Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC: 01
MỞ ĐẦU 03
1. Lý do chọn đề tài 03
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 04
3. Mục đích nghiên cứu 06
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 06
5. Phương pháp nghiên cứu 06
6. Đóng góp của luận văn 07
7. Cấu trúc của luận văn 07
CHƯƠNG 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 08
1.1. Hàm ngơn và các thuật ngữ có liên quan 08
1.2. Một số cách phân loại hàm ngơn 15
1.3. Mục đích đích dùng hàm ngơn 19
1.3.1. Người nói khơng muốn chịu trách nhiệm về lời nói của mình 20
1.3.2. Người nói dùng hàm ngơn với mục đích mỉa mai, châm biếm 20
1.3.3. Người nói muốn tiết kiệm lời 21
1.3.4. Người nói muốn giữ thể diện cho người nghe 21
1.3.5. Người nói dùng hàm ngơn vì khiêm tốn 23
1.3.6. Người nói dùng hàm ngơn vì kiêng kị 23
1.4. Ý nghĩa văn hố của hàm ngơn 24
1.5. Tiểu kết 27
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC TẠO HÀM NGƠN TRONG
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CƠNG HOAN 29
2.1. Nguyễn Cơng Hoan – Tác giả, tác phẩm và nghệ thuật 29
2.1.1. Vài nét về tác giả - tác phẩm 29
2.1.2. Quan điểm sáng tác 30
2.2. Một số phương thức tạo hàm ngơn trong sáng tác của
Nguyễn Cơng Hoan 32
2.2.1. Một số vấn đề chung về phương thức tạo hàm ngơn 32
1
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
2.2.2. Một số phương thức tạo hàm ngơn trong sáng tác của
Nguyễn CơngHoan 34
2.2.2.1. Phương thức chơi chữ 34
2.2.2.2. Phương thức sử dụng hư từ 40
2.2.2.3. Phương thức đặt tiêu đề 44
2.2.2.4. Phương thức sử dụng mẫu câu 46
2.2.2.5. Phương thức sử dụng cái tục 48
2.2.2.6. Phương thức dùng câu hỏi 49
2.2.2.7. Phương thức nói vòng 52
2.2.2.8. Phương thức sử dụng hành vi ngơn ngữ gián tiếp 53
2.2.2.9. Phương thức vi phạm lẽ thường 55
2.2.2.10. Phương thức vi phạm phương châm hội thoại 58
2.2.2.11. Phương thức tạo độ hẫng 64
2.2.2.12. Phương thức tạo câu mơ hồ 65
2.2.2.13. Phương thức nói lảng 67
2.2.2.14. Phương thức đánh tráo khái niệm 68
2.2.2.15. Phương thức lập luận 70
2.3. Tiểu kết 71
K ẾT LUẬN 73
TÀI LI ỆU THAM KHẢO 74
2
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.Vấn đề nghóa hàm ngôn đã được nhiều nhà ngôn ngữ đề cập đến
trong các công trình nghiên cứu. Nhìn chung các nhà ngôn ngữ khi bàn về
nghóa hàm ngôn đều dùng thủ pháp đối lập lưỡng phân để phân loại thành
nghóa hiển ngôn và nghóa hàm ngôn, đồng thời đề cập đến một số thuật ngữ
khác như: tiền giả đònh (TGĐ), hàm ý… nhưng còn một số thuật ngữ chưa
thống nhất mặt khác chưa có công trình nào đưa ra được đầy đủ, hệ thống các
phương thức cấu tạo hàm ngôn.
Trong thực tế, nghóa hàm ngôn rất quan trọng, nó ẩn chứa nhiều vấn đề
mà người tham gia giao tiếp phải suy luận mới hiểu được. Những cách nói
vòng vo, bóng gió, lập lờ… được sư ûdụng thường xuyên và đạt hiệu quả cao
trong giao tiếp. Người nói thường nói tránh, nó khéo nhằm làm cho người
nghe nhận ra ý của người nói mà không cảm thấy bò mất thể diện. Trong văn
chương HN được sử dụng phổ biến – chủ yếu trong ngôn ngữ đối thoại giữa
các nhân vật. HN có tác dụng làm cho lời nói thêm cô đọng, hàm súc, mang
nhiều ý nghóa. Do vậy, để tạo tính đa nghóa cho tác phẩm của mình các nhà
văn luôn chú ý sử dụng HN để nhân vật của mình nói những câu nói mang
tính đa nghóa để cho các nhân vật khác và độc giả cùng suy luận ra ý nghóa gì
từ câu nói đó.
1.2. Trong hoàn cảnh lòch sử của những năm 1930 – 1945, cùng với
những biến cố chính trò thì trong lónh vực văn chương cũng đã xuất hiện cùng
một lúc nhiều khuynh hướng văn học: Văn học lãng mạn, văn học hiện thực
phê phán và văn học cách mạng. Chúng cùng song song tồn tại và tác động
lẫn nhau. Do vậy, một số nhà văn có sự đan xen giữa các xu hướng kể trên
như Thạch Lam, Trần Tiêu, Nguyễn Công Hoan…
3
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan sáng tác cả ở khuynh hướng hiện thực phê phán và
khuynh hướng lãng mạn. Tuy nhiên thành công chủ yếu và được đánh giá cao
là mảng truyện ngắn trào phúng theo cảm hứng phê phán.
