Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Nâng cao năng lực xuất khẩu gạo việt nam trong giai đoạn hiện nay”,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.28 KB, 42 trang )


LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng hội nhập và liên kết kinh tế thế giới hiện nay là xu hướng tất yếu
của tất cả các nền kinh tế. Trải qua hơn 25 năm đổi mới và hội nhập kinh tế thế
giới, Việt Nam đạt được nhiều những thành tựu to lớn về kinh tế. Thắng lợi về sản
xuất và xuất khẩu gạo là một trong những thắng lợi to lớn của nước ta.Điều đó có
được là nhờ tầm nhìn sáng suốt về lợi thế cùng những chính sách phát triển nông
nghiệp nông thôn và chính sách xuất nhập khẩu của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, tình hình về xuất nhập khẩu đã có nhiều biến đổi đặc biệt là khi
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Kinh tế Thế giới WTO. Đồng
nghĩa với việc Việt Nam phải tham gia vào các điều khoản kinh tế thế giới, tham
gia vào thị trường rộng lớn hơn, đẳng cấp cao hơn và phẳng hơn đòi hỏi trình độ
kinh doanh, kinh nghiệm quản lí, tổ chức thực hiện cao trong khi Việt Nam vẫn
còn là nền kinh tế non trẻ. Đặc biệt là trong vấn đề xuất nhập khẩu.Các hàng rào
thuế quan gần như được bãi bỏ hoàn toàn, thay vào đó là những hàng rào phi thuế
quan, các hàng rào kĩ thuật, hàng rào văn hóa xã hội….
Xuất khẩu gạo nước ta trong hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu
vô cùng to lớn. Từ một nước sản xuất trì trệ nền nông nghiệp lạc hậu, nhận viện trợ
lương thực.Việt Nam đã vươn lên không chỉ đảm bảo an ninh lương thực trong
nước mà còn xuất khẩu trở thành nước xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới.Kim ngạch
xuất khẩu lớn và tăng nhanh chóng qua các năm.Đó là những điều thật tự hào.Tuy
vậy ,nhìn vào thực tế xuất khẩu gạo nước ta còn nhiều điều bất cập.Trong đó vấn
đề được nói nhiều nhất là sản lượng xuất khẩu chưa tương xứng với giá trị xuất
khẩu, chất lượng gạo Việt Nam thấp so với một số nước như Thái Lan,
1
Singapo….Bên cạnh đó vấn đề cạnh tranh về thị trường, cạnh tranh về giá bán
ngày càng gay gắt hơn đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải có chiến lược khôn
ngoan, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn của mình thì mới có thể cạnh
tranh và có hiệu quả được
Với đề tài: “Nâng cao năng lực xuất khẩu gạo Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, em xin được đưa ra một số thực trạng xuất khẩu gạo, phân tích cơ sở lí luận


và thực tiễn đồng thời đưa ra giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu gạo Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Cấu trúc của đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu gạo Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp xuất khẩu gạo Việt Nam định
hướng đến năm 2020
Em xin được cảm ơn các thầy(cô) đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này và
em mong nhận được những đóng góp quý báu của các thầy(cô) để đề tài của em
được hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cám ơn
Sinh viên thực hiện
Trần Thanh Bình
2
NỘI DUNG
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu gạo Việt Nam
1.1. Thực chất của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa của thương nhân trong nước với
thương nhân nước ngoài nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội
khác.
Cơ sở của hoạt động của xuất khẩu là trao đổi hàng hóa dịch vụ. Mục đích
của xuất khẩu là việc tận dụng lợi thế so sánh của từng vùng, từng quốc gia trong
chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế để nhằm tìm kiếm lợi ích cho các
quốc gia xuất khẩu.
Hàng hóa trong xuất khẩu đa dạng từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến
tư liệu sản xuất máy móc trang thiết bị. Hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng tốt đối
với các hàng rào quốc tế tại thị trường xuất khẩu đồng thời cũng phải am hiểu các
nghiệp vụ giao nhận, nghiệp vụ vận tải, thanh toán, bảo hiểm hàng hóa….
Các loại hình xuât khẩu chính:

