Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tham luan GVCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.21 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG NINH
TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ
BÁO CÁO THAM LUẬN
CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
Ở TRƯỜNG THPT
Người thực hiện:
Các GVCN lớp trường THPT Trần Phú
Móng Cái, ngày 14 tháng 7 năm 2010
Mở đầu
Công tác chủ nhiệm lớp là một nội dung về chuyên môn nghiệp vụ của giáo
viên trung học phổ thông. Công tác chủ nhiệm tham gia quyết định chất lượng
dạy và học của giáo viên và học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người
giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn
luyện đạo đức cho học sinh. Đặc biệt trong nhà trường trung học, vai trò của
người giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm thay mặt nhà
trường quản lý điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành
nhân cách cho học sinh; là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà
trường và xã hội.
Trước tình hình đối mới của đất nước nói chung và của địa phương, trường
THPT Trần Phú đặt tại địa bàn thành phố Móng Cái - nơi địa đầu Tổ quốc. Trải
qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành tập thể thầy và trò trường THPT Trần
Phú đã có những bước chuyển biến tích cực về mọi mặt, đến nay toàn trường đã
có 32 lớp với hơn 1.500 học sinh và hơn 80 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Cơ sở
vật chất nhà trường được xây dựng khang trang, bề thế với 40 phòng học đạt
chuẩn và các phòng học chuyên dùng của các bộ môn được trang bị đầy đủ các
dụng cụ thí nghiệm hiện đại phục vụ cho việc dạy và học, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Cơ sở vật chất khá tốt đã góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học của các thầy cô giáo và các em học sinh trong nhà trường.
Tuy nhiên công tác giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng
góp phân thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.
Xuất phát từ những thực tế về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong giai


đoạn hiện nay của trường THPT ở giữa đô thị mới thuộc cửa khẩu biên giới đang
phát triển, chúng tôi mạnh dạn tham luận đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất của
người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông hiện nay với 5 chương:
Chương I: Thực trạng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông.
2
Chương II. Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo viên chủ
nhiệm lớp trong hoạt động giáo dục học sinh ở trường phổ thông trong giai đoạn
hiện nay.
Chương III. Đề xuất đổi mới nội dung, phương pháp và kỹ năng thực hiện
công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên ở trường phổ thông đáp ứng yêu cầu nâng
cao chất lượng giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Chương IV. Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác
chủ nhiệm lớp cho giáo viên ở trường phổ thông.
Chương V. Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông với việc triển khai
có hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”.
Nội dung bài tham luận với mong muốn được trao đổi bổ sung làm phong
phú kinh nghiệm và phát huy hơn nữa công tác giáo viên chủ nhiệm ở trường
trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay ngày càng có hiệu quả.
Chương I
Thực trạng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
Công tác chủ nhiệm lớp góp phần to lớn làm nên sự thành công thắng lợi
nhiệm vụ năm học, đồng thời thúc đẩy sự phát triển đi lên của nhà trường.
Hiện nay, theo chức năng nhiệm vụ qui định đa số GVCN lớp thực sự là
người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của Hiệu trưởng đối với
lớp học sinh, trực tiếp tổ chức bộ máy, chỉ đạo quản lý lớp trong suất năm học.
GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề
theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh. GVCN lớp
chủ động phối hợp với các GV bộ môn, quản lý học sinh trong lớp học tập, lao
động, công tác và các hoạt động giáo dục khác. Chủ nhiệm cũng là người phối

hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường đó là Đoàn trường, chi đoàn GV,
Ban đại diện CMHS, và liên hệ với từng PHHS để phối hợp giáo dục học sinh
tiến bộ. GVCN lớp hoàn tất các hồ sơ sổ sách liên quan tới từng học sinh để lưu
giữ tại trường và thông báo gửi tới PHHS. GVCN lớp là người tư vấn cho các em
3
HS về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm học tập,
rèn luyện, tư vấn định hướng cho HS về lựa chọn nghệ nghiệp tương lai, bảo vệ
rèn luyện sức khoẻ. Đồng thời nâng bước, chắp cánh cho các em hoài bão, ước
mơ, lý tưởng sống cao đẹp, góp phần hoàn thiện hành trang cho các em bước
chân vào đời , trở thành công dân có ích cho xã hội, tham gia xây dựng và boả vệ
Tổ quốc.
Trong tình hình hiện nay với sự tác động của nền kinh tế thị trường, các giá
trị đạo đức xã hội đang có biến động phức tập tác động không nhỏ tới mọi
người, trong đó có cả HS và GV nói chung, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp cần
sáng tạo và nhiệt tình hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Giáo viên chủ
nhiệm phải thật sự tâm huyết, yêu nghề mến trẻ, đề cao trách nhiệm vẻ vang thầm
lặng của mình để dạy dỗ giáo dục cho các em trở thành những con người hữu ích
cho xã hội, xứng đáng với những hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như đồng chí
Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quí nhất trong tất cả các
nghề cao quí vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Tuy nhiên, hiện nay ở một số trường không ít có hiện tượng giáo viên chủ
nhiệm lớp chỉ làm việc mang tính đối phó theo bổn phận, chưa thật sự tâm huyết
nhiệt tình với lớp với HS. Không ít giáo viên chủ nhiệm chưa sâu sát, chưa có
biện pháp giáo dục nhân cách cho học sinh lớp mình mà chủ yếu chỉ quan tâm
đến vấn đề học tập; nặng về dạy chữ mà nhẹ về dạy người. Việc giáo dục phát
triển nhân cách học sinh là một nhu cầu cần thiết, bản chất của quá trình giáo dục
là tổ chức toàn bộ cuộc sống, học tập, hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận
lợi tối ưu để tiềm năng của học sinh được phát triển dưới sự giáo dục hưóng dẫn
của giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm lớp không chỉ là người thầy làm
công ăn lương mà còn phải là nhà sư phạm, nhà giáo dục, nhà tổ chức, là quan toà

công minh, là người thân như trong gia đình với học sinh. Một số giáo viên chủ
nhiệm còn thiếu kỹ năng nêu trên hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm làm ảnh hưởng
không tốt hiệu quả quá trình giáo dục chung đối với học sinh trong lớp và toàn
trường.
4
Về quản lý nhiều khi đánh giá chưa hết, chưa coi trọng hiệu quả công tác
quản lý lớp của GVCN, chỉ nhấn mạnh coi trọng hiệu quả chuyên môn, có biểu
hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi lớp có thành
tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể của chính quyền, với cố gắng của tập thể
lớp, của GVCN lớp. Tuy nhiên trong thực tế cũng có những GVCN yếu, vai trò
mờ nhạt cho nên dấu ấn của đoàn thể sâu đậm hơn, từ đó càng tạo ra sự nhìn nhận
thiên lệch.
Có GV chủ nhiệm chưa nắm nguyên tắc, qui định qui chế hoặc chưa mạnh
dạn thực hiện đầy đủ chức năng của minh: Ví dụ có quyền đi dự giờ các GVBM
trong lớp khi mình thấy cần. GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật
học sinh theo quy định, được hưởng giờ công tác theo định mức quy định.
Chương II
Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong
hoạt động giáo dục học sinh ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Về cơ bản đã qui định rõ trong điều lệ trường học, chúng tôi xin nhấn mạnh:
Ở trường phổ thông nói chung, trường trung học phổ thông nói riêng.
GVCV lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh.
Người GVCN là người cán bộ quản lý lớp cho nên giáo viên dạy giỏi và
giáo viên chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha
trong thực tế là bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một
con người hành động. Cũng như hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm lớp phải
nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường học, lớp
học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn.
Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh
kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ. Đó là một quy trình: xây dựng kế hoạch - thực

hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở
người giáo viên chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù, có trí
nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng và tổ chức tốt đội ngũ
cán bộ học sinh. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
5
Giáo viên chủ nhiệm là người thay thế Hiệu trưởng quản lý toàn diện tập
thể học sinh một lớp học. Người hiệu trưởng không thể quản lý, nắm chắc diễn
biến của quá trình phát triển nhân cách từng học sinh trong một trường, đó là lẽ
đương nhiên. Nếu không hiểu được đặc điểm, trình độ, diễn biến trong quá trình
giáo dục, tự rèn luyện của học sinh thì không thể giáo dục được các em, không
thể có sự định hướng kịp thời quá trình tự rèn luyện của học sinh. - Giáo viên chủ
nhiệm là cầu nối giữa hiệu trưởng (Ban giám hiệu), giữa các tổ chức trong
trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói một
cách khác, giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hai phía, một mặt đại diện cho
các lực lượng giáo dục của nhà trường, mặt khác đại diện cho tập thể học sinh.
Chương III
Đề xuất đổi mới nội dung, phương pháp và kỹ năng thực hiện công tác
chủ nhiệm lớp của giáo viên ở trường phổ thông đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Là giáo viên chủ nhiệm chúng tôi đã có trách nhiệm truyền đạt tất cả yêu
cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp mình
không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hóa, bằng sự gương
mẫu, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự giác, tự nguyện.
Với kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, chúng tôi đã cố gắng biến những
chủ trương, kế hoạch giáo dục đào tạo của nhà trường thành chương trình hành
động của tập thể lớp và của mỗi học sinh.
Mặt khác, chúng tôi cũng là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng
học sinh phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các
giáo viên bộ môn. Có ý kiến cho rằng: để làm điều đó thì đội ngũ tự quản của học
sinh có thể làm được không cần đến giáo viên chủ nhiệm. Tất nhiên ý kiến đó có

