liệu báo cáo từ phòng
Kinh Tế và Hạ Tầng huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tra cứu các thông tin từ sách,
báo, tạp chí, Internet…
+ Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: phát phiếu điều tra ngẫu nhiên của 11
doanh nghiệp thuộc 11 CCN trên địa bàn huyện.
- Phương pháp tổng hợp và xử lí số liệu: dựa trên các số liệu sơ cấp và thứ cấp
thiết lập các bảng biểu phản ánh một cách khoa học các số liệu đã thu thập được để thuận
tiện cho việc phân tích, đánh giá, so sánh. Sử dụng máy tính, phần mềm Excel, Word để
tính toán, so sánh, thể hiện số liệu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển CCN trong tiến trình đô thị
hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển CCN và tác động của nó trong quá trình đô thị
hóa ở huyện Điện Bàn, đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm thúc đẩy sự phát
triển các CCN theo hướng tác động tích cực đến quá trình đô thị hóa trên địa bàn huyện.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Làm cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho các phòng, ban chức năng huyện Điện Bàn xây
dựng phương hướng, chính sách và đưa ra các giải pháp phù hợp để phát triển các CCN
trong tiến trình đô thị hóa trên địa bàn huyện.
- Đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những tổ chức, cá nhân quan tâm
nghiên cứu vấn đề này, nhất là đối với sinh viên nghành Kinh Tế và Kinh Tế-Chính Trị.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề
tài gồm có 3 chương:
Chương1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển cụm công nghiệp trong
tiến trình đô thị hóa.
Chương 2: Thực trạng phát triển cụm công nghiệp trong tiến trình đô thị hóa ở
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển cụm công
nghiệp gắn với quá trình đô thị hóa ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
CỤM CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1 Lý luận chung về cụm công nghiệp
1.1.1 Khái niệm về cụm công nghiệp
Khái niệm về CCN “district industriel” xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 do Mashall
đưa ra khi ông nghiên cứu về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở miền Bắc nước Anh.
Sau đó các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và chính phủ trên thế giới đã đưa ra nhiều khái
niệm CCN với các cách tiếp cận khác nhau phù hợp với điều kiện mỗi vùng nhằm tìm
kiếm các lợi thế cạnh tranh bên ngoài để hỗ trợ công nghiệp vùng và địa phương trong
phát triển kinh tế. Hiện nay trên thế giới có một số định nghĩa về CCN như sau:
Theo G.Becattini thì CCN là một thực thể xã hội-lãnh thổ đặc trưng bởi sự có mặt
hoạt động của một cộng đồng người và quần thể doanh nghiệp trong một không gian địa
lý và lịch sử nhất định.
Theo M. Porter, người đã có công trong việc phát triển lý thuyết về CCN để lý
thuyết này được sử dụng một cách phổ biến trong việc hoạch định chính sách công cộng
và kinh tế thì cho rằng CCN là sự tập trung về địa lý của các doanh nghiệp, của các nhà
cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hóa, của những người được hưởng dịch vụ, của các
nghành công nghiệp và các tổ chức có liên quan. Trong mô hình kim cương của mình,
ông này dã đưa 4 yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh công nghiệp được kết hợp một
cách sáng tạo để gia tăng tính cạnh tranh cho sự định hình công nghiệp bao gồm: các điều
kiện nhà máy; nhu cầu trong nước; các nghành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp liên
quan; chiến lược công nghiệp, cơ cấu và khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh của
một quốc gia hay một vùng dựa trên khả năng của nền công nghiệp. CCN được tạo thành
khi các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các nghành công
nghiệp tương tự vào trong một vùng. Đến lượt mình các CCN sẽ tăng khả năng cạnh
tranh bằng việc tăng năng suất , khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các
đối thủ cạnh tranh, tạo ra những cơ hội cho các hoat động kinh doanh [6].
Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của đất nước thì nội dung về phát triển
CCN được sử dụng bắt đầu từ khi có quyết định 132/2000/QĐ-TTG ngày 24/11/2000 của
thủ tướng chính phủ về một số nghành nông thôn nhưng đến 2009 trong quyết định số
105/2009/QĐ-TTG ban hành 19/8/2009 của Thủ Tướng Chính Phủ về ban hành quy chế
quản lý CCN mới nêu lên một cách rõ ràng quan niệm về CCN ở nước ta. Theo quyết
định này thì “cụm công nghiệp là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp; có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ yếu
nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá
nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
quyết định thành lập. Cụm công nghiệp hoạt động theo Quy chế này và các quy định của
pháp luật liên quan.
Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 (năm mươi) ha. Trường hợp
cần thiết phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng
không vượt quá 75 (bẩy mươi lăm) ha.” (theo Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg của Thủ
Tướng Chính Phủ về ban hành quy chế quản lý cụm công nghiệp)
Đối với nước ta thì loại hình CCN được xem như là một hình thức tổ chức sản
xuất công nghiệp theo lãnh thổ, nó ra đời và gắn liền với quá trình CNH, HĐH và đô thị
hóa nông thôn.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về CCN nhưng nói chung quan niệm về
CCN thể hiện như sau:
Thứ nhất, CCN là địa điểm tập trung sản xuất kinh doanh và dịch vụ phục vụ công
nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tách biệt với khu dân cư, có hệ thống các công
trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng toàn bộ, đảm bảo các điều kiện để sản xuất
an toàn và bền vững.
Thứ hai, CCN có thể nằm trong địa bàn một hoặc một số huyện do ủy ban nhân
dân tỉnh quyết định; khi lập quy hoạch xây dựng CCN phải đảm bảo kết nối đồng bộ giữa
các công trình kỹ thuật hạ tầng trong và ngoài hàng rào, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và
có hệ thống hạ tầng xã hội tương ứng.