Nguyễn Công Hoan rất thành công trong việc sử dụng ngôn từ. Ngôn
từ của ông độc đáo và mang nhiều ý nghóa sâu sắc. Nghiên cứu về hàm ngôn
trong
sáng tác của Nguyễn Công Hoan để có cách hiểu cách đánh giá chính xác
toàn diện hơn về văn chương của tác giả là vấn đề vô cùng thiết thực.
1.3. Ngoài ra, bản thân người viết rất ấn tượng và thích thú với lối viết
hóm hỉnh và hài hước nhưng mang nhiều dụng ý của Nguyễn Công Hoan.
Hơn nữa Nguyễn Công Hoan là tác giả có tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở
chương trình Ngữ văn của trung học phổ thông nên nghiên cứu sâu hơn về
văn chương của ông ở mảng hàm ngôn sẽ góp phần tích cực vào việc dạy học.
Vì những lý do đã nêu ở trên người viết chọn “Một số phương thức tạo
hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan” làm đề tài nghiên cứu.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
2.1. Sau đây là điểm qua về một số công trình nghiên cứu nghóa hàm
ngôn và các thuật ngữ có liên quan:
Đỗ Hữu Châu với công trình “Đại cương ngôn ngữ học – Ngữ dụng
học” (Tập 2) – trên quan điểm của Grice về ý nghóa hàm ẩn tác giả đã phân
loại ý nghóa hàm ẩn thành hàm ngôn và TGĐ [1, 361], sau đó ông phân tích
mối quan hệ giữa chúng, xác đònh cơ chế tạo ra các ý nghóa hàm ẩn không tự
nhiên và phân loại hàm ngôn, TGĐ.
4
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
“Giáo trình ngữ dụng học” của Đỗ Thò Kim Liên cũng phân loại ý
nghóa hàm ẩn thành TGĐ và hàm ngôn [12, 237], tác giả đi vào phân loại
TGĐ, phân biệt TGĐ với hàm ngôn và đưa ra một số phương thức cấu tạo
hàm ngôn.
Hoàng Phê với “Logic – Ngôn ngữ học” đã chỉ ra cấu trúc ngữ nghóa
của lời gồm nhiều tầng như: TGĐ, hàm ngôn, hiển ngôn, tác giả quan niệm
trong hàm ngôn có hàm ý và ngụ ý, ngoài ra còn xác đònh mối quan hệ giữa
TGĐ và hàm ngôn.
Hồ Lê trong “Quy luật ngôn ngữ” (quyển 2) đề cập đến ý nghóa hiển
hiện và ý nghóa hàm ẩn trong phát ngôn. Tác giả tiến hành phân loại ý nghóa
hàm ẩn (gồm hàm ẩn ngữ huống và hàm ẩn ngôn từ) và phân tích ý nghóa
hàm ẩn (gồm hàm nghóa và hàm ý), ngoài ra tác giả còn nêu ra phương thức
hiển ngôn, phương thức hàm ngôn, TGĐ.
Nguyễn Thiện Giáp với công trình “Dụng học Việt Ngữ” cũng có đề cập
đến với nghóa hiển ngôn, nghóa hàm ẩn, tiền đề, phép kéo theo, nguyên tắc
hợp tác và hàm ý trong hội thoại.
Ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu về HN như Cao Xuân Hạo,
Hoàng Tuệ, Nguyễn Đức Dân, Lê Bá Miên, Lê Xuân Mậu, Đào Thản,
Gillian Brown và George Yule…
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng những tri thức lý thuyết đã có, chúng tôi
sẽ cố gắng tìm ra những phương thức tạo hàm ngôn phổ biến trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan.
2.2. Vấn đề hàm ngôn và các phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác
Nguyễn Công Hoan thì hầu như chưa có bài viết nào, chưa có công trình nào
đi sâu vào tìm hiểu và phân tích cụ thể.
Chúng tôi mới thấy có đề tài: “Vai trò của hư từ trong việc hình thành
hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan” (luận văn Thạc só của Nguyễn
5
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Văn Hương) có đề cập đến hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan qua
một mảng nhỏ (hư từ) và công trình “Thi pháp truyện ngắn trào phúng
Nguyễn Công Hoan” của Trần Đình Sử – Nguyễn Thanh Tú, có đề cập đến
lời văn trào phúng, nghệ thuật kể chuyện trào phúng của Nguyễn Công Hoan.
Nhưng nhìn chung những phát hiện những tìm tòi về các phương thức, các
nguyên tắc mà Nguyễn Công Hoan sử dụng cũng đều nhằm mục đích tìm ra
bản chất của tiếng cười, mà chưa đi sâu vào tìm hiểu ý nghóa hàm ngôn từ
những phương thức tạo HN.
Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét “Nhìn chung tiếng nói văn học của Nguyễn
Công Hoan là tiếng nói giản dò, trong sáng, linh hoạt, mới mẻ và rất đỗi Việt
Nam” [5, 173]. Theo Phan Cự Đệ thì từ cách ăn nói đầy ngụ ý của người Việt,
Nguyễn Công Hoan khuyên các nhà văn trẻ phải giữ gìn bản sắc dân tộc, “Cố
gắng dùng cho hết tiếng nói Việt Nam”, “Dùng cho đúng lối nói Việt Nam” [5,
200].