phần đúng, song chưa đủ. Phải thấy được quan hệ, vị trí của giáo viên chủ nhiệm
là người thường xuyên tiếp nhận được thông tin từ học sinh để đảm bảo tính
khách quan, tính trung thực của dư luận, ý kiến của một tập thể học sinh. Khi tiếp
nhận thông tin, người giáo viên chủ nhiệm lớp xử lí kịp thời ngay thông tin với tư
cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng rất lớn. Có không ít thông tin, suy nghĩ
của học sinh chỉ có thể tâm sự với giáo viên chủ nhiệm, đó là một thực tế. Giáo
6
viên chủ nhiệm với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm bảo vệ, bênh
vực quyền lợi mọi mặt học sinh của lớp.
Chúng tôi cũng cố gắng nắm vững vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt,
phương pháp giáo dục tập thể và biết kết hợp chúng trong hoàn cảnh cụ thể.
Phương pháp giáo dục cá biệt ở đây không nên hiểu là giáo dục học sinh đặc biệt
(hư, ngoan) như quan niệm thường thấy ở một số người.
Cần hiểu phương pháp giáo dục cá biệt là sự tác động tới từng cá nhân một
cách chuyên biệt để đảm bảo tính phù hợp với đối tượng. Ví dụ: cùng một biểu
hiện hư như nhau, nhưng có em phải phê bình nghiêm khắc, có em thì nhắc nhẹ,
có khi chỉ nhắc chung hoặc có khi phải trực tiếp, có khi thông qua bạn bè, gia
đình tập thể
Nếu giáo viên chủ nhiệm không đo được mức độ của hành vi, sử dụng
không tương ứng, dẫn tới phản tác dụng giáo dục, không đáng khen mà khen quá
lời cũng không tốt, chỉ đáng nhắc nhở mà vì lẽ gì giáo viên chủ nhiệm cảnh cáo
phê bình sẽ dễ làm cho học sinh ấm ức, mất lòng tin, bi quan.
Muốn phát huy hiệu qủa của phương pháp giáo dục trong tập thể, giáo viên
chủ nhiệm trước hết phải là người có uy tính, có trách nhiệm, nắm vững đối
tượng, xây dựng và tổ chức được tập thể học sinh thành một tập thể vững mạnh
và thống nhất.
Người GVCN phải hiểu sâu sắc về học sinh, từ đó mới có thể đặt ra được
những tác động sự phạm thích hợp. Nhà giáo dục Nga K.Đ.Usinxki đã nói:
“Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt”, do đó bất kỳ
người GVCN nào cũng cần phải tiến hành công việc đầu tiên là tìm hiểu học sinh

lớp mình phụ trách. Để tìm hiểu học sinh, có rất nhiều cách tiến hành với nhiều
biện pháp khác nhau. Chúng tôi đã cố gắng, trước hết đó là:
1. Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra phương pháp giáo dục phù hợp:
1.1. Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm
cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.
1.2. Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ
nhiệm, cụ thể:
- Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
7
- Học sinh khuyết tật.
- Học sinh các biệt về đạo đức.
- Học sinh yếu.
- Học sinh có những năng lực đặc biệt.
Tìm hiểu học sinh là một việc làm liên tục, thường xuyên, vừa có tính cấp
bách trong những khoảng thời gian nhất định, lại vừa có tính giai đoạn. Do vậy,
GVCN cần phải có kế hoạch thực hiện việc tìm hiểu học sinh. Cho nên, có thể nói
tìm hiểu học sinh là một quá trình diễn ra liên tục suốt năm học.
2. Áp dụng các phương pháp giáo dục phù hợp với từng loại đối tượng:
2.1. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn:
- Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên động viên giúp đỡ cả về vật chất lẫn
tinh thần. Kêu gọi học sinh cả lớp có tinh thần đoàn kết giúp bạn vượt khó. Đề
đạt với chi hội phụ huynh lớp, nhà trường tạo điều kiện giúp đõ những em đó.
Tính ưu việt của việc làm này là vừa khắc phục được khó khăn lại vừa giáo dục
được lòng nhân ái cho học sinh và tranh thủ được sự hỗ trợ của nhà trường của
hội phụ huynh học sinh.
2.2. Đối với những học sinh khuyết tật:
Giáo viên chủ nhiệm cần dành tình cảm ưu ái hơn. Chú ý cách bố trí chổ
ngồi phù hợp, cách đặt câu hỏi gợi mở khi tìm hiểu bài và sự đòi hỏi yêu cầu về
nội dung bài học sẽ khác hơn so với học sinh bình thường. Thường xuyên gặp gỡ
phụ huynh để kết hợp theo dõi diễn biến về sức khoẻ và học tập của các em.