Thứ ba, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong CCN là doanh nghiệp, hợp tác
xã, tổ hợp tác được thành lập một cách hợp pháp; cá nhân hộ gia đình đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, thực hiện đầu tư sản xuất, kinh doanh và các dịch vụ
phục vụ sản xuất, kinh doanh trong CCN [6].
1.1.2 Vai trò của cụm công nghiệp trong phát triển kinh tế-xã hội
Việc thành lập CCN có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa
phương, đặc biệt là đối với sự phát triển nghành công nghiệp của địa phương. Phát triển
CCN sẽ tạo cơ sở để đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa ở nông thôn hiện nay. Khi xây dựng
và phát triển một CCN thì đồng thời nó cho phép tổ chức lại cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh
thổ, bố trí dân cư, bảo vệ môi trường, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển kết cấu hạ
tầng kỹ thuật sản xuất và xã hội cho khu vực.
1.1.2.1 Huy động vốn đầu tư phát triển
Sự hình thành và phát triển của các CCN đều gắn liền với mục tiêu phát triển KT-
XH, gắn liền với kế hoạch phát triển của địa phương. Thực tiễn đã khẳng định vai trò
quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư vào phát triển kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế đều
xem mục tiêu thu hút vốn đầu tư để phát triển theo quy hoạch là mục tiêu quan trọng nhất
của mình.
Đối với sự phát triển của CCN cũng không ngoại lệ. Với tính chất là “vùng lãnh
thổ” hoạt động trong môi trường đầu tư chung, CCN ngày càng đóng vai trò là công cụ
hữu hiệu nhằm thu hút vốn đầu tư, để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh cho các
hộ gia đình và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ.
Thông thường các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong CCN là doanh nghiệp
sản xuất nhỏ, các hộ gia đình vì vậy vấn đề mặt bằng và vốn sản xuất luôn là hai vấn đề
luôn bức xúc nhất. Đây chính là cái vòng lẩn quẩn của sản xuất nhỏ, các doanh nghiệp,
hộ sản xuất không có điều kiện vốn để mở rộng sản xuất, tập trung vào phát triển các sản
phẩm thì lại cần vốn lớn. Việc phát triển CCN chính là để giải quyết vấn đề này. Các
doanh nghiệp tham gia vào CCN sẽ có điều kiện để tập trung vốn cho phát triển kinh tế.
1.1.2.2 Giải quyết việc làm
Việc xây dựng và phát triển các CCN tạo ngày càng nhiều chỗ làm việc góp phần
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ lao động nông nghiệp sang lao động
công nghiệp, đẩy nhanh quá trình biến đổi cơ cấu dân số nông thôn theo hướng đô thị
hóa.
Thực tế cho thấy đối với xã hội nông thôn muốn đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa thì
phát triển các CCN luôn là lựa chọn đúng đắn để thực hiện chiến lược lâu dài về giải
quyết các vấn đề về lao động nông thôn. Nơi mà có một lượng lao động nhàn rỗi rất lớn.
Đô thị hóa là quá trình có sự tăng lên một cách nhanh chóng của dân nhập cư.
Chính vì vậy việc phát triển CCN sẽ tạo điều kiện thu hút các nguồn lao động từ địa
phương khác đến, nên vừa có thể phát triển kinh tế vừa có thể đẩy nhanh tiến trình đô thị
hóa.
1.1.2.3 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Phát triển CCN sẽ tạo được địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển
lâu dài ở địa phương. Thông thường các CCN thường được xây dựng theo quy hoạch
phát triển tổng thể về kinh tế xã hội tại những địa điểm quy hoạch phát triển thành đô thị,
khu dân cư. Chính điều này sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các nhà chính sách hoạch
định chiến lược phát triển lâu dài cho địa phương.
Xây dựng CCN nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế, thu hút lao
động, tạo ra mới liên hết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua các hợp
đồng gia công, cung cấp nguyên liệu. Khu vực kinh tế này mà phát triển sẽ dẫn dắt các
nghành công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài chính, ngân
hàng, cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ dân sinh phục vụ lao động trong các CCN. Đồng
thời, sẽ thu hút lao động di cư đến các vùng có CCN hình thành nên các đô thị, thành phố
công nghiệp và đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa.
1.1.2.4 Thúc đẩy ứng dụng khoa học-công nghệ
Phát triển CCN cùng với nó là quá trình ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản nước ngoài.
Với vai trò này sẽ giúp cho nền kinh tế không bị tụt hậu, đặc biệt là tụt hậu trong
sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới. Hầu
hết các nước đang phát triển đều muốn mau chóng phát triển khoa học công nghệ của
mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế của đất nước. Xây dựng CCN trong thời kỳ này
sẽ tao điều kiện áp dụng khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên
thế giới. Đối với các doanh nghiệp trong CCN, đây là yêu cầu tất yếu, cần thiết và có lợi
khi mà họ phát triển trong điều kiện ít vốn, trình độ lạc hậu.
Ngoài ra sự phát triển của CCN sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế tế thế giới, thúc đẩy
sự phát triển, phát huy tác dụng làm cầu nối lan tỏa và dẫn dắt nền kinh tế phát triển.
1.1.2.5 Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
Ở nước ta kế hoạch phát triển CCN thường đi kèm với các chính sách ưu đãi đầu
tư và các công trình hạ tầng sẵn có phục vụ thực hiện dự án. Vì vậy, các nhà đầu tư khi
đầu tư vào các CCN này thường được hưởng ưu đãi về thuế, chi phí…và hưởng các lợi
ích từ các công trình hạ tầng .
Đối với nhà đầu tư thì mục đích cao nhất là thu được lợi nhuận tối đa do đó khi
đầu tư vào CCN họ sẽ có cơ hội hạ thấp đến mức tối đa chi phí sản xuất, giảm giá thành,
nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được các nhu cầu thị trường, nâng cao hiệu quả
kinh tế cho doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.