Phong Lê nhận xét về cách dùng chữ đầy ẩn ý của Nguyễn Công
Hoan: “Ngẫm ra thật “Sợ” cho ngữ ngôn, cho văn tự, cho chữ nghóa Nguyễn
Công Hoan: “Oẳn tà rroằn”, “Ngựa người người ngựa” …” [5, 246].
Theo Trương Chính, Nguyễn Công Hoan rất công phu trong việc dùng
chữ: “Cách dùng chữ của ông ngộ nghónh đôi khi đến vui” , “Ôâng viết như ông
nói, ông không tìm kiếm chữ hay là ông không để cho ta thấy ông tìm kiếm
chữ” [5, 294].
Nguyễn Công Hoan đặc biệt hay sử dụng việc chơi chữ ở nhiều dạng
khác nhau để tạo ra ý nghóa khác cho câu văn: “có khi ông đặt nghóa bóng,
nghóa đen lấp lửng bên nhau” [5, 415].
Nguyễn Thanh Tú nhận xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là một
thứ ngôn ngữ suồng sã để “lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập
vỡ vỏ ngoài để nhìn vào bên trong”” [5, 424], lối chơi chữ và phép nghòch
6
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
nghóa được dùng rất phổ biến trong câu văn Nguyễn Công Hoan. “Cơ chế của
phép châm biếm mỉa mai là nói A sao để cho độc giả thấy rằng cái mà mình
muốn nói không phải là A”, “trong lời văn nó thể hiện ở cách nói vòng…” [5,
427].
Thúc Nhuận tìm ra cái ý nghóa sâu xa bên trong chuyện “Bữa no đòn”.
Đó là “Cái thâm ý của ông Hoan là muốn nói đến dư luận ở nước ta. Một ít xít
ra thật nhiều” [5, 285].
Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu đi vào tìm hiểu cụ thể các
phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn sẽ đi vào tìm hiểu một cách khái quát nhất về hàm ngôn và
một số thuật ngữ liên quan. Đó sẽ là những tiền đề cho việc phát hiện một số
phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác Nguyễn Công Hoan.
4. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn tìm hiểu thuật ngữ hàm ngôn và các thuật ngữ có liên quan
đến HN như: TGĐ, nghóa tường minh, hàm ý Thông qua những lý thuyết đã
có, chúng tôi đi vào tìm hiểu một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan (đặc biệt là mảng truyện ngắn trào phúng).
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tiếp cận văn bản
- Phương pháp tổng hợp
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Về mặt lý luận, luận văn hệ thống lại những lý thuyết cơ bản về HN
giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát về hàm ngôn.
7
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Việc tìm ra phương thức tạo hàm ngơn trong sáng tác Nguyễn Cơng Hoan
sẽ góp phần giảng dạy những tác phẩm của ơng trong nhà trường phổ thơng nói
riêng và những tác phẩm của các tác giả khác nói chung.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu kết luận, luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan.
8
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. HÀM NGÔN VÀ CÁC THUẬT NGỮ CÓ LIÊN QUAN
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hàm ngôn, tuy còn
nhiều điểm chưa thống nhất nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng
nghóa HN là nghóa không hiện ngay ra trên bề mặt phátù ngôn. Đi tìm nghóa
hiển ngôn là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Nói cái gì?”, “Nói như thế
nào?”và ngược lại đi tìm nghóa HN là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Nói thế
là có ý gì?”, “Biểu thò tình cảm gì?”. Hiển ngôn là “Cái người ta nói ra” còn
HN là “cái người ta muốn nói ra”.
Theo Đỗ Hữu Châu trong “Đại cương ngôn ngữ học –Ngữ dụng
học”(Tập 2) thì một phát ngôn ngoài cái ý nghóa được nói ra trực tiếp nhờ các
yếu tố ngôn ngữ (âm, từ, kết cấu cú pháp…) còn có rất nhiều ý nghóa khác mà
chúng ta phải dùng đến thao tác suy ý (inferense) dựa vào ngữ cảnh, ngôn cảnh,
vào các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội
thoại… mới nắm bắt được. Ý nghóa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại
được gọi là ý nghóa tường minh, có tác giả gọi là hiển ngôn, còn được gọi là ý
nghóa theo câu chữ của phát ngôn. Các ý nghóa nhờ suy ý mới nắm bắt được gọi
là ý nghóa hàm ẩn [1,359].
Tác giả cũng dẫn ra và khẳng đònh quan điểm của Grice về việc phân
biệt những ý nghóa được suy ra một cách ngẫu nhiên (ý nghóa tự nhiên) với
những ý nghóa được truyền đạt một cách có chủ đònh của người nói và được
người nghe nhận biết [1,361].
Tác giả đưa ra bảng phân loại ý nghóa hàm ẩn và đònh nghóa cụ thể như
sau:
9
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Hàm ngôn nghóa học
Hàm ngôn
Hàm ngôn dụng học
Ý nghóa hàm ẩn
TGĐ nghóa học
Tiền giả đònh
TGĐ dụng học
HN là những hiểu biết hàm ẩn có thể suy ra từ ý nghóa tường minh và
tiền giả đònh (TGĐ) của ý nghóa tường minh [1,367]. Còn TGĐ được xem là
bất tất phải bàn cãi, bất tất phải đặt lại thành vấn đề, đã được các nhân vật
giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào chúng mà người nói tạo nên ý nghóa
tường minh trong phát ngôn của mình [1,366].