- Xuất khẩu trực tiếp: Là phương thức buôn bán quốc tế người bán và người
mua tự thiết lập quan hệ và thỏa thuận các điều kiện mua bán.
- Xuất khẩu gián tiếp: Là phương thức buôn bán quốc tế người mua và người
bán phải thông qua người thứ ba để thiết lập quan hệ và các thỏa thuận mua bán.
Người thứ 3 là các trung gian thương mại.
3
- Xuất nhập khẩu đối lưu: Phương thức giao dịch xuất khẩu gắn liền với
nhập khẩu và ngược lại. Người bán đồng thời cũng là người mua.
- Phương thức tái xuất, chuyển khẩu: Xuất khẩu hàng hóa nhập khẩu nhưng
không chế biến.
- Một số loại hình khác: đấu thầu quốc tế, đấu giá quốc tế, gia công quốc
tế….
1.2. Đặc điểm của thị trường xuất khẩu gạo
- Thị trường có tính thời vụ
Xuất khẩu gạo phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố thời vụ của
sản xuất có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.Hai
khu vực đóng góp chủ yếu trong sản lượng gạo hàng năm của Việt Nam là Đồng
bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.Hai vựa lúa này hàng năm đóng
góp từ 33-34 triệu tấn thóc mỗi năm.Ở miền Bắc có hai vụ chính là vụ mùa và vụ
chiêm. Ở miền Nam, nông dân có ba vụ lúa :vụ đông xuân, vụ hè thu và vụ ba.
Đặc tính cố hữu của sản xuất này đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn
riêng cho các doanh nghiệp trong việc đảm bảo lượng hàng hóa cho xuất khẩu đặc
biệt là công tác thu mua và bảo quản, tuy nhiên doanh nghiệp cũng có thuận lợi là
sẽ thu mua được khối lượng lớn, giá sẽ rẻ hơn.Doanh nghiệp từ căn cứ thu mua mà
sẽ có các phương án xuất khẩu phù hợp với tình hình -thực tế tránh bị ép giá lúc
thừa hay thiếu.
- Các nước lớn đóng vai trò chi phối xuất khẩu gạo thế giới
Trong giai đoạn hiện nay một số nước đóng vai trò quan trọng trong xuất
khẩu gạo thế giới và có những ảnh hưởng tới thị thị trường như: Thái Lan, Việt
4

Nam, Ấn Độ, Mỹ. Pakistan….Bất kì một động thái nào từ các nước như :mất mùa,
được mùa, chính sách an ninh lương thực quốc gia, chính sách giá thu mua áp
đặt….có thể ảnh hưởng rất lớn tới giá gạo thế giới, cung cầu tiêu dùng và rất nhiều
ngành khác.
Cạnh tranh giữa các nước có tiềm lực là rất lớn tại các thị trường đặc biệt là
các thị trường có tiềm năng phát triển lớn như: Trung Quốc, Philiphin, Indonesia,
các nước Châu Phi….Việc Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch giải tỏa 3 riệu tấn gạo
vào cuối năm 2001 là một ví dụ để gây sức ép với thị trường gạo thế giới.Cuối
tháng 3-2000, Indonesia đã quyết định ngừng nhập khẩu gạo chính ngạch cũng đã
tạo những biến động không nhỏ tới giá gạo nói chung.Tuy nhiên, độ nhạy cảm của
thị trường gạo còn phải phụ thuộc vào lượng dự trữ toàn cầu và của từng nước
cũng như tỷ giá giữa gạo và các loại lương thực thay thế như lúa mì, ngô….
- Trong mậu dịch gạo thế giới, có rất nhiều loại gạo khác nhau của các
nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo , tuỳ
thuộc chất lượng, phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể phù
thuộc vào các tiêu chuẩn cụ thể về chọn giá quốc tế mà trong nhiều thập kỷ qua,
người ta vẫn lấy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan làm giá gạo quốc tế. Vì gạo có
rất nhiều loại nên khi nói giá gạo xuất khẩu thường nói rõ cấp loại nào (5% tấm,
10% tấm…) vào điều kiện giao hàng nào (FOB. CIF,C&F…)
Tuy có giá gạo quốc tế nhưng giá gạo của một cấp gạo cụ thể, giữa các
nước xuất khẩu là không đồng nhất: như giá gạo của việt nam thường thấp hơn
của Thái Lan hoặc của một số nước khác mặc dù cùng cấp. Điều này là do chất
lượng của từng loại, do uy tín sản phẩm , do điều kiện tự nhiên, nguồn giống tạo
nên loại gạo đó.
- Buôn bán gạo giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu
5
Buôn bán gạo đạt được sự ổn định rất cao là do buôn bán giữa các chính
phủ. Nguyên nhân là do:
Thứ nhất: nhằm thực hiện các chính sách an ninh lương thực quốc gia,
đảm bảo lương thực tiêu dùng trong nước. Buôn bán được kí kết giữa các Chính