2.3. Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và
mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo Hoặc trẻ có
những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh
nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý
gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho
các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước
điều chỉnh mình.
2.4. Đối với học sinh học yếu:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có
thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc
hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời
gian ngoài giờ lên lớp .
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm
tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
8
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học
sinh yếu kém tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự
tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí,
xấu hổ trước bạn bè.
2.5. Đối với những học sinh có năng lực đặc biệt:
- Điều quan trọng là phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn
hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ
- Cùng với nhà trường lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các đối

tượng này.
- Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua
những hội thi, những buổi nói chuyện ngoại khoá hoặc gần gũi nhất ngay trong
tiết học chính khoá.
Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương
pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để
giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
3. Nội dung giáo dục:
Giáo dục cho học sinh mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đổi mới hình thức giáo dục
qua đổi phương pháp dạy học. Cụ thể: Khi thấy những hiện tượng sai trái hoặc
những việc làm tốt của học sinh mặc dù không phải là học sinh mình phụ trách
chúng ta cũng kịp thời động viên uốn nắn.
Tổ chức các hoạt động dưới nhiều hình thức: hái hoa dân chủ, sân chơi học
trò, đố vui để học, rung chuông vàng
4. Xây dựng chương trình kế hoạch hoạt động giáo dục (xây dựng nền nếp)
- Xây dựng nội quy lớp học qua ý kiến của mỗi học sinh đề đạt.
- Thống kê lại để có nội quy chung. Ví dụ: nền nếp ra vào lớp, chuyên cần,
kỷ luật học tập như học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp
- Lấy ý kiến của học sinh để bầu ban cán sự lớp có đủ uy tín năng lục lãnh
đạo. Tập huấn cách là điểm cho ban cán sự lớp. Giáo viên phối hợp với ban cán
sự lớp điều hành mọi hoạt động trong sinh hoạt 15 phút đầu giờ hoặc sinh hoạt
cuối tuần. Xây dựng nhóm học tập, tổ học tập, đôi bạn cùng tiến để học sinh có
đủ điều kiện giúp đỡ lẫn nhau. Giáo viên tổ chức các buổi sinh hoạt cần chọ chủ
đề phù hợp với sở thích nhằm gây hứng thú cho học sinh. Hướng dẫn các em cách
tổ chức ban đầu, khi học sinh quen dần giáo viên chỉ đóng vai trò cố vấn.
5. Xây dựng tập thể học sinh:
Giáo viên chủ nhiệm tập trung xây dựng cho các em nhận thức về tinh thần
đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nhắc nhỡ nhau giữ gìn và có ý thức kỉ luật cao. Học
sinh phải hiểu được một cá nhân chỉ có thể tiến bộ dần trong một tập thể tiến bộ.
6. Đánh giá học sinh:

9
Cuối tuần, cuối tháng, cuối kỳ cần dành thời gian thoả đáng để đánh giá lại
mọi hoạt động của học sinh nhằm biểu dương kịp thời những học sinh có những
việc làm tốt để học sinh học tập đồng thời ngăn chặn kịp thời những tác động xấu
đến các em.
Có kế hoạch chủ nhiệm cụ thể theo tuần, tháng, kì, năm. Sau mỗi giai đoạn
giáo viên tự đánh giá rút kinh nghiệm và điều chỉnh phương pháp cho phù hợp.
7. Công tác phối hợp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội:
- Đối với phụ huynh: Giáo viên chủ nhiệm phải biết vận động, động viên
phụ huynh cùng với phụ huynh bàn bạc một số giải pháp nhằm giúp con học tốt,
giáo dục đạo đức ở gia đình, thu nộp đầy đủ các khoản quy định. Cùng chi hội
phụ huynh của lớp thăm học sinh đau ốm kịp thời, học sinh gặp khó khăn thường
xuyên để có hướng giúp đỡ. Thường xuyên thông tin để phụ huynh biết tình hình
học tập của con em mình từ đó có định hướng để giáo dục tốt con em.
- Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức chính trị trong nhà trường đặc biệt
là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
+ Cùng tham gia lao động và hướng dẫn học sinh trong các buổi lao động.
+ Giáo dục học sinh ý thức tự giác của người đội viên. Tổ chức cho học
sinh tham gia thực hiện ATGT, giáo dục lòng nhân ái "lá lành đùm lá rách" qua
các buổi sinh hoạt chủ điểm.
- Kết hợp với các đoàn thể như: chi đoàn địa phương, hội phụ nữ, hội cựu
chiến binh giáo dục học sinh cá biệt hoặc đỡ đầu cho những học sinh có hoàn
cảnh khó khăn.
Chương IV
Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm
lớp cho giáo viên ở trường phổ thông.
Làm công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông đòi hỏi người giáo viên
phải có phương hướng, giải pháp phù hợp, khoa học và chi tiết. Công tác chủ
nhiệm giỏi trước hết được đánh giá bởi việc xây dựng được một tập thể học sinh
thực sự có khả năng tự quản các hoạt động của mình. Vì vậy, GVCN phải biết

dựa trên nòng cốt đội ngũ cán bộ lớp có khả năng tự điều hành các hoạt động của
tập thể mình.
1. Yêu cầu của việc xây dựng tập thể học sinh tự quản
- Hình thành cho học sinh những kỹ năng tổ chức cơ bản
+ Kỹ năng nhận nhiệm vụ và lập kế hoạch hoạt động.
+ Kỹ năng điều khiển tập thể lớp thực hiện kế hoạch đó.
+ Kỹ năng đánh giá kết quả hoạt động và rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn.
+ Kỹ năng giao tiếp với PH cho phù hợp đối tượng và tổ chức họp phụ huynh
HS có hiệu quả.
2. Cách tiến hành.
- Lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp có đầy đủ uy tín và năng lực điều khiển
tập thể lớp.
10
- Tổ chức tập huấn luyện đội ngũ ban cán sự lớp.
- Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho toàn lớp về những nội dung xây dựng
tập thể lớp tự quản.
- Tổ chức các hoạt động thực tế để học sinh được rèn luyện các kỹ năng tự quản.
Mỗi GV muốn làm tốt công tác chủ nhiệm phải được hướng dẫn xây dựng
chương trình, kế hoạch công tác chủ nhiệm, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chủ
nhiệm, phương pháp thu thập, xử lý thông tin, hồ sơ sổ sách. Hiệu trưởng phải chỉ
đạo các GVCN biết tổ chức họp cha mẹ HS theo định kỳ, thực hiện phiếu liên lạc
giữa nhà trường với gia đình. Hàng tuần hiệu trưởng phải kiểm tra các sổ ghi biên
bản của từng lớp chủ nhiệm để kịp thời có những ý kiến đóng góp bổ sung, nhất là
những sai sót trong tuần. Tiến hành đánh giá kết quả giáo dục đạo đức của học sinh
phải công khai, công bằng và chính xác. Quá trình đó là:
- Xác định chuẩn đánh giá và thảo luận để mỗi học sinh hiểu và có trách
nhiệm tham gia đánh giá và tự đánh giá.
- Mỗi học sinh được phát một phiếu đánh giá có in sẵn các chỉ tiêu đánh
giá. Các em tự đánh giá bản thân mình theo các chỉ tiêu trên đó, rồi tự xếp loại
đạo đức theo các mức độ: Tốt-Khá-Trung bình-Yếu.