Để minh hoạ, Đỗ Hữu Châu đưa ra ví dụ:
- Vũ hội làm chúng ta quên rằng bây giờ đã mười hai giờ đêm rồi.
Ý nghóa tường minh của phát ngôn này là: Vũ hội đã kéo dài đến mười
hai giờ đêm.
TGĐ (Presuppstion –ký hiệu pp’):
pp’1: Có một cuộc vũ hội
pp’2: Vũ hội được tổ chức vào ban đêm
pp’3: Vào ban đêm cần nhớ không nên thức quá khuya
pp’4: Đối với sinh hoạt thông thường của người Việt Nam, mười hai giờ
đêm là đã quá khuya rồi.
HN (implicitation –ký hiệu imp): Tuỳ theo hoàn cảnh giao tiếp và ý
đònh của người nói và tuỳ theo tư cách của người nói (Người tổ chức vũ hội
hay người dự) mà phát ngôn này có thể có các HN:
Imp1: Chúng ta cần phải giải tán thôi
10
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Imp2: Vũ hội thành công, chứng cớ là mọi người đã quên mệt mỏi vì giờ
giấc.
Theo tác giả thì HN và TGĐ có dấu hiệu phân biệt với nhau nhờ ngữ
cảnh: TGĐ nói chung ít lệ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp còn HN lệ thuộc sâu
sắc vào ngữ cảnh giao tiếp [1,362]. Ngoài ra, TGĐ phải có quan hệ với các
yếu tố ngôn ngữ cấu thành phát ngôn, phải có những dấu hiệu ngôn ngữ đánh
dấu nó. Còn HN không tất yếu phải được đánh dấu bởi các dấu hiệu ngôn
ngữ. Hầu như TGĐ có lượng tin thấp - không có hiệu quả thông tin. HN (và ý
nghóa tường minh) có tính năng động hội thoại cao hơn TGĐ. TGĐ có những
đặc điểm sau đây trong khi HN không có:
Tính chất kháng phủ đònh (HN thì không giữ nguyên khi phát ngôn
chuyển từ khẳng đònh sang phủ đònh).
Tính chất bất biến khi phát ngôn thay đổi về hành vi ngôn ngữ tạo ra
nó (HN không giữ nguyên khi hành vi ngôn ngữ thay đổi).
Tính chất không thể khử bỏ trong cùng một phát ngôn bởi cùng một
người nói ra (HN có thể khử một cách dễ dàng nhờ các kết tử đối nghòch).
Đỗ Thò Kim Liên cũng thống nhất với Đỗ Hữu Châu về phân biệt ý
nghóa tường minh và ý nghóa hàm ẩn trong hội thoại. Tác giả đònh nghóa:
“Nghóa tường minh là ý nghóa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại hay ta
còn gọi là ý nghóa câu chữ” [12, 235]. Và cũng phân biệt ý nghóa hàm ẩn tự
nhiên với ý nghóa hàm ẩn không tự nhiên dựa trên hai tiêu chí: Bản chất của
phát ngôn và chức năng tác động của phát ngôn đến người nghe.
Nghóa hàm ẩn bao gồm TGĐ và HN. TGĐ là những tri thức, sự hiểu
biết về từ ngữ hay về những phát ngôn cụ thể mà đã được các nhân vật tham
gia giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, bất tất phải bàn cãi và họ dựa vào đó để
nói lên ý nghóa tường minh trong phát ngôn của mình [12, 238]. HN là những
11
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
hiểu biết có thể suy ra từ ý nghóa tường minh và TGĐ, đây là ý nghóa đích
thực mà người nói hướng đến người nghe [12, 252].
Tác giả cho rằng HN và TGĐ có điểm giống nhau là đều không được
diễn đạt một cách trực tiếp, đều là ý nghóa có được nhờ thao tác suy ý và
khác nhau ở chỗ: TGĐ có trước khi có phát ngôn còn HN thì có sau khi phát
ngôn; TGĐ không phụ thuộc vào ngữ cảnh trong khi đó HN luôn phụ thuộc
ngữ cảnh, được suy ra từ ngữ cảnh; TGĐ không mang nội dung thông báo
nhưng nó là những tri thức cần thiết để hiểu phát ngôn còn HN luôn mang nội
dung thông báo; TGĐ không có tính khử bỏ trong khi đó HN lại có.
Theo tác giả để tránh sự nhàm chán cho người nghe cần lưu ý một số
quy tắc hội thoại như: Cần nói sao cho có cái mới; Cần phải nói đầy đủ sự
thật; Không bỏ qua những chi tiết quan trọng cần thiết; Cần phải nói vào đề,
tránh hiện tượng nói lạc đề hay không cùng chiếu vật.
Hoàng Phê cho rằng trong sử dụng ngôn ngữ, lắm khi chúng ta nói một
điều này nhưng lại muốn người nghe hiểu từ đó hiểu ra một điều khác, hoặc
hiểu thêm một điều khác nữa. Điều nói gián tiếp đó gọi là HN, đối lập với hiển
ngôn là điều nói ra trực tiếp [15, 89]. HN thường phụ thuộc nhiều vào ngôn
cảnh và hiện tượng thuộc lời nói.
Trong hiển ngôn có sự đối lập giữa cái đã biết và cái mới. Sự đối lập
này cho phép vạch ra trong ngữ nghóa của lời sự đối lập khác, rộng hơn giữa
phần không có giá trò thông báo (gồm có TGĐ và cái đã biết trong hiển ngôn)
với phần có giá trò thông báo (gồm cái mới trong hiển ngôn và hàm ngôn)
[15, 95].
Tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa HN và TGĐ: Đó là mối quan hệ
chặt chẽ và tác động lẫn nhau, cùng với hiển ngôn TGĐ là cơ sở cho HN. Mối
quan hệ giữa TGĐ và HN làm xuất hiện trường hợp: Khi TGĐ bò triệt tiêu thì
12
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
nội dung của nó không mất đi mà lại chuyển thành nội dung của HN và từ
không có giá trò thông báo đến có giá trò thông báo.
TGĐ là những điều mà phải coi như đã biết rồi, hoặc nếu chưa biết thì
cũng phải thừa nhận là đúng như vậy thì câu hoặc lời mới thật sự có ý nghóa
[15, 94].
HN là những gì người nghe tự mình suy ra từ hiển ngôn (và TGĐ), để
hiểu được đúng và đầy đủ ý nghóa của lời trong một phát ngôn nhất đònh [15,
107].
Trong HN có hàm ý và ngụ ý.
Cấu trúc ngữ nghóa của lời có thể là một cấu trúc nhiều tầng, gồm:
TGĐ, hiển ngôn, HN.
Theo Hồ Lê, trong phát ngôn có ý nghóa hiển hiện và ý nghóa hàm ẩn, ý
nghóa hiển hiện là loại ý nghóa mà các phương tiện để thể hiện nó hiện rõ trên
bề mặt hình thức phát ngôn. Trái lại, ý nghóa hàm ẩn là loại ý nghóa mà các
phương tiện để thể hiện nó đều không hiện rõ trên bề mặt hình thức phát ngôn.
Chúng có thể nằm xung quanh phát ngôn (như văn chu), ở bên ngoài phát ngôn
(như hoàn cảnh nói năng / viết lách), và ở tầng sâu hơn bề mặt hình thức phát
ngôn (như: những liên tưởng phi tuyến tính , nói lái…) [11, 324].
Tác giả nêu ra ba kiểu quan hệ về nội dung giữa ý nghóa hiển hiện và
ý nghóa hàm ẩn đó là: Ý nghóa hàm ẩn có nội dung khác với ý nghóa hiển
hiện; Ý nghóa hàm ẩn có nội dung bổ sung thêm một phương diện nào đó của
ý nghóa hiển hiện và ý nghóa hàm ẩn vừa có nội dung khác với ý nghóa hiển
hiện vừa có bổ sung thêm một phương diện nào đó của ý nghóa hiển hiện [11,
333].
Từ ý nghóa hiển hiện có thể phân tích ra thành hiển nghóa và hiển ý.
Hiển ngôn là sự kiện được phản ánh trong phát ngôn bằng phương thức hiển
13
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
ngôn. Hiển ý là “tình thái” được phản ánh trong phát ngôn bằng phương thức
hiển ngôn.
Từ ý nghóa hàm ẩn có thể phân tích ra hàm nghóa và hàm ý. Hàm nghóa
phản ánh những phương diện nghóa hàm ẩn bổ sung cho hiển ngôn của phát
ngôn. Hàm ý thì phản ánh tất cả những ý nghóa tình thái hàm ẩn mà người
phát ngôn kí thác vào phát ngôn nằm ngoài ý nghóa hiển hiện của phát ngôn,
trong đó có việc nó biểu thò những sở chỉ khác với những sở chỉ mà hiển ngôn
của phát ngôn biểu thò [11, 335].
Nói về mối quan hệ giữa ý nghóa hàm ẩn, ý nghóa hiển hiện và TGĐ,
tác giả cho rằng: Từ nghóa hiển hiện có thể dẫn đến ý nghóa hàm ẩn. Điều
kiện dẫn xuất là sự suy ý và TGĐ của phát ngôn. Mối quan hệ giữa ý nghóa
hàm ẩn và ý nghóa hiển hiện còn được thể hiện thông qua ẩn ý, ngụ ý và
dụng ý.
Nói chung nội dung của phát ngôn bao gồm TGĐ của phát ngôn và ý
nghóa của phát ngôn. TGĐ là điều kiện được giả đònh từ trước (Từ phía người
phát ngôn mà được xã hội chấp nhận) để cho trong lónh vực của cơ chế ngôn
giao, thì phát ngôn / đoạn văn, đoạn ngôn / văn bản, ngôn bản hoặc lời nói
chung có cơ sở hợp lí để có thể hiểu được, để cho trong lónh vực bộ máy ngôn
ngữ, thì các đơn vò từ vựng có thể được đònh nghóa rõ ràng [11, 349]. Hoặc
TGĐ là cái phần nội dung trong phát ngôn có tác dụng làm cơ sở cho sự hiểu
và sự đánh giá tính hợp lý hay không hợp lý của ý nghóa phát ngôn [11, 362].
Trên cơ sở đó, tác giả đi vào phân tích hiển ngôn và phân tích HN.
Phương thức hiển ngôn là đơn vò ngôn giao chỉ mang ý nghóa hiển hiện
mà không mang ý nghóa hàm ẩn. Hàm ngôn là đơn vò ngôn giao mang ý nghóa
hàm ẩn nhưng đồng thời cũng mang cả ý nghóa hiển hiện [11, 345].