phủ thông qua các hiệp định, các hợp đồng có tính nguyên tắc, dài hạn, định
lượng cụ thể hàng năm vào các niên vụ.
Thứ hai: một số nước xuất khẩu gạo nhằm mục đích chính trị bằng các kí
kết viện trợ ,cho không, bán chịu dài hạn….Mỹ là quốc gia sử dụng hình thức
này như một chiến lược ngoại giao nhằm tăng cường sự phụ thuộc của các nước
khác vào nước mình trong quan hệ quốc tế.Tương tự như vậy,EU thường nhập
khẩu gạo để cung cấp miễn phí cho các nước châu Phi để đổi lại các điều kiện
kinh tế khác.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo
- Nhân tố thị trường
Nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn và chi phối đối với hoạt động
xuất khẩu gạo của mỗi quốc gia.Trong đó, có thể xem xét đến các yếu tố cơ bản
sau đây
+ Biến động về cung cầu thị trường
Gạo là một hàng hóa thiết yếu, cũng giống như các hàng hóa khác nó
cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu….Khi thu nhập tăng lên thì
cầu về số lượng gạo giảm xuống nhưng cầu về gạo chất lượng cao tăng lên, cầu
về gạo kém chất lượng giảm xuống do đó tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng
thu nhập vẫn tăng lên.
Cung gạo trên thị trường cũng là một nhân tố quan trọng. Các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu nên tìm hiểu kĩ về thị trường xuất khẩu, giá cả, thị
hiếu sử dụng ….đồng thời đánh giá được những điểm mạnh , điểm yếu của mình
6
cũng như đối thủ cạnh tranh để có chiến lược khôn ngoan nhất.Trên thị trường
xuất khẩu gạo mức co dãn cầu thường rất ít so với mức co giãn về giá, do vậy
các doanh nghiệp phải có chiến lược thu mua bảo quản hợp lí, nếu để lượng dự
trữ quá cao có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp.
+ Biến động về giá cả: Giá cả là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự
cân bằng cung cầu trên thế giới.Tuy sự biến động giá cả là không lớn nhưng xuất
khẩu gạo thì xuất với khối lượng rất lớn. Trung bình xuất khẩu gạo của Việt

Nam là 4-5 triệu tấn.Một sự biến đông giá nhở cũng có thể ảnh hưởng rất lớn tới
tổng giá trị xuất khẩu.Bên cạnh đó, các loại gạo chất lượng đặc sản thường có
giá biến động khá lớn.
- Các chính sách vĩ mô
Nhóm nhân tố này thể hiện sự tác động của Nhà nước tới hoạt động xuất
khẩu gạo và các hoạt động liên quan
+ Nhóm các chinh sách xuất nhập khẩu
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia thị
trường xuất khẩu rất cần sự quan tâm của Nhà nước.Đặc biệt là trong các vấn đề
về tiếp cận thị trường, hiểu biết về thị trường xuất khẩu, các hoạt động
marketing giới thiệu sản phẩm, tổ chức quản lí đội ngũ nhân sự trong công tác
xuất khẩu, trình độ quản lí.Các chính sách như tỷ giá hối đoái, chính sách thuế
xuất khẩu, chính sách khuyến khích xuất khẩu mặt hàng….có thể có tác động rất
lớn rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
+ Nhóm các chính sách khác
Bên cạnh các chính sách trực tiếp, thì các chính sách phát triển các
ngành nghề liên quan, các ngành nghề bổ trợ cũng có tác động tích cực hay tiêu
cực tới hoạt động xuất khẩu.Các chính sách như chính sách đất đai, chính sách
phát triển ngành Logistic, chính sách phát tiển khoa học công nghệ, chính sách
7
hỗ trợ giống cây trồng, phân bón cho nông dân… Các chính sách này có thể có
tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu gạo.
Xuất khẩu gạo đem lại lợi ích to lớn với phát triển kinh tế xã hội nhưng
đời sống nông dân hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn.Các chính sách đảm bảo
lợi ích của Nhà nước – Doanh nghiệp – Nông dân trong giai đoạn hiên nay là
cần thiết để người nông dân có thể yên tâm để sản xuất.
- Nhân tố vật chất kĩ thuật và công nghệ đảm bảo chất lượng hoạt động
xuất khẩu
+ Nhân tố vật chất kĩ thuật:Là hệ thống vận chuyển, kho tàng, bến bãi, hệ
thống thông tin liên lạc.Hệ thống này đảm bảo việc lưu thông nhanh chóng kịp

thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian
và chi phí.
+ Nhân tố kĩ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng
trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo.Hệ thống
chế biến với công nghệ dây truyền hiện đại sẽ góp phần tăng chất lượng và giá
trị gạo.
1.4. Vai trò của xuất khẩu gạo
Xuất khẩu gạo đang được Nhà nước rất quan tâm bằng các chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế tha gia vào xuất khẩu đặc biệt là khu vực tư
nhân nhằm giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, ngoại tệ cho đất
nước.Việc mở rộng xuất khẩu vừa tạo được nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,
vừa đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan
trọng trong chính sách thương mại.
8
1.4.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo
những bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy động tối
đa mọi nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có
vốn mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện
đại, đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực Vốn thường được huy động từ nhiều
nguồn khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay vốn trong dân, xuất khẩu trong
đó vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu,
qua đó đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH đất nước.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch
từ xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ
lực của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ
lâu đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Theo số liệu mới nhất của
Bộ Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989 đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất
khẩu gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD, chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các

nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới
khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối với
riêng một mặt hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ
tiên tiến vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho
năng suất cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn
vốn lớn phục vụ công cuộc đổi mới đất nước.
1.4.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản
xuất phát triển
9
Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản
xuất theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa
tập trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng
bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại
giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế
của từng vùng.
Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi. Hàng loạt
các nghề phụ liên quan đến sản xuất và chế biến gạo như xay sát, bảo quản, đánh
bóng cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối với nền kinh tế dư thừa
lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn và góp phần
cải thiện đời sống nhân dân.
Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu gạo
tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu thụ
được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động
ngược trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện
mở rộng khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng của một quốc gia như Việt
Nam.
Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện cạnh tranh, cọ xát với

các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó
khăn đối với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn kém hơn so với
các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tồn tại
của gạo Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tổ chức, xem xét lại
khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, hạ giá thành sản phẩm
đồng thời nâng cao chất lượng. Các kênh phân phối cũng phải tổ chức lại một cách
hợp lý, giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận tối đa.
10
1.4.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống của nhân dân
Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những
ngành nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại, dịch vụ bao
gồm các công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu vào cho xuất khẩu.
Các hoạt động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ đạo đúng đắn sẽ tạo ra
sự khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân ở thời vụ thu hoạch, kích
thích nông dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó tác động trở lại đối với sản
xuất và xuất khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất gạo xuất khẩu có thể giải quyết
việc làm, tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động mà những ngành nghề khác có
liên quan cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của nước ta.
Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được
cung cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ
ổn định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu
được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước
không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân,
khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa.
Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế giới.
Dựa vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam, chúng ta cần biết
sản xuất loại gạo nào đạt hiệu quả cao nhất và có khả năng bán với số lượng lớn,
giá cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu
cầu người tiêu dùng và khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu khác để điều

chỉnh định hướng xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước
ta.
11
1.4.4 Xuất khẩu giúp các quốc gia nâng cao trình độ quản lí,nâng cao kinh
nghiệm buôn bán quốc tế, đổi mới và hoàn thiện sản xuất.
Với các quốc gia mới gia nhập thị trường quốc tế như Việt Nam, việc tiếp
thu kinh nghiệm buôn bán quốc tế, nâng cao trình độ quản lí là rất quan
trọng.Các quốc gia có điều kiện về tìm hiểu thị trường, tích lũy hiểu biết về thị
trường buôn bán quốc tế từ đó nâng cao năng lực trong quản lí và kinh nghiệm
trong buôn bán.
Chương 2
Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Thực trạng sản xuất và chế biến gạo của Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1. Thực trạng sản xuất gạo của Việt Nam
Thực hiện chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn cùng các
chính sách đất đai, chính sách phát triển nông thôn….nền nông nghiệp nước ta
đã có nhiều chuyển biến quan trọng trong thời gian qua.Đặc biệt là trong sản
xuất gạo.Sản lượng và năng suất gạo không ngừng tăng nhanh qua các năm nhờ
những tiến bộ về khoa học kĩ thuật, công nghệ sinh học, công nghệ về chọn
giống cây trồng cùng những kinh nghiệm gieo trồng lâu đời của nông dân.Kim
ngạch xuất khẩu gạo theo đó mà cũng tăng nhanh chóng, tạo những tiền đề lớn
cho phát triển kinh tế xã hội.
2.1.1.1 Về sản lượng
Từ năm 2000- 2012 ,sản lượng lúa cả nước có xu hướng tăng và ổn định.
Sản lượng trung bình mỗi năm tăng 905,5 nghìn tấn tương ứng với tốc độ
1,53%/năm. So với giai đoạn 1990-200 thì tốc độ tăng sản lượng/năm đã có xu
12
hướng giảm rõ rệt.Năm 2008, sản lượng tăng mạnh nhất với tốc độ tăng 7,75%
so với năm 2007 về số tuyệt đối tăng 2787.1 nghìn tấn.Mức tăng thấp nhất là
năm 2007 với 0,26% so với năm 2006, tăng 93,2 nghìn tấn.

Sản lượng năm 2001 và năm 2005 có sự sụt giảm tương ứng là 421,1 nghìn tấn
và 316 nghìn tấn.Tuy nhiên, sau thời gian giảm là các năm tăng liên tiếp và tăng
mạnh ở các năm 2002 với mức tăng 7,28%, năm 2006 với mức tăng 0,46% và
năm 2007 là 0.26%
Năm Sản lượng(1000
tấn)
Chênh lệch
+/- %
2000 32529.5 _ _
2001 32108.4 -421.1 -1.30
2002 34447.2 2338.8 7.28
2003 34568.8 121.6 0.35
2004 36148.9 1580.1 4.57
2005 35832.9 -316 -0.87
2006 35849.5 16.6 0.46
2007 35942.7 93.2 0.26
2008 38729.8 2787.1 7.75
2009 38950.2 220.4 0.57
2010 40005.6 1055.4 2.70
2011 42324.9 2319.3 5.79
2012 43400.0 1075.1 2.54
Bảng 2.1 Sản lượng lúa cả nước năm 2000 – 2012
Nguyên nhân chính của việc tăng liên tục sản lượng qua các năm do:
- Sự quan tâm chú trọng vào nghiên cứu và áp dụng những thành tựu của
khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất.Những tiến bộ về công nghệ sinh học, thủy
lợi, phân bón, kĩ thuật….đặc biệt là trong lĩnh vực sinh học.Việc áp dụng các
13
giống lúa mới vào sản xuất, làm chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm
canh, tăng nhanh sản lượng.
- Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nông nghiệp bền