1.1.3 Tác động của phát triển CCN trong phát triển kinh tế xã hội
1.1.3.1 Những tác động tích cực của phát triển CCN trong phát triển kinh tế
xã hội
Quá trình phát triển CCN có tác động tích cực đến các hoạt động kinh tế, xã hội và
môi trường của địa phương và khu vực. Điều đó được thấy rõ trên các mặt sau:
Thứ nhất, CCN tạo dựng các tiền đề cần thiết cho vấn đề phát triển kinh tế, trang
bị cơ sở vật chất cho CNXH như vốn tích lũy, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa hoc-kỹ thuật,
công nhân lành nghề và cán bộ quản lý kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà Nước.
Với việc tạo dựng các tiền đề nói trên, phát triển CCN đã tạo điều kiện tốt hơn để
phát triển công nghiệp nhanh và bền vững. Đây được xem là một giải pháp đồng bộ,
mang tính toàn diện giải quyết dồng thời các yêu cầu về vốn, lao động, KH-CN, trình độ
quản lý nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, phát triển CCN có tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tích cực, giúp hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn phù hợp với điều kiện
của địa phương.
Sự ra đời và phát triển của các CCN trong thời gian qua đã thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng CN-DV, giảm dần tỷ trọng NN. Đây chính là
xu hướng chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và quá trình đô thị hóa.
Bên cạnh đó, đối với cơ cấu theo thành phần sở hữu thì phát triển CCN làm tăng tỷ
trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó đầu tư nước ngoài là một nguồn lực
phát triển kinh tế đáng kể phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường.
Với các dự án đầu tư nước ngoài này thì các CCN có cơ hội tiếp nhận các dây
chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Điều này đã
giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đẩy nhanh sản xuất, giúp địa phương phát huy
được lợi thế so sánh góp phần phát triển và đa dạng hóa cơ cấu nghành nghề công nghiệp
và giúp Việt Nam tiếp thu, xây dựng các nghành kinh tế mũi nhọn, mang tính đột phá.
Đây cũng là nhân tố quan trọng góp phần để nước ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng đô thị hóa và hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ ba, phát triển CCN trong thời kỳ này cũng góp phần đẩy nhanh quá trình đô
thị hóa.
Quá trình phát triển CCN trong thời gian qua đã cho thấy, CCN làm cho tiến trình
đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ hơn. Bởi vì:
Một là phát triển CCN sẽ làm cho cơ sở hạ tầng trong và ngoài CCN được đầu tư
xây dựng và nâng cấp một cách đáng kể, từ đó hình thành nên các thị tứ, thị trấn, các
thành phố sầm uất với hệ thống điện, nước, giao thông phát triển, công trình phúc lợi hiện
đại
Hai là CCN phát triển sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Ba là phát triển CCN làm cho một lượng lao động lớn di chuyển từ khu vực NN
sang khu vực CN-DV phục vụ cả trong và bên ngoài các CCN. Các CCN phát triển kéo
theo cơ cấu lao động biến đổi. Lực lượng lao động trong nghành CN tăng lên, dẫn đến
nâng cao tỷ lệ công nhân và dân cư thành thị.
Thứ tư, trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống các CCN thì hệ thống
chính sách ngày càng phù hợp và hoàn thiện hơn. Bởi để phát triển CCN thì Nhà nước
phải đưa ra các chính sách tăng cường sức hút các nguồn lực cho phát triển. Ngoài ra, đây
chính là nơi thực hiện kiểm nghiệm tính đúng đắn của các cơ chế, chính sách của Đảng
và Nhà Nước Ví dụ như: cơ chế “mở cửa tại cỗ”, các chính sách về hoàn thiện thủ tục hải
quan, kiểm quan, hoạt động tài chính….
Thứ năm, phát triển CCN đồng thời sẽ kích thích phát triển các loại hình dịch vụ
trong và ngoài CCN. Sự phát triển của CCN tạo điều kiện cho sự xuất hiện các loại hình
dịch vụ như điện, nước, dịch vụ ngân hàng-tài chính, xử lý chất thải, dịch vụ kho bãi và
các dịch vụ cung ứng đảm bảo đời sống cho người lao động tại CCN. Và đây sẽ là điều
kiện tất yếu khách quan để thúc đẩy CCN ngày càng phát triển.
Thứ sáu, phát triển CCN tạo điều kiện giải quyết các vấn đề về môi trường.
Phát triển CCN tạo điều kiện di dời các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp ra khỏi
cộng đồng dân cư. Đặc biệt là việc di dời và tập trung các các đợn vị TTCN, nghề truyền
thống ra khỏi các làng nghề đúc đồng tới các khu tập trung. Điều đó giúp địa phương dễ
dàng thu gom chất thải và xử lý đúng cách tránh ô nhiễm môi trường. Đồng thời mỗi
CCN được xây dựng đều có hệ thống xử lý chất thải bảo vệ môi trường. đây là điều kiện
cho sự hình thành nên các đô thị theo hướng bền vững.
1.1.3.2 Những tác động tiêu cực của phát triển CCN
Thứ nhất, phát triển CCN có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng của tăng
trưởng kinh tế.
Điều này xảy ra khi mà các nguồn lực bị khai thác không phát huy hiệu quả mà
nguyên nhân là do sự phát triển một cách ồ ạt của các CCN, quy hoạch thiếu đồng bộ,
thiếu tầm nhìn chiến lược, buông lỏng công tác quản lý dẫn đến sự phân hóa giữa trong
và ngoài CCN về mọi mặt, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các CCN…
Khi khai thác và sử dụng các tài nguyên có lợi thế của địa phương không hợp lý,
làm xáo trộn tình hình kinh tế-xã hội của địa phương. Đặc biệt đối tượng chịu ảnh hưởng
nhiều nhất là những người khó khăn, nông dân mất đất sản xuất, thất nghiệp, thiếu trình
độ…Điều này sẽ gây ảnh hưởng tới an ninh lương thực và các vấn đề xã hội khác.