14
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Phương thức HN phải bao gồm trong nó việc đưa câu vào ngữ huống, việc sử
dụng sử dụng những kết cấu ngôn từ bất bình thường và sử dụng những quan
hệ phi cấu trúc câu mà có khả năng biểu đạt một ý nghóa nào đó.
Theo Cao Xuân Hạo, “mỗi câu nói đều truyền đạt đến người nghe một
thông báo nhất đònh. Thông báo này thường gồm hai phần. Phần thứ nhất là
những gì người nghe có thể trực tiếp nhận ra nhờ nghóa nguyên văn (Gồm
nghóa đen và một số nghóa bóng quen thuộc) của những từ ngữ có mặt trong
câu và nhờ mối quan hệ cú pháp giữa các từ ngữ ấy: Đó là nghóa hiển ngôn
của câu nói. Phần thứ hai là những gì không có sẵn trong nghóa nguyên văn
của các từ ngữ và trong mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người
nghe thông qua một sự suy diễn : Đó là nghóa hàm ẩn của câu nói” [6, 468].
Hay hiển ngôn là là nội dung mà trực tiếp nói rõ bằng từ ngữ của mỗi câu nói.
Còn hàm ẩn là những thông báo cho người nghe không thấy có trong nghóa
nguyên văn của từ ngữ. Nghóa hàm ẩn bao gồm TGĐ và hàm ý [6, 470].
TGĐ của một câu nói là một điều gì phải dược giả đònh là đã có từ
trước khi nói câu đó vì nếu không có điều này thì không thể nói câu đó dược.
Hàm ý của một câu nói là một điều gì mà khi nghe câu ấy, người nghe
phải rút ra như một hệ quả tất nhiên [6, 469].
Trong công trình nghiên cứu này Cao Xuân Hạo cũng lưu ý một số quy tắc:
“Nói cho có nội dung”, “Nói cho đúng sự thật”, “Nói vào đề”.
Trong “ Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng” - (1991) tác giả lại
phân phát ngôn thành tiền ước, TGĐ và HN: Những tiền ước của đối thoại
bao gồm những hiểu biết chung của người nói và người nghe về cái thế giới
trong đó hai bên sinh hoạt, về tình huống của đối thoại về lòch sử và cương vò
của hai bên v.v… Những TGĐ của phát ngôn gồm những hiểu biết của hai bên
về sự tồn tại của các chủ đề, về tính hiện thực của những sự việc được nói tới.
HN là những ý nghóa được chuyển đạt không trực tiếp thông qua nguyên văn
15
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
bằng cách dùng nội dung nghóa của nguyên văn để làm cho người nghe từ đó
suy ra một ý khác.
Nguyễn Thiện Giáp nhận đònh trong phát ngôn có hiển nghóa- Tức là cái
ý nghóa mà họ có thể rút ra được từ nguyên văn nghóa đen và cả nghóa bóng
của các từ ngữ có mặt trong câu và từ những mối quan hệ cú pháp giữa các từ
ấy và một loại ý nghóa không có sẵn trong nghóa nguyên văn của từ ngữ và
trong các mối quan hệ cú pháp của câu nhưng vẫn thấu đến người nghe qua
một sự suy luận – đó là nghóa hàm ẩn.
Tác giả gọi TGĐ là tiền đề và đònh nghóa “tiền đề là cái gì đó mà người
nói coi như đã có trước khi nói câu đó”. Người nói chứ không phải câu có tiền
đề.
Hoàng Tuệ nhận đònh rằng: Đối với ý nghóa của phát ngôn, phần lớn các
nhà nghiên cứu dùng phương pháp lưỡng phân, tức chia đôi thành nghóa hiển
ngôn và nghóa hàm ngôn.
Hiển nghóa là cái ý nghóa hiện rõ từ hình thức bề mặt của phát ngôn còn hàm
ngôn không hiện rõ từ bề mặt của phát ngôn. Dựa vào đònh nghóa của Kerbrat
Orchioni Hoàng Tuệ phát biểu:
TGĐ bao gồm những thông tin tuy không được nói ra, nhưng một cách
tự động, được ghi vào phát ngôn, và từ phát ngôn được suy ra.
HN là những thông tin được chuyển đến bằng một phát ngôn, nhưng sự hiện
thực hoá chúng vẫn phải phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể.
TGĐ và nghóa ẩn ý chung lại là nghóa HN [17, 932].
Gillian Brown –Georeg Yule dẫn quan điểm của Givón: TGĐ “Nó
được quy đònh trên cơ sở các giả đònh về những điều mà theo người nói thì
người nghe có thể chấp nhận không tranh cãi” [4, 54] và đònh nghóa của
Stalnaker: “TGĐ, là cái mà người nói xem là cơ sở chung của những người
cùng tham gia hội thoại”[4, 55]. Hai tác giả xem đó như là đặc điểm của TGĐ
16
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
và lưu ý nguồn chỉ đònh của TGĐ là người nói chứ không phải là TGĐ của
câu hay mệnh đề.
“Hàm ý” được Grice dùng để giải thích điều người nói ngụ ý, đề nghò
hay muốn nói, khác với điều ta thực tế nói ra. Có những hàm ý quy ước, mà
theo Grice, “được quy đònh bởi quy ước từ”.