vững, chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, nông dân. Chủ
trương liên kết 4 nhà: nhà nông, Nhà nước, doanh nghiệp và nhà khoa học đã tạo
được những chuyển biến lớn trong sản xuất của người nông dân, tạo tâm lí ổn
định trong sản xuất. Nhà nước cũng không ngừng tạo điều kiện cho sản xuất
bằng các chính sách cho vay vốn để phát triển nông nghiệp, mua sắm trang thiết
bị phục vụ sản xuất, phát triển giống cây trồng mới.
Năm /
Vùng
Đồng
bằng Sông
Hồng
Bắc Trung
Bộ và
Duyên hải
miền
Trung
Đồng
bằng sông
Cửu Long
Cả nước
2000 6762.6 4972.8 16702.7 32529.5
2001 6605.3 5144.5 15997.5 32108.4
2002 6051.7 5335.6 17709.6 34447.2
2003 6701.5 5572.1 17528.0 34568.8
2004 6926.1 5773.0 18567.2 36148.9
2005 6398.4 5342.5 19298.5 35832.9
2006 6725.2 5951.1 18229.2 35849.5
2007 6500.7 5764.3 18678.9 35942.7
2008 6790.2 6114.9 20669.5 38729.8
2009 6796.8 6243.2 20525.2 38950.2

2010 6805.4 6152.0 21595.6 40005.6
2011 6979.2 6515.6 23186.3 42324.9
Bảng 2.2 Sản lượng lúa các vùng qua các năm 2000-2011
Sản lượng lúa gạo của các vùng có sự khác biệt qua các năm từ năm 2000-
2011. Sản lượng lúa tập trung ở 2 đồng bằng lớn là đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sông Cửu Long, trong đó đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng
14
cao nhờ diện tích gieo trồng lớn cùng với áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến vào
các cánh đồng mẫu lớn.Lợi thế vào sản xuất còn có điều kiện sản xuất 3 mùa vụ:
vụ đông xuân, vụ hè thu và vụ ba. Băc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có
sản lượng tăng liên tục và ổn định qua các năm.Tuy nhiên, sản lượng lúa thấp so
với hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Điều kiện tự nhiên là yếu tố
quyết định, khi Bắc Trung bộ thường xuyên gặp thời tiết bất lợi cho sản xuất
như bão,lụt.
2.1.1.2 Diện tích

Năm Diện tích (nghìn
ha)
Chỉ số phát
triển(năm trước
=100%)
2000 7666.3 100
2001 7492.7 97.7
2002 7504.3 100.2
2003 7452.2 99.3
2004 7445.3 99.9
2005 7329.2 98.4
2006 7324.8 99.9
2007 7207.4 98.4
2008 7400.2 102.7

2009 7437.2 100.5
2010 7489.4 100.7
2011 7651.4 102.2
2012 7760.0 101.4
Bảng 2.3 Diện tích gieo trồng lúa qua các năm 2000-2012
15
Từ năm 2000-2012, diện tích gieo trồng có xu hướng tăng chia làm 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 2000-2002, giai đoạn ổn định, mức tăng giảm không đáng
kể.Năm 2001, diện tích giảm 2,3% so với năm 2000.
Giai đoạn 2003-2007, giai đoạn sụt giảm. Diện tích liên tục sụt giảm qua
các năm giảm 244,8 nghìn ha tương ứng với mức giảm 3,3%.Năm 2005 và năm
2007 cùng có mức giảm diện tích nhiều nhất là 1,6% so với các năm 2004 và
năm 2006.Nguyên nhân là do các chính sách khuyến khích phát triển các loại
cây trồng nông nghiệp khác nên có dự chuyển đổi diện tích từ trồng lúa nước
sang trồng các giống cây trồng khác.Cùng với đó là qua trình đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng, diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi rất nhiều và ồ ạt.
Giai đoạn 2008-2012,giai đoạn tăng nhanh.Diện tích gieo trồng sau thời
gian giảm liên tục có sự đột phá với mức tăng nhanh qua các năm.Diện tích giai
đoạn này đã tăng 359,8 nghìn ha tương ứng với mức tăng 4,8%.Diện tích trồng
lúa nước có tăng nhưng nếu so với năm 2000 thì mức tăng này là không đáng kể
nguyên nhân là do chính sách Nhà nước trong việc ổn định diện tích trồng lúa
nước, tập trung nâng cao năng suất lúa và chất lượng lúa gạo Việt Nam.
2.1.1.3. Năng suất
Xu hướng tăng của năng suất ổn định hơn so với xu hướng tăng của diện
tích.Từ năm 2000-2012, năng suất luôn tăng rất ổn định mức tăng 13,5 tạ/ha
tăng 31,8%. Mức tăng khá cao tại các năm 2002 với 3,1 tạ/ha ( tăng 7,24% so
với năm trước) và năm 2008 với 2,5 tạ/ha ( tăng 5% so với năm trước).
Có được mức tăng nhanh như vậy là do nông nghiệp nước ta đã có được
những đầu tư về vốn, khoa học, kĩ thuật cho sản xuất nhưng mức năng suất còn