Thứ hai, phát triển CCN sẽ ảnh hưởng tới vấn đề di dân, an ninh, trật tự xã hội ở
nhiều vùng kinh tế. Khi mà CCN được xây dựng lên sẽ thu hút một lượng lớn lao động từ
khắp nơi di dân đến tạo thành một luồng di dân lớn. Chính điều này sẽ kéo theo hàng loạt
các vấn đề xã hội đảm bảo cuộc sống như điện, đường, trường, trạm…và cũng nảy sinh
nhiều tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trộm cắp…
Thứ ba, phát triển CCN sẽ ảnh hưởng tới ô nhiễm môi trường.
Về cơ bản khi mà tập trung quá nhiều doanh nghiệp với nhiều loại hình sản xuất
khác nhau thì cho dù CCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết và kiểm soát các tác
động xấu về môi trường thì nó vẫn gây ra một tác động nhất định đến môi trường. Thực
tế tại nhiều CCN nước thải, khói và chất rắn đã gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất,
không khí đối với vùng kinh tế đó, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, gây tổn hại về kinh
tế và gây bức xúc về mặt xã hội.
Do vậy đòi hỏi Nhà Nước và các cấp, các nghành có những chính sách cũng như
tổ chức tốt việc phòng chống ô nhiễm, nếu không sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến
đời sống, sức khỏe của người dân sống trong khu vực có CCN.
1.2 Lý luận về đô thị hóa
1.2.1 Quan niệm về đô thị hóa
Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những
năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với những sắc thái
khác nhau, làn sóng đô thị hóa tiếp tục lan rộng như là một quá trình kinh tế-xã hội toàn
thế giới-quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội;
mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hóa đô thị. Vì vậy, quá trình đô thị hóa
được xem như là một vấn đề quan trọng mang tính chất thời đại mà các quốc gia trên thế
giới đều tập trung nghiên cứu.
Theo tiến sỹ Guoming Wen (Trung Quốc), đô thị hóa là một quá trình chuyển đổi
mang tính lịch sử tư liệu sản xuất và lối sống con người từ nông thôn vào thành phố.
Thường quá trình này được nhìn nhận như là sự di cư của nông dân nông thôn đến các đô
thị và quá trình tiếp tục của bản thân các đô thị. Ông cũng cho rằng trong thực tế đô thị
hóa là một quá trình phức tạp hơn nhiều bởi tiến trình này đã bộc lộ không ít dấu hiệu của
tình trạng quá nóng và những vấn đề tìm ẩn, như áp lực gia tăng với việc làm và an ninh
xã hội, tình trạng bong bóng xà phòng trong lĩnh vực bất động sản buộc chính phủ Trung
Quốc phải hãm phanh xu hướng này thông qua việc xem xét một cách cẩn trọng và từng
bước kiểm soát đối với quá trình đô thị hóa [8].
Theo tiến sỹ Jung Duk (Hàn Quốc) cho rằng đô thị hóa là sự gia tăng dân số chủ
yếu từ nông thôn ra thành thị mà trước đây, thế hệ trẻ rời bỏ nông thôn với mục đích tìm
kiếm việc làm, cơ hội giáp dục và những thú vui, tiện nghi nơi đô thị, trong giai đoạn ban
đầu công nghiệp hóa (1967-1975) [8].
Ở Việt Nam quá trình đô thị hóa tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại với sự
hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều nguyên nhân khác nhau mà quá trình
đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp.
Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô thị hóa ở Việt Nam với
sự kiện Quốc Hội Việt Nam ban hành Luật Doanh Nghiệp (2000), luật đất đai (2003),
luật đầu tư (2005), Chính phủ ban hành về Nghị định về Quy chế KCN, KCX (1997)…đã
làm cho nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế tăng lên, gắn theo đó là sự ra đời ồ ạt
của các KCN, CCN, đô thị mới và kết cấu hạ tầng ngày càng được cải thiện ở cả thành thị
và nông thôn.
Ở nước ta đô thị hóa được xem là quá trình phát triển, mở rộng mạng lưới đô thị,
gắn với quá trình tăng trưởng và phát triển về không gian, dân số đô thị và tăng trưởng
kinh tế theo hướng phi nông nghiệp, nó được tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số dân đô thị
hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực (gọi là mức
độ đô thị hóa) hoặc được tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian (tốc độ
đô thị hóa).
Như vậy có nhiều khái niệm khác nhau về đô thị hóa nhưng giữa các khái niệm
đều thống nhất ở chỗ:
Một là sự tăng lên của dân cư thành thị. Sự tăng lên này theo các dòng chính: sự
tăng dân số tự nhiên của dân cư đô thị, dòng di cư từ nông thôn ra thành thị và điều chỉnh
về biên giới lãnh thổ hành chính của đô thị. Ba dòng này có vai trò và vị trí khác nhau
theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Hai là, đô thị hóa mở rộng không gian đô thị, không gian kiến trúc. Mở rộng
không gian đô thị là một tất yếu đối với các đô thị trên thế giới trong quá trình đô thị hóa.
Đó cũng có thể là đô thị sát nhập vào đô thị hoặc đô thị hóa mở rộng ra ngoại thành hoặc
lân cận. Mở rộng không gian đô thị cũng mang tính chất lịch sử, tùy quan niệm của mỗi
quốc gia.
1.2.2 Tính tất yếu của đô thị hóa
Ở bất kỳ quốc gia nào dù là nước phát triển hay đang phát triển, khi thực hiện
chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, thực hiện chiến lược CNH,
HĐH đều phải gắn liền với đô thị hóa. Đây được xem như là một quy luật tất yếu của nền
kinh tế thế giới.