Hàm ý trong hội thoại xuất phát từ nguyên lý chung trong hội thoại và
một số châm ngôn (maxim) mà người nói thường tuân theo. Một số nguyên
tắc chung là nguyên tắc hợp tác. Những quy ước hội thoại, hay châm ngôn, hỗ
trợ cho nguyên lý trên gồm có: Lượng, chất, quan hệ, phương cách, lòch sự…
Trong bài “Hàm ngôn và dạy hàm ngôn”, Lê Xuân Mậu bàn về vấn
đề nhận diện HN và dạy HN. Tác giả nêu ra những điều chưa thống nhất của
các nhà ngôn ngữ học và đề nghò nên có sự thống nhất về nội dung HN, về
cách nhận biết và phân tích các HN thông thường để làm cơ sở cho việc giảng
dạy HN ở trường phổ thông.
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nghóa HN là nghóa
không hiện ngay trên bề mặt của phát ngôn, đối lập với hiển ngôn là nghóa
hiện rõ từ hình thức bề mặt của phát ngôn. Dù cách dùng tên thuật ngữ chưa
thống nhất (Tiền ước, TGĐ, hàm ẩn, hàm ý, HN… tuỳ từng tác giả) nhưng về
bản chất thì chúng giống nhau. Theo cách hiểu phổ biến nhất chúng tôi đồng
tình với quan điểm cho rằng trong phát ngôn có các tầng nghóa là hiển ngôn
và hàm ẩn. Trong đó hàm ẩn gồm TGĐ và HN. Chúng tôi cũng xin chốt lại
đònh nghóa về các thuật ngữ đó như sau:
TGĐ là những tri thức, sự hiểu biết về từ ngữ hay về những phát ngôn
cụ thể mà đã được các nhân vật tham gia giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, bất
tất phải bàn cãi và dựa vào đó để nói lên ý nghóa tường minh trong phát ngôn
của mình.
17
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
HN là nghóa không lộ ra ngay trên câu chữ mà là nghóa được suy ra từ
nghóa tường minh và TGĐ nhờ vào tình huống phát ngôn, cách thức sử dụng
mẫu câu, từ ngữ và quy tắc suy nghó hợp logic.
1.2. MỘT SỐ CÁCH PHÂN LOẠI HÀM NGÔN
Có nhiều cách phân loại HN, mỗi tác giả phân loại HN dựa trên những
tiêu chí, căn cứ nhất đònh nào đó. Nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều phân
HN thành hai loại trên cơ sở ngữ nghóa của từ ngữ và hoàn cảnh, tình huống giao
tiếp.
Kế thừa quan điểm của Grice, Đỗ Hữu Châu chia ý nghóa hàm ẩn thành
hai loại: Hàm ẩn quy ước (Hàm ẩn từ vựng) và hàm ẩn hội thoại. Hàm ẩn quy ước
là những ý nghóa hàm ẩn được diễn đạt bởi các tín hiệu quy ước từ các yếu tố
trong cấu trúc hình thức ngôn ngữ. Để nắm bắt được, người nghe phải suy ý từ ý
nghóa của các phương tiện ngôn ngữ này đó là các từ , các ngữ hoặc do cấu trúc
câu.
Hàm ẩn hội thoại thì không được gợi ra do các yếu tố quy ước mà do
cách vận dụng các quy tắc hội thoại và các phương châm hội thoại. Hàm ẩn
hội thoại được chia thành hàm ẩn hội thoại khái quát và hàm ẩn đặc thù.
Hàm ẩn khái quát là hàm ẩn không bò chi phối bởi ngữ cảnh giao tiếp;
người nói vẫn tôn trọng phương châm và các quy tắc cộng tác hội thoại tạo ra
chúng.
Hàm ẩn đặc thù là hàm ẩn mà người nói phải cố tình “vi phạm” một
hoặc một số phương châm hội thoại để tạo ra chúng.
Sơ đồ tổng quát về nội dung giao tiếp theo tinh thần của Grice về ý nghóa hàm
ẩn:
18
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Ý nghóa KTN
Được nói ra Hàm ẩn
(Tường minh)
Quy ước Không quy ước
Không hội thoại Hội thoại
Khái quát Đặc thù
Theo Đỗ Hữu Châu, cách phân biệt các hàm ẩn là TGĐ với các hàm ẩn là
HN của Grice không theo cách hiểu của chúng ta và giữa hàm ẩn quy ước với
hàm ẩn hội thoại, giữa hàm ẩn khái quát với hàm ẩn đặc thù có nhiều trường
hợp khó phân biệt. Do vậy, tác giả đồng ý TGĐ và HN thuộc phạm trù ý
nghóa hàm ẩn. Hàm ngôn được phân thành hàm ngôn ngữ nghóa và hàm ngôn
ngữ dụng. Trong đó lónh vực ngữ nghóa gồm tất cả những yếu tố có quan hệ
với nội dung miêu tả (xác tín) được biểu thò bởi các tín hiệu ngôn ngữ một
cách tường minh, nội dung miêu tả này làm thành cái lõi mệnh đề cho phát
ngôn. Các nội dung khác có liên quan tới lónh vực ngữ dụng như chỉ xuất, lập
luận, hội thoại… [1,393].
Hàm ngôn ngữ nghóa là HN được suy ra từ nội dung tường minh của phát
ngôn, là các luận cứ hay kết luận không được nói ra một cách tường minh mà để cho
người nghe dựa vào quan hệ lập luận mà rút ra [1 ,393]. Ví dụ:
- Ừ thì lấy! Con lớn thuốc, con bé thuốc… thuốc lắm rồi sau cũng có
bận đi ăn mày (Nam Cao).