thấp so với tiềm năng và so với thế giới.
16
Năm Diện tích(nghìn
tấn)
Năng suất(tạ/ha)
2000 7666.3 42.4
2001 7492.7 42.8
2002 7504.3 45.9
2003 7452.2 46.3
2004 7445.3 48.5
2005 7329.2 48.8
2006 7324.8 48.9
2007 7207.4 49.8
2008 7400.2 52.3
2009 7437.2 52.4
2010 7489.4 53.4
2011 7651.4 55.3
2012 7760.0 55.9
Bảng 2.4 Diện tích và năng suất lúa theo các năm 2000-2012
2.1.2. Thực trạng về chế biến lúa gạo
Những năm gần đây công nghệ sau thu hoạch của nước ta đã có những
tiến bộ đáng kể
- Tổn thất sau thu hoạch giả xuống: tổn thất sau thu hoạch( còn gọi là “
mất mùa trong nhà”) là tổn thất xảy ra ở tất ca các khâu cảu hệ thống sau thu
hoạch từ khi thu hoạch, sơ chế, bảo quản, chế biến đưa nông sản ra thị trường
cho đến khi tiêu dùng.
Theo số liệu thống kê và số liệu điều tra những năm trước đây( 1990-
1991) cảu Viện công nghệ sau thu hoạch và Tổng cục thống kê thì tổn thất sau
thu hoạch lúa ở Việt Nam từ 13%-16% trên tổng sản lượng lúa thu hoạch, tương
đương 1%-2% GDP hàng năm.Mức tổn thất được chi tiết cho các khâu sau:

- Khâu thu hoạch: 1,3%-1,7%
17
- Khâu vận chuyển:1,2%-1,5%
- Khâu đạp, tuốt lúa: 1,4%-1,8%
- Khâu phơi sấy, làm sạch:1,9%-2,1%
- Khâu bảo quản:3,2%-3,9%
- Khâu say sát: 4%-5%
Theo điều tra của Viện công nghệ sau thu hoạch, trong gần 10 năm(1992-
2002), nhờ áp dụng công nghệ sau thu hoạch lúa giảm xuống 10%-12%.Như vậy
trung bình đã giảm được 3%-4% tương đương 1 triệu tấn lúa.Các nhà kinh tế đã
tính tán rằng cứ 1% tổn thất tương đương 7 triệu USD hay 100 tỷ đồng
Việ giảm tỷ lệ tổn thất xuống còn 3%-4% tương ứng việc tăng them 1-28 triệu
USD hay 300-400 tỷ VND cho đất nước.
Giá trị sản lượng của lúa gạo tăng lên nhờ áp dụng công nghệ thu hoạch
đặc biệt là công nghệ bảo quản. Chất lượng gạo xuất khẩu thay đổi theo hướng
tỷ trọng gạo có chất lượng tăng lên, tỷ trọng gạo có chất lượng thấp giảm
xuống.Công nghệ chế biến gạo tiên tiến đặc biệt công nghệ tách hạt và đánh
bóng đã góp phần quan trọng đưa Việt Nam lên hàng thứ hai trong số các nước
xuất khẩu gạo.

Hệ thống máy xay xát lúa gạo ở Việt Nam
Số máy Tổng công
suất(tấn/ha)
1.Khối cơ sở quốc
doanh
Miền Bắc
Miền Nam
950
278
348