Trong lịch sử cận đại thì đô thị hóa trước hết là hệ quả trực tiếp của quá trình CNH
TBCN và sau này là kết quả của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa:
tăng tỷ trọng ngành CN-DV, giảm tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư-nghiệp.
Thực tiễn đã chứng minh nhiều quốc gia trên thế giới trước khi phát triển hiện đại
như hiện nay đều tiến hành đô thị hóa để tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, kết cấu
hạ tầng xã hội vững chắc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Như vậy đô thị hóa là một quá trình khách quan, phù hợp với đặc điểm tình hình
chung của mỗi quốc gia và là một quá trình mang tính lịch sử toàn cầu và không thể đảo
ngược của sự phát triển xã hội, là mục tiêu chung của nền văn minh thế giới.
1.2.3 Đặc điểm của đô thị hóa
Đô thị hóa mang tính xã hội và lịch sử, là sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng
cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị.
Đô thị hóa gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế-xã hội của đô thị và
nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông, vận tải, xây dựng, dịch vụ…do
vậy đô thị hóa không thể tách rời chế độ kinh tế-xã hội.
Đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá trình phát triển
nông thôn và phổ biến lối sống thành thị cho nông thôn. Thực chất của quá trình này là
tăng trưởng đô thị theo hướng bền vững.
Đô thị hóa ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do
kết quả phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng…tạo ra các cụm đô thị nhằm đẩy nhanh
quá trình đô thị hóa nông thôn.
Đô thị hóa giả tạo là sự phát triển của thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và
dân cư từ các vùng khác tới đặc biệt là từ nông thôn…dẫn đến thất nghiệp, thiếu nhà ở,
giảm chất lượng cuộc sống, ô nhiễm môi trường…
1.3 Mối quan hệ giữa phát triển CCN và quá trình đô thị hóa
1.3.1 Các nhân tố tác động đến việc phát triển CCN trong tiến trình đô thị
hóa
Thứ nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất
Trong quá trình hình thành và phát triển CCN cũng như trong tiến trình đô thị hóa
luôn luôn có sự tác động mạnh mẽ của sự phát triển của LLSX. Đây là nhân tố cơ bản
nhất của phát triển kinh tế xã hội. Bởi sự phát triển của LLSX với mức độ nhất định đã
quy định sự vận động đi lên của xã hội, tạo ra sự chuyển tiếp từ phương thức sản xuất này
sang phương thức sản xuất khác quy định trình độ của từng yếu tố bên trong của phương
thức sản xuất đó.
Biểu hiện của trình độ của LLSX là trình độ kỹ thuật và năng suất của tư liệu sản
xuất, ở trình độ lành nghề và tri thức chung của người lao động, ở trình độ phát triển của
khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng chúng trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất.
Sự phát triển LLSX trong CCN về thực chất là quá trình chuyển giao phương thức
sản xuất, từ việc manh nhún, nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, có năng suất cao. Và thưc
chất của quá trình đô thị hóa chuyển từ xã hội nông thôn sang xã hội công nghiệp, chuyển
từ phương thức sản xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuất phi nông nghiệp. Vậy
khi phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa thì vấn đề đặt ra ở đây là trình độ của
LLSX có theo kịp hay không, các yếu tố của LLSX có phát triển kịp để đáp ứng các yêu
cầu dặt ra hay không.
Thứ hai, là sự phát triển của KH-CN
Trong những năm gần đây, sự phát triển của KH-CN diễn ra với tốc độ ngày càng
nhanh, chu kỳ sống của một công nghệ ngày càng bị rút ngắn. Đối với nước ta là một
nước nông nghiệp sản xuất manh nhún, nhỏ lẻ, trình độ KH-CN lạc hậu, chưa có nền sản
xuất hiện đại. Việc thực hiện tiến trình đô thị hóa đòi hỏi cần phải đẩy nhanh quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp. Điều này có
quan hệ mật thiết với sự phát triển KH-CN, bởi KH-CN là lực lượng sản xuất trực tiếp và
hàng đầu của nền kinh tế toàn cầu.
Đối với CCN việc áp dụng các dây chuyền công nghệ mới với công suất lớn và
hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao năng suất và đẩy nhanh quá trình
tập trung sản xuất. Và ngược lại việc phát triển các CCN sẽ tạo điều kiện thúc đẩy và đổi
mới công nghệ, đưa công nghệ vào phục vụ sản xuất. Do vậy giữa KH-CN và CCN có
mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển nhằm đẩy nhanh quá trình
đô thị hóa.
Thứ ba là tính đa dạng của sản phẩm hàng hóa
Đối với nước ta khi thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thì quá trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản
xuất là xu hướng tất yếu. Vì vậy, để thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất đòi hỏi phải
tuân thủ các quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, đó là đẩy mạnh, phân công
lại lao động xã hội, đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức
tổ chức kinh tế.
Đây chính là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường mà việc thành lập và
phát triển CCN cần tuân theo để tránh chủ quan, áp đặt trong việc phát triển sản xuất. Để
thực hiện điều này, trong các CCN cần phải đa dạng hóa các sản phẩm sản xuất, các hình
thức mẫu mã sản phẩm và các hình thức sở hữu trong CCN. Đến lượt nó, chính sự đa
dạng của các sản phẩm hàng hóa sẽ tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của CCN và
quá trình đô thị hóa.
Thứ tư là vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước với các chính sách vĩ mô.
Chính sách là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rộng lớn hơn
các quyết định tác nghiệp, đó là những quyết định chung, hướng dẫn đối tượng quản lý
thực hiện mục tiêu quản lý.