- Sau đó, họp học sinh để thông qua bản tự đánh giá đó. GVCN dựa vào đó
mà quyết đinh xếp loại đạo đức học sinh.
- GVCN quyết định và công bố kết quả xếp loại đạo đức của từng học sinh,
lập biên bản gửi BGH, Đoàn thanh niên nhà trường và gửi kết quả tới phụ huynh
học sinh. GVCN có thể lập website riêng để thông báo rộng rãi.
Chương V
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông với việc triển khai có hiệu
quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Từ 2007-2008 đến nay, đặc biệt năm học 2009-2010 nhà trường chúng tôi là
đơn vị điển hình về phong trào xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Giáo viên chủ nhiệm lớp đã nắm vững nội dung, kế hoạch thi đua thực hiện phong
trào này của Bộ chỉ đạo và kế haọch cụ thể của nhà trường. Từ đó GVCN lớp lập kH
riêng cho lớp phấn đấu xây dựng “ Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Đồng
thời phần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống, lịch sử của
dân tộc, thiết thực chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Phát huy
tính tích cực, năng động, sáng tạo trong tuổi trẻ học đường; thông qua các hoạt động
học tập và vui chơi lành mạnh góp phần định hướng lối sống đẹp, ý thức tôn trọng,
giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa của địa phương, quê hương, đất
nước.
Thông qua các hoạt động cụ thể, thiết thực, dấy lên phong trào thi đua sôi
nổi trong toàn thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học sinh; khơi gợi tính
chủ động, niềm tự hào của những công dân trẻ, làm cho học sinh yêu trường mến
lớp, hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi giáo viên chủ nhiệm chúng tôi đã
triển khai kế hoạch thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
11
thiện, học sinh tích cực” năm học 2009-2010 của ban giám hiệu nhà trường tới
học sinh lớp mình chủ nhiệm và phụ huynh học sinh vào buổi họp phụ huynh đầu
năm. Ngay từ đầu năm học GVCN đã công khai về nội qui nhà trương, qui chế
dánh giá xếp loại HS, qui tắc ứng xử trong nhà trường… để học sinh chủ động
thực hiện. Đồng thời làm cho HS hiểu Nhà trường không chỉ là nơi cho các em

học sinh đến và thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là học tập, tiếp thu kiến thức từ
các Thầy, Cô giáo truyền đạt mà Nhà trường còn là môi trường để các em có thể
phát triển tư duy, năng lực sở trường, đồng thời cũng là nơi bắt nguồn để hình
thành nên các mối quan hệ thật sự chân tình giữa “Thầy và Trò”; giữa “Trò và
Trò”; giữa các khối lớp hiện đang học tập trong nhà trường và kể cả các thế hệ
học sinh đã rời khỏi ghế nhà trường, Khi các em học sinh dần dần trưởng thành
trong môi trường có sự gắn bó và hòa đồng như vậy, cùng với những kiến thức đã
tích lũy được sẽ tạo điều kiện cho các em có một sự tự tin nhất định, giúp cho các
em có thể mạnh dạn trao đổi trước bạn bè, trước các Thầy, Cô giáo; có khả năng
giao tiếp, ứng xử hoạt bát trước tập thể, trước đám đông. Điều này tác động rất
lớn đến tâm lý của các em và là tiền đề để hình thành nên yếu tố “Tích cực” từ
trong mỗi học sinh. Nhà trường và các Thầy, Cô giáo khai thác hữu hiệu yếu tố
này sẽ là đòn bẩy cho các em học sinh được thể hiện “Học sinh tích cực” trong
từng tiết học, từng môn học và ngay cả từng bậc học.
Nói đến việc giáo dục học sinh, một vấn đề hết sức căn bản có ý nghĩa
quyết định đến chất lượng công tác “Dạy và học”; đó là sự kết hợp giữa nhà
trường và gia đình, giữa giáo viên và học sinh. Trong đó, Giáo viên chủ nhiệm
giữ vai trò như là chiếc cầu nối, là mắc xích của sự kết hợp được thể hiện qua các
mối quan hệ cụ thể:
- Một là giữa Nhà trường với gia đình: Lớp học là đơn vị tổ chức giáo dục
cơ bản của trường học. Mỗi lớp học có Giáo viên chủ nhiệm lớp và hầu hết các
bậc phụ huynh học sinh đều thống nhất rằng “Người có tác dụng tốt nhất đối với
con em mình, chính là Giáo viên chủ nhiệm”. Nhà trường, giáo viên, gia đình và
các đoàn thể là các lực lượng giáo dục thông qua đầu mối liên kết là Giáo viên
chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm trở thành người trung gian trao đổi thông tin giữa Nhà
trường và gia đình, thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội và truyền đạt những chủ trương
của Nhà trường đến với gia đình đồng thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của gia
đình để báo cáo lại lãnh đạo Nhà trường. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm sâu sát
của Nhà trường, đồng thời tạo được sự tin tưởng của phụ huynh học sinh đối với