3600
2756
5844
18
2.Khối cơ sở tự
nhiên
3890 17400
3.Cơ sở khác 160 10000
Tỏng số 5000 26000
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn_2001
Hiện nay các cơ sỏ xay xát đã đủ sức xay xát hết số thóc cho tiêu dùng và
xuất khẩu, trung bình mỗi năm khoảng 13,5 triệu tấn trong đó đồng bằng sông
Hồng là 4 triệu tấn, sông Cửu Long là 9 triệu tấn.Các cơ sỏ sản xuất quốc doanh
thực hiện một chu trình khép kín từ khử trấu, xay trắng đánh bóng, tạo màu,
phân loại, đóng bao. Các cơ sỏ tư nhân chỉ tiến hành một hay hai công đoạn của
quá trình xay xát gạo nhưng chiếm 75% lượng gạo xay xát của cả nước.
2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn hiện nay
2.2.1 Sản lượng xuất khẩu gạo
Sản lượng gạo Việt Nam xuất khẩu khá ổn định trên 4,5 triệu tấn từ năm
2005-2008 và có bước đột phá vào năm 2009.Cụ thể,mùa vụ 2010-2011, VIệt
Nam xuất khẩu 7 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng 26,37 triệu tấn so với 6,73
triệu tấn trong mùa vụ 2009-2010 và vươn lên vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất
khẩu gạo, sau Thái Lan.
Theo USDA, mùa vụ 2011-2012, Việt Nam vần duy trì mức xuất khẩu
khoảng 7 triệu tấn.Nếu mùa vụ 2009-2010 xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt mức
kỉ lục thì mùa vụ 2011-2012 sản lượng xuất khẩu đạt trên 7 triệu tấn( 7,105 triệu
tấn) và nâng kim ngạch xuất khẩu gạo lên hơn 3,507 tỷ USD, tăng 20% so với
cùng kì 2009-2010.
19
Năm 2012, xuất khẩu gạo Việt Nam lại xác lập kỉ lục mới 7,8 triệu tấn gạo

nhưng giá trị thì lại thua xa so với mùa vụ năm 2011 với giá trị 3,45 tỷ USD.
Xuất khẩu gạo Việt Nam từ mùa vụ 2005 đến mùa vụ 2011
ĐVT:nghìn
tấn
Nguồn: Thông tin thương mại
USDA.
So với các nước xuất khẩu gạo trên thế giới thì xuất khẩu gạo của Việt
Nam khá ổn định.Năm 2012, thương mại gạo thế giới có dự giảm nhẹ xuống con
33,8 triệu tấn so với 34,3 triệu tấn năm 2011, do sản lượng gạo trong nước tai
một số quốc gia nhập khẩu gạo truyền thống tăng.Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của
Việt Nam vẫn đạt con số ổn định 7 triêu tấn. Trong khi đó,Thái Lan giảm lượng
xuất khẩu ở nhóm thị trường thấp do chính sách tăng giá gạo của Chính phủ
nhằm đảm bảo thu nhập cho nông dân.Việc này đã mở rộng thị trường gạo cho
Việt Nam như tại Singapore,, trước đây Thái Lan có thị phần gần 100% với số
lượng 200.000 tấn nhưng hiện nay gạo Việt Nam đã chiếm 20% thị phần.
20
2.2.2. Thị trường xuất khẩu gạo chính
Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam mùa vụ 2010-2011 chủ yếu là
các quốc gia châu Á chiếm khoảng 67,6% như Trung Quốc, Philippines,
Malaysia, Indonesia,… Đứng thứ 2 là thị trường châu Phi với 22,6%. Phần lớn
gạo xuất khẩu là gạo tấm 15% (trên 3,1 triệu tấn), kế đến là các loại gạo 5% tấm,
25% tấm và 100% tấm.Các loại gạo có phẩm chất cao, đáp ứng nhu cầu của thị
trường chỉ xuất khẩu với số lượng khá hạn chế như Glutimous, Jasmine….
Tuy nhiên, cuối năm 2012 thị trường gạo quốc tế có nhu cầu thấp đối với
gạo có chất lượng thấp, nông dân Vệt Nam vẫn tiếp tục gieo trồng các loại gạo
có chất lượng thấp như IR50404 nhưng năng suất cao bất chấp cản báo của
Chính phủ kêu gọi nông dân hạn chế sản xuất gạo có chất lượng thấp nhưng diện
tích gieo trồng loại gạo này vẫn vượt trên 20%.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam(VFA), năm 2012, châu Á là thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam chiếm trên 67,5% tổng lượng gạo xuất

21
khẩu, kế đến vẫn là Châu Phi 24,7%, châu Mỹ 4,7% Tuy nhiên dự báo thị
trường sẽ gặp nhiều khó khăn vào năm 2013.Vì vậy theo VFA xuất khẩu của
Việt Nam sẽ đẩy mạnh sang các quốc gia châu Phi, Trung Quốc… những nước
nhập khẩu lớn năm 2012.Nếu chất lượng gạo của Việt Nam đáp ứng tốt nhu cầu
chất lượng cao của các quốc gia thì có thể chinh phục các thị trường như Hàn
Quốc, Nhật Bản.
2.2.3. Giá gạo xuất khẩu
Việt Nam với kinh nghiệm và nỗ lực cải thiện trình độ nghiệp vụ thương
mại quốc tế, trong đàm phán kí kết hợp đồng và nâng cao chất lượng sản phẩm
gạo đã dần đưa đưa giá xuất khẩu gạo dần nhích gần lại hơn với giả cả quốc tế.
Khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo Thái Lan với giá gạo cùng loại của Việt
Nam ngày càng được thu nhỏ hơn.
Bảng giá xuất khẩu gạo bình quân của Việt Nam 2005-2012
Năm Giá xuất
khẩu(USD/tấn)
Chênh lệch
giá so với
năm trước
2005 267 _
2006 254 -13
2007 295 41
2008 550 255
2009 407 -143
2010 425 18
2011 513 88
2012 493 -20
Giá gạo giai đoạn 2005-2012 có sự biến động tăng giảm không ổn
định.Giá thấp nhất là năm 2006 có giá 254 USD/tấn. Giá xuất khẩu đạt đỉnh năm
22