Để thực hiện mục tiêu phát triển CCN mỗi địa phương đều có các chính sách riêng
cho việc xây dựng và phát triển các CCN. Đó là các quyết định về công tác quy hoạch
phát triển CCN, các quyết định về thu hút đầu tư, tạo lập môi trường phù hợp với phát
triển kinh tế của địa phương, đảm bảo sự phân bố hợp lý về lực LLSX, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chủ
trương đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo mục tiêu đề ra.
Trong quá trình xây dựng và phát triển CCN thì vai trò của Nhà Nước thể hiện ở
ba chức năng là hoạch định, điều hành và tham gia trực tiếp vào đó. Mặc dù CCN có thể
do Nhà nước hoặc tư nhân sở hữu nhưng nó đều là đối tượng quản lý của Nhà nước. Vai
trò này của Nhà nước được thực hiện trên cơ sở chiến lược kinh tế-xã hội chung và chiến
lược phát triển công nghiệp của đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, quy mô và
tốc độ phát triển của các CCN trong tiến trình đô thị hóa ở các địa phương trên cả nước.
Thứ năm, bên cạnh các yếu tố vĩ mô trên thì việc hình thành và phát triển CCN
còn chịu tác động của các yếu tố vi mô liên quan đến đơn vị kinh doanh hạ tầng và doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trong CCN. Bao gồm:
Một, chất lượng dự án và tiến độ công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong
CCN của đơn vị kinh doanh hạ tầng.
Hai, trình độ công nghệ, lĩnh vực và quy mô, tiến độ triển khai các dự án sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp trong CCN.
1.3.2 Sự cần thiết phải phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa
Sự cần thiết phải phát triển CCN trong tiến trình đô thị hóa là một yêu cầu khách
quan trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. Đó là vì:
Thứ nhất đô thị hóa là kết quả tất yếu của sự phát triển KT-XH, nó diễn ra cùng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Nhịp độ của đô thị hóa phụ thuộc vào trình độ phát triển của KT-XH và đồng thời quá
trình đô thị hóa cũng tác động trở lại quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ hai phát triển CCN nhằm tạo đà tăng trưởng công nghiệp, tăng nguồn hàng
xuất khẩu, tạo việc làm, từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát,
phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô
nhiễm môi trường. Đồng thời thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ
sở cho việc phát triển đô thị công nghiệp, phân bố hợp lý LLSX và đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đô thị hóa.
Như vậy giữa phát triển CCN và quá trình đô thị hóa có mối quan hệ biện chứng
tác động qua lại lẫn nhau. Điều này được thể hiện ở các mặt sau:
Một là phát triển CCN góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đô thị hóa, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện để hình thành các đô thị mới, cải thiện kết cấu hạ tầng, nâng
cao đời sống nhân dân và nhất là tập trung dân cư từ đó hình thành nên quá trình đô thị
hóa.
Hai là quá trình đô thị hóa sẽ thúc đầy các CCN phát triển, được mở rộng và gia
tăng sản xuất. Bởi khi mà quá trình đô thị hóa diễn ra sẽ kéo theo việc hình thành những
trung tâm về khoa học công nghệ, vốn, nguồn nhân lực cho các địa phương, vùng và khu
vực, tạo điều kiện cho CCN có thể tận dụng được các lợi thế sẵn có để tiếp tục phát triển
mở rộng.
1.4 Kinh nghiệm phát triển cụm công nghiệp ở một số địa phương
1.4.1 Kinh nghiệm phát triển CCN của huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam
Đại Lộc nằm về phía tây bắc Quảng Nam, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 25
km về phía tây nam, cách sân bay Chu Lai, cảng Kỳ Hà, khu kinh tế mở Chu Lai gần 120
km về phía nam, nằm trên trục hành lang kinh tế Đông-Tây, nối các tỉnh Tây Nguyên,
của khẩu quốc tế Bờ Y-Kon Tum, Đắc Tà Oóc-Nam Giang về thành phố Đà Nẵng và các
tỉnh duyên hải miền Trung.
Kể từ khi có chủ trương phân cấp quy hoạch, quản lý điều hành phát triển các
CCN của tỉnh Quảng Nam thì huyện Đại Lộc đã nhanh chóng quy hoạch mạng lưới các
CCN trên địa bàn và đây được xem là địa phương phát triển kinh tế-xã hội theo mô hình
CCN thành công nhất ở Quảng Nam.
Đến năm 2011 toàn huyện Đại Lộc có 18 CCN vừa và nhỏ, với tổng diện tích 875
ha, Đại Lộc đã tiến hành quy hoạch và phê duyệt chi tiết 12 CCN với quy mô 276 ha, thu
hút được 36 dự án, với tổng vốn đăng ký là 3.630 tỷ đồng; trong đó có 2 sự án FDI
(100% vốn nước ngoài). Hiện đã có 19 dự án đi vào sản xuất ổn định và hoạt động khá
hiệu quả; 6 dự án đang đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng; 3 dự án đang triển khai giải
phóng mặt bằng, 8 dự án thõa thuận địa điểm đầu tư.
Tổng vốn đầu tư của 28 dự án đã thực hiện đến năm 2011 đạt 2.845 tỷ đồng chiếm
74% tổng vốn đăng ký. Đại Lộc đã và đang xúc tiến các hoạt động đầu tư vào các lĩnh
vực như: xây dựng và kinh doanh khu du lịch cao cấp, khu vui chơi giải trí; đầu tư xây
dựng và kinh doanh đô thị mới; các dự án thuộc lĩnh vực tài chính-ngân hàng…
Như vậy, với việc chọn triển khai đầu tư phát triển CCN của Đại Lộc trong những
năm qua là chủ trương đúng đắn phù hợp với thực tiễn ở địa phương, từng bước giải
quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và góp phần thay đổi diện mạo của Đại Lộc
vốn trước đây là một huyện thuần nông. Với thực tiễn hình thành và phát triển CCN trong
những năm qua của huyện Đại Lộc những kinh nghiệm rút ra là:
Một là, coi trọng công tác quy hoạch phát triển các CCN. Có sự phối hợp đồng bộ
giữa các cơ quan với nhau để đẩy nhanh tiến độ thành lập và xây dựng CCN. Quy hoạch
tổng thể và quy hoạch chi tiết các CCN trong từng giai đoạn mang tính ổn định cao, gắn
quy hoạch CCN của địa phương với quy hoạch phát triển chung của tỉnh.
Hai là, coi trọng việc thu hút đầu tư vào các CCN một cách hợp lý, đa dạng các
hình thức đầu tư vốn như từ ngân sách nhà nước, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư vào CCN như: công bố đầy đủ
các thông tin để các nhà đầu tư nắm rõ; rút ngắn thời gian thực hiện và cải cách các thủ
tục hành chính, trợ giúp tốt nhất cho các nhà đầu tư yên tâm dầu tư vào CCN; hỗ trợ chi
phí cho các nhà đầu tư….
Ba là, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thu hồi đất và giải quyết việc làm
cho người dân sau khi thu hồi đất. Đưa nông dân vào làm việc trong các CCN, ưu tiên
giải quyết việc làm cho người dân địa phương.
Bốn là huyện luôn gắn kết và giải quyết các vấn đề phát triển CCN với các mục
tiêu, kế hoạch phát triển KT-XH của huyện cũng như của tỉnh. Giải quyết một cách hài
hòa các mối quan hệ giữa phát triển CCN lợi ích của nhân dân, của địa phương và lợi ích
của nhà đầu tư [3].
1.4.2 Kinh nghiệm phát triển CCN của tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền trung, phía
Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng và Quảng Nam. Thừa Thiên Huế nằm trên
trục hành lang kinh tế Đông Tây nối Thái Lan, Việt Nam, Lào theo đường số 9. Đây là
lợi thế giúp cho tỉnh Thừa Thiên Huế thuận lợi trong giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa
với các địa phương trong và ngoài nước.
Đến năm 2011 toàn tỉnh đã phê duyệt quy hoạch tổng thể được 16 CCN và hiện đã
có 5 CCN đã được thành lập và trong đó có 3 cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động với
diện tích là 109,9 ha. Đa số các CCN ở tỉnh này đều là CCN vừa và nhỏ tuy nhiên trong
đó vẫn có CCN Thủy Phương đã được xây dựng với quy mô lên đến 134,09 ha trong khi
quy chế quản lý của Thủ Tướng chính phủ đã quy định CCN có quy mô diện tích không
quá 75 ha.
Tổng vốn đầu tư của CCN đến năm 2011 đạt 600,76 tỷ đồng trong đó chủ yếu là
hoạt động sản xuất của các DN tư nhân, giải quyết việc làm cho hơn 2.300 lao động tại
địa phương với mức lương tối thiểu là 2 triệu đồng/1 tháng/1 người.
Với thực trạng phát triển như vậy thì bài học của Thừa Thiên Huế là:
Một là thực hiện tốt công tác quy hoạch và phát triển CCN, kết hợp gữa quy hoạch
phát triển CCN của cả nước với quy hoạch phát triển của tỉnh, giữa chỉ tiêu KT-XH của
cả nước với chỉ tiêu của tỉnh.
Hai là đối với công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật và giải phóng mặt bằng thì tỉnh
đã ban hành các chính sách ưu đãi như:
Về hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư xây dựng và
kết cấu hạ tầng trong các CCN, UBND tỉnh khuyến khích nhà đầu tư ứng trước kinh phí
bồi thường để thực hiện dự án, sau đó khoản kinh phí này được trừ vào tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất nộp cho ngân sách nhà nước.
Về xây dựng hạ tầng khu tái định cư cho người dân sau khi thu hồi đất, tỉnh hỗ trợ
đầu tư toàn bộ hạ tầng khu tái định cư. Trong trường hợp nhà đầu tư đã ứng trước kinh
phí để thực hiện xây dựng hạ tầng khu tái định cư thì được tỉnh hoàn trả ngay sau khi
thực hiện xong công tác tái định cư.
Tỉnh đã hỗ trợ các công trình kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào cho các dự án đầu tư
xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, CCN. Về giao thông, tỉnh hỗ trợ xây dựng
công trình giao thông và công trình trên tuyến từ trục chính đến chân hàng rào dự án. Cụ
thể, các dự án đầu tư vào huyện Nam Đông và A Lưới được hỗ trợ 100% giá trị dự toán,
các dự án đầu tư vào địa bàn các huyện Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền, Phong Điền,
Phú Lộc được hỗ trợ 60% giá trị dự toán ngay sau khi dự án triển khai hoàn thành công
tác xây lắp trên thực địa. Về điện, nước, viễn thông phục vụ sản xuất, UBND tỉnh chỉ đạo
các ngành đầu tư toàn bộ đến chân hàng rào dự án. Đối với các công trình hạ tầng điện
phục vụ trong giai đoạn thi công dự án, nguồn kinh phí thực hiện do nhà đầu tư ứng trước
và được tỉnh hoàn trả 100% ngay sau khi dự án triển khai công tác xây lắp trên thực địa.
UBND tỉnh giảm giá thuê đất cho các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết
cấu hạ tầng trong các KCN và CCN. Các dự án này được thuê đất với mức đơn giá thấp
nhất theo công bố giá đất hàng năm của UBND tỉnh và được miễn tiền thuê đất 11 năm
kể từ ngày hoàn thành, đưa dự án vào hoạt động.
Với những chính sách ưu đãi đó, các hệ thống hạ tầng kỹ thuật như: đường giao
thông, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, viễn thông đến bên ngoài hàng rào các KCN,
CCN đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Tạo điều kiện để các CCN nhanh chóng
được thành lập và đi vào hoạt động.