Nhà trường khi con em mình được học tập ở tại trường.
- Hai là giữa giáo viên bộ môn và học sinh của lớp: Trong quá trình giảng
dạy, bên cạnh sự quán xuyến, đôn đốc, theo dõi của Giáo viên chủ nhiệm còn có
tập thể các Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy và truyền đạt kiến thức bộ môn.
Qua trao đổi, tiếp nhận thông tin từ các giáo viên giảng dạy bộ môn, Giáo viên
chủ nhiệm có thể nắm bắt thêm về tinh thần, thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ
luật, học lực của từng học sinh trong lớp. Từ đó, tạo điều kiện cho Giáo viên
chủ nhiệm có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về chất lượng học tập của
12
từng học sinh trong lớp đồng thời có biện pháp động viên, nhắc nhở, giáo dục phù
hợp đối với từng học sinh. Trong các buổi sinh hoạt lớp phải thật sự cởi mở và
thể hiện sự quan tâm tận tình để các em có điều kiện đề đạt ý kiến, nguyện vọng
về công tác giảng dạy của giáo viên bộ môn. Qua đó, Giáo viên chủ nhiệm đúc
kết có chọn lọc và chuyển tiếp nguyện vọng của học sinh đến với các giáo viên bộ
môn để tập thể sư phạm giảng dạy tại lớp có tinh thần cộng đồng trách nhiệm
trong việc giáo dục học sinh.
- Ba là giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh trong lớp: Đối với sự nghiệp
“Trồng người”, hình ảnh Người Thầy giáo mẫu mực luôn là tấm gương sáng cho
các em học sinh; Do vậy, xuất phát từ vai trò trách nhiệm và sự gắn kết với học
sinh mà đòi hỏi mỗi Giáo viên chủ nhiệm phải giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì,
nhiệt tình, biết tôn trọng nhân cách học sinh và được các em tin yêu. Giáo viên
chủ nhiệm cần có uy và có sức cảm hóa thuyết phục, có bản lĩnh để xử lý kịp thời
các tình huống sư phạm đa dạng, phải biết đối xử khéo léo, công bằng và nghiêm
minh trong nhận xét đánh giá đối với học sinh; là người chịu trách nhiệm về sự
phát triển toàn diện của học sinh lớp mình phụ trách. Hoạt động của Giáo viên
chủ nhiệm về bản chất là một trong những hoạt động sáng tạo nhất trong quá trình
giảng dạy; là người xây dựng kế hoạch giáo dục riêng để giáo dục tập thể học
sinh lớp mình; biết tìm hiểu, nghiên cứu đối tượng để xây dựng kế hoạch phát
triển tập thể học sinh, tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong lớp, taọ điều kiện để
phát huy ý thức tự quản của học sinh, xây dựng đội ngũ cán bộ lớp có năng lực để

điều hành hoạt động của lớp; chủ động tiếp xúc với học sinh để nắm bắt về điều
kiện và hoàn cảnh của học sinh; động viên, an ủi giúp cho các em có hoàn cảnh
gia đình khó khăn hoặc ốm đau, bệnh tật cố gắng yên tâm học tập và biết vượt
khó, vươn lên. Điều đó vừa là trách nhiệm, vừa thể hiện được tình người trong
mối quan hệ “Thầy - Trò”, tạo được ấn tượng tốt và xây dựng nên hình ảnh đẹp
đẽ, cao cả của những Thầy, Cô giáo trong ký ức của các em học sinh.
Giáo dục ý thức giữ gìn, tôn tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh công cộng
và bảo vệ tài sản của nhà trường. Thực hiện tốt nội qui nhà trường, không có hành
động vui chơi, sinh hoạt thiếu an toàn.
Giáo dục học sinh ý thức giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không viết vẽ trên bàn,
trên tường. Xem lớp học là ngôi nhà thân yêu của mình, sống và học tập hàng
ngày. Thực hiện tốt đồng phục của học sinh. Đảm bảo tính trẻ trung của tuổi học
trò, năng động và mang nét riêng của nhà trường.
Nhà trường tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
Tăng cường rèn luyện các kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt
động. Giúp các em có những kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa, thói quen và
kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm. Ví dụ: Tổ chức các buổi tham quan học
tập ngoại khóa theo các môn học, tham quan các làng nghề. Duy trì tốt hoạt động
của các CLB môn học, phụ trách tình nguyện, các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp
nghĩa tại địa phương, giúp đỡ các xã nghèo.
13
Thực hiện tốt bảng thông tin trong Đoàn, các bảng tin của lớp. Đoàn thanh
niên thực hiện chương trình phát thanh thanh niên 1 lần/ tháng. Xây dựng diễn
đàn học sinh “Nghe thanh niên nói, nói thanh niên nghe”; Và chương trình “Thắp
sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”
Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử,
văn hóa ở địa phương. GVCN kết hợp với Đoàn thanh niên nhà trường tổ chức
cho học sinh tham quan học tập ngoại khóa.