HN ngữ nghóa là: “Hết cả tiền”. Có thể dựng lại quan hệ lập luận như
sau:
19
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
“Thuốc lắm thì hết cả tiền, hết cả tiền mà không có việc thì phải đi ăn mày
mới sống được”. Tác giả bỏ đi luận cứ trung gian, luận cứ này trở thành một
HN. Bằng phát ngôn này nhân vật Điền muốn trách vợ về việc chỉ lo thuốc
cho con mặc dầu bệnh của chúng không đáng lo mà không nghó đến việc tiền
nong bò cạn kiệt [1,394].
HN ngữ nghóa có cơ sở là các lẽ thường (topos). HN ngữ nghóa có thể là
HN lập luận, HN mệnh đề (vì nó căn cứ vào mệnh đề được diễn đạt một cách
tường minh trong phát ngôn). Xét theo sự phân loại của Grice thì HN ngữ
nghóa phần lớn là HN khái quát (chúng dựa trên lẽ thường, ít lệ thuộc vào ngữ
cảnh giao tiếp).
HN ngữ dụng là HN do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng (quy tắc chỉ
xuất, quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, quy tắc chi phối các hành vi ngôn
ngữ, quy tắc hội thoại trong đó quan trọng nhất là phương châm và các
nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice) mà có.
Theo quan điểm của Hoàng Phê thì trong HN có hàm ý và ngụ ý – hình
thức đặc biệt là ẩn ý nằm ở lớp sâu nhất trong cấu trúc logic ngữ nghóa của lời
[15, 115].
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ thì cái đã biết là hiển ngôn và TGĐ
(Tức là những gì nói ra trực tiếp coi như là đã biết rồi) còn cái chưa biết là
HN (Tức là những gì người nói muốn nói mà không trực tiếp nói ra. Hoạt
động của tư duy từ hiển ngôn và TGĐ suy ra HN là một hình thức suy luận-
Gọi là suy ý (suy luận để biết cái ý của người nói)).
Hàm ý là một phần nội dung HN có thể suy ý trực tiếp và không khó
khăn (không hoặc ít phụ thuộc vào ngôn cảnh).
Ngụ ý là phần nội dung HN phụ thuộc nhiều vào ngôn cảnh và phải
suy ý gián tiếp [15, 112].
20
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Trong HN có sự đối lập giữa hàm ý và ngụ ý. Sự đối lập này cho phép
vạch ra sự đối lập trong cấu trúc logic ngữ nghóa của lời, một bên là phần
người nghe nào trên nguyên tắc cũng có thể hiểu được ý của người nói, ít phụ
thuộc vào ngôn cảnh, gồm TGĐ, hiển nghóa, hiển ý. Và một bên là phần chỉ
có một số người nghe nhất đònh nào đó có thể hiểu được ý của người nói,
phần này phụ thuộc vào ngôn cảnh và chỉ có ngụ ý (Đối lập tương đối vì ranh
giới giữa hàm ý và ngụ ý chỉ là tương đối).
Hồ Lê phân ý nghóa hàm ẩn thành ý nghóa hàm ẩn ngữ huống và ý nghóa
hàm ẩn ngôn từ.
Ý nghóa hàm ẩn ngữ huống gồm những phát ngôn đơn giản, dễ hiểu,
gồm có hai tiểu loại: Ý nghóa hàm ẩn văn chu và ý nghóa hàm ẩn hoàn cảnh
[11, 327]. Ý nghóa hàm ẩn văn chu là ý nghóa hàm ẩn được tạo ra do sự tương
tác giữa phát ngôn với văn chu.Ý nghóa hàm ẩn hoàn cảnh là ý nghóa được tạo
ra do sự tương tác giữa phát ngôn với hoàn cảnh nói năng /viết lách.
Ý nghóa hàm ẩn ngôn từ là những phát ngôn có sự lắt léo về ngôn từ,
làm cho bản thân sự liên kết ngôn từ trong phát ngôn đã chứa đủ hai tầng ý
nghóa hiển hiện và ý nghóa hàm ẩn mà chưa cần tính đến sự tác động của ngữ
huống. Ý nghóa hàm ẩn ngôn từ cũng có hai tiểu loại: Ý nghóa hàm ẩn ngôn từ
phi cấu trúc và ý nghóa hàm ẩn ngôn từ bất bình thường.
Ý nghóa hàm ẩn ngôn từ phi cấu trúc câu được tạo ra bằng cách liên hệ
những từ ngữ hoặc những bộ phận nhất đònh của từ ngữ trong câu theo những
quan hệ phi cú pháp. Ý nghóa hàm ẩn ngôn từ có tính hạn chế (Dù ngữ huống
có thay đổi, ý nghóa hàm ẩn ngôn từ nếu được thể hiện ra vẫn không có gì
thay đổi), nên thường được gọi là ý nghóa hàm ẩn hạn chế [11, 330]. Ý nghóa
hàm ẩn ngữ huống có tính tự do (chỉ cần thay đổi ngữ huống thì ý nghóa hàm
ẩn ngữ huống vốn có sẽ thay đổi thành một ý nghóa hàm ẩn ngữ huống khác)
nên nó được xem là ý nghóa hàm ẩn tự do [11, 331].