Ba là, với công tác thu hút đầu tư và cho thuê lại đất công nghiệp trong các CCN
thì tỉnh đã có các chính sách như sau:
Để thu hút đầu tư, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế dã ban hành Quyết định số
1130/2008/QĐ–UBND và Quyết định 1337/2009/QĐ–UBND. Trong đó, tỉnh đã quy
định các chính sách ưu đãi cụ thể khi đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội
khó khăn và các CCN.
Tỉnh đã giảm giá thuê đất so với giá đất do UBND tỉnh ban hành hàng năm cho
các dự án đầu tư vào các CCN. Cụ thể là so với giá đất do UBND tỉnh ban hành hàng
năm, đơn giá thuê đất một năm tại thành phố Huế được tính bằng 0.65%, đơn giá thuê đất
một năm tại huyện Hương Thuỷ được tính bằng 0.50%, đơn giá thuê đất một năm thuộc
các huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc được tính bằng
0.35% (đối với đất tại các xã) và 0.50% (đối với đất tại các thị trấn), đơn giá thuê đất một
năm thuộc các huyện: Nam Đông, A Lưới được tính bằng 0.25% (đối với đất tại các xã)
và 0.35% (đối với đất tại các thị trấn). Bên cạnh đó, tỉnh có chính sách ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Như vậy, chính nhờ vào những chính sách ưu đãi như vậy mà số lượng các dự án
đầu tư vào các CCN trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng.
Bốn là, nhận thấy được vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các CCN.
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định số 09/2010/QĐ–UBND, ngày
10/3/2010 về việc ban hành Quy chế phối hợp quản lý nhà nước đối với các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Quyết định này quy định một số nội dung hoạt
động phối hợp về quản lý nhà nước trong các KCN của tỉnh trên các lĩnh vực: đầu tư; quy
hoạch và xây dựng; đất đai và bồi thường giải phóng mặt bằng; quản lý môi trường; khoa
học và công nghệ; lao động; an ninh trật tự, phòng cháy, chữa cháy; tài chính; thanh tra,
kiểm tra giữa Ban Quản lý các KCN tỉnh với các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh và
UBND các huyện, thành phố Huế.
Bên cạnh đó tỉnh đã thành lập các ban quản lý CCN theo chủ trương của bộ công
thương, đối với các CCN nhỏ thì huyện trực tiếp quản lý. Chính điều này đã phân cấp
quản lý cho các CCN đối với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong
CCN, nhanh chóng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình hoạt động của
CCN[14].
1.4.3 Kinh nghiệm phát triển cụm công nghiệp của Nghệ An
Nghệ An là tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, với diện tích 16.470 km2, dân số hơn
hơn 2,9 triệu người, là đầu mối trung tâm của vùng, nằm trên trục giao thông chính nối
liền Bắc - Nam, có hệ thống giao thông phát triển, đường bộ, đường sắt xuyên quốc gia;
có 3 tuyến quốc lộ sang nước bạn Lào: quốc lộ 46 nối với của khẩu Thanh Thủy, quốc lộ
7 nối với cửa khẩu Nậm Cắn, quốc lộ 48 nối với của khẩu Thông Thụ, có sân bay phục
vụ cho cả khu vực Bắc miền trung với 5 chuyến bay/ngày đi Thành phố Hồ Chí Minh, 2
chuyến/ngày đi Hà Nội; Cảng biển Cửa Lò cách thành phố Vinh 14km, đã có 4 bến cho
tàu 1 vạn tấn ra vào. Cảng nước sâu Cửa Lò đã được khởi công xây dựng cho tàu 3-5 vạn
tấn ra vào. Cảng Đông Hồi đang chuẩn bị khởi công xây dựng phục vụ cho tàu 3-5 vạn
tấn. Hệ thống giao thông tỉnh lộ, các tuyến đường lớn nối 3 vùng kinh tế trọng điểm đã và
đang được xây dựng, tạo thuận lợi cho phát triển các cụm công nghiệp và phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
Đến năm 2011 toàn tỉnh Nghệ An có 14 CCN đã phê duyệt dự án đầu tư hạ tầng
kỹ thuật và đang hoạt động; có 10 CCN đã được phê duyệt dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật
và đang thực hiện đầu tư xây dựng. Có 7 CCN đã lập quy hoạch chi tiết xây dựng và
được phê duyệt.
Đối với 14 CCN đang hoạt động: tổng diện tích quy hoạch là 185,8 ha, trong đó
diện tích giành cho sản xuất công nghiệp 141 ha, chiếm xấp xỉ 75%; Tổng số vốn đầu tư
theo dự án phê duyệt 544,2 tỷ đồng; đã thu hút 113 dự án đầu tư chủ yếu là các lĩnh vực
như chế biến khoáng sản, lâm sản, may dệt kim, gia công cơ khí, tái chế kim loại, tái chế
và sản xuất sản phẩm nhựa, sản xuất bao bì; loại hình doanh nghiệp và mức đầu tư chủ
yếu là quy mô nhỏ và vừa và tổng mức đầu tư các doanh nghiệp cụm công nghiệp đạt
1.913 tỷ đồng, bình quân 15-20 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Năm 2011 giá trị sản xuất của các doanh nghiệp CCN đạt xấp xỉ 1.000 tỷ đồng
chiếm 12 % giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Thu ngân sách tại các doanh nghiệp
cụm công nghiệp đạt khoảng 75 tỷ đồng.
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thành công trong việc hình thành và phát
triển các CCN của tỉnh Nghệ An trong thời gian qua là:
Một là tỉnh Nghệ An đã sớm nhận thức được vai trò của CCN trong việc thu hút
đầu tư để phát triển công nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế, đẩy nhanh quá trình đô thị
hoá ở các huyện, thành phố, thị xã; tạo điều kiện khai thác các tiềm năng và các nguồn