Kết quả
Qua áp dụng các biện pháp nêu trên tôi nhận thấy học sinh hiện nay đã
nhận thức được tầm quan trong của phong trào ý thức được trách nhiệm và nghĩa
vụ, của mình. Tham gia và hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong công tác chủ nhiệm,
trong việc thực hiện các nội dung của phong trào. Các em đã có ý thức trong việc
bảo vệ, xây dựng cảnh quan nhà trường, lớp học xanh sạch đẹp, chủ động tích cực
trong hoạt động học tập, phong trào, có thói quen bảo vệ môi trường, giáo tiếp
ứng xử có văn hóa thân thiện. Tình trang đối xử thô lỗ, nói năng cộc cằn trong
lớp được hạn chế rõ rệt, tinh thần tương thân tương ái trong lớp được phát huy.
Số lượng học sinh yếu, kém giảm khá nhiều. Duy trì tốt sĩ số học sinh, đảm bảo
tốt nội quy trường lớp. Không có bạo lực học đường, không có vi phạm tệ nạn xã
hội. Mọi hoạt động của nhà trường đều có hiệu quả tích cực, nhà trường được
công nhận là trường học An toàn, là điển hình về trường học thân thiện, HS tích
cực.
Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách của người giáo viên chủ
nhiệm sẽ giúp học sinh luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn cuộc sống.
Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Quán triệt, nâng cao nhận thức trong cha mẹ học sinh, học sinh về nội
dung phong trào. Nhận thức đúng sẽ cho người giáo viên cơ hội tạo dựng được sự
ủng hộ, giúp đỡ từ nhiều phía.
2. Giáo viên cần phải quan tâm, gần gũi, nắm từng hoàn cảnh gia đình của
các em; phân hóa đối tượng, để có phương pháp giảng dạy, chủ nhiệm phù hợp
với khả năng của từng em.
3. Biết phát huy thế mạnh của lớp. Giáo viên luôn phải là tấm gương sáng
cho học sinh noi theo. Biết phối hợp nhiều hình thức, phương pháp giáo dục học
sinh kĩ năng sống giáo dục đạo đức cho học sinh trong các tiết học, hoạt động tập
thể, ngoài giờ lên lớp ở mọi lúc mọi nơi và xây dựng môi trường thân thiện,
lành mạnh ngay trong lớp học.
4. Phải thưởng phạt nghiêm minh, kỷ luật phải được các em tự xây dựng

lên bên cạnh những điều mà trường đã quy định.
Kiến nghị
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
14
- Chương trình sách giáo khoa hiện nay còn quá tải về mặt kiến thức nên
hạn chế về thời gian hoạt động giáo dục khác.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và
phát triển nhân cách học sinh nên thành lập một trường ĐH- CĐ đào tạo GVCN
lớp “chuyên nghiệp”.
- Cải tiến hình thức đánh giá và thi cử cho học sinh để phản ánh đúng khả
năng thực của học sinh.
Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
- Nên thường xuyên tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề về công tác chủ
nhiệm để các giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Có hình thức khen thưởng các giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm nhằm
động viên khuyến khích họ.
Kết luận
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người
có uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm và đi
trước, đề xuất được các vấn đề có giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, nâng
cao vai trò con chim đầu đàn góp phần tạo nên sự thành công và tiến bộ ở mỗi
HS, ở mỗi lớp học, ở mỗi trường học. Tôi cùng muốn với mọi người hãy chung
tay vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ vì cuộc sống ngày mai. Việc giáo dục con trẻ
hôm nay không chỉ là việc của riêng ai mà là việc chung của toàn xã hội, của tất
cả mọi người vì “trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, cần lắm có sự phối hợp tốt
của cả 3 mặt: Nhà trường - Gia đình - Xã hội.
TẬP THỂ GVCN LỚP-TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ
Tỉnh Quảng Ninh
Xác nhận của nhà trường
Hiệu trưởng

Doãn Văn Toàn
15

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×