2008 là 550 USD/tấn.Sau một năm 2008 giá tăng đột ngột giá xuất khẩu giảm
xuống nhanh chóng do ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế tại Mỹ.
Năm 2011 có mức giá xuất khẩu khá cao,có thể xem là gần chạm đỉnh.Giá
trị xuất khẩu năm 2011 đạt 3,5 tỷ USD cách rất xa so với 3,45 tỷ USD năm 2012
măc dù sản lượng năm 2011 thấp hơn 2012 (7,105 < 7,8 ).
So sánh giá gạo xuất khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan( gạo 5% tấm)
Nguồn:
Khoản 70% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là gạo 25% tấm( gạo
phẩm cấp thấp), gọa 5% tấm của Việt Nam vẫn chưa sánh được so với gạo Thái
Lan.Gạo phẩm cấp thấp càng bị thu hẹp và chịu sự canh tranh gay gắt từ Ấn Độ,
Pakistan và Myanmar.
Nhìn trên biểu đồ có thể thấy giá gạo xuất khẩu Việt Nam (màu xanh lá
cây) luôn thấp hơn giá gạo xuất khẩu của Thái Lan (màu xanh da trời) cho loại
23
gạo 5% tấm thể hiện vị thế của gạo Thái Lan trên thị trường là tốt hơn. Chỉ có
thời điểm năm 2008, giá gạo của Việt Nam có sự bứt phá nhưng sau đó đều thấp
hơn và giảm giá nhanh chóng( năm 2009)
Xuất khẩu gạo Việt Nam 2012 : Sản lượng mỗi tháng và giá FOB bình
quân
Nguồn;
Giá gạo xuất khẩu trung bình theo giá FOB của Việt Nam từ tháng 1 năm
2012 đến tháng 12 năm 2012 trung bình khoảng 456 USD/tấn.Mặc dù giá xuất
khẩu gạo tháng 1 năm 2013 có giá trung bình là 468 USD/tấn( tăng 2% so với
giá gạo 12/2012).Mức giá này thấp so với giá xuất khẩu năm 2011 là 495
USD/tấn khoảng 39 USD/tấn.
2.2.4. Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu
24
Việt Nam tuy đạt được những thành tựu rất to lớn trong việc nâng cao sản
lượng gạo xuất khẩu nhưng chất lượng gạo thì còn rát nhiều yếu kém. Chất
lượng gạo nói chung phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố tự nhiên và tác động của con

người như đất đai, khí hậu, phân bón, giống lúa, chế biến, vận chuyển, bảo
quản….
- Về giống lúa: Từ nhiều năm qua Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và áp
dụng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt và có khả nawg
chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Tuy nhiên, các giống
lúa làm hàng xuất khẩu lại có những yêu cầu khác.Ở Đồng bằng sông Cửu Long,
trong 70 giống lúa khác nhau thì chỉ có 5 loại có khả năng suất khẩu như
IR9729, IR64, IR59606,OM132 và OM997-6.Tương tự như vậy ở miền Bắc
cũng chỉ dừng lại ở 5 con số C70, C71,CR203, Q5, IR1832 là đủ điều kiện xuất
khẩu. Qua đó cho thấy giống lúa kém chất lượng là nguyên nhân quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng gạo xuất khẩu.
- Về phương pháp sản xuất và các khâu thu hoạch nhìn chung đã có nhiều
cải tiến song chất lượng của công đoạn này vẫn còn niều bất cập.Theo những ghi
nhận từ Viện nhiên cứu sau thu hoạch, tỷ lệ thất thoát của gạo là từ 13%-
16%.Đây là tỷ lệ thất thoát cao trong khi tỷ lệ thất thoát của thế giới là 10%.Do
đó thực tiễn chúng ta đòi hỏi cao hơn nữa các phương pháp xử lý gạo sau khi thu
hoạch qua tất cả các công đoạn như trang bị, làm mới công nghệ, cung cấp thiết
bị hiện đại…Như vậy mới có thể giảm tỷ lệ thất thoát, tăng chất lượng và nâng
cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam.
- Chất lượng gạo xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều tiêu thức khác nhau.Trên
thị trường quốc tế gạo được phân ra nhiều thị hiếu, mỗi loại có chất lượng khác
nhau dựa trên các tiêu chí : tỷ lệ tấm, kích thươc hạt, độ ẩm, mức độ đánh bóng,
tỷ lệ amylaza, tỷ lệ protein, nhiệt hồ hóa, mùi thơm….Gạo được chia ra làm 6
nhóm như sau
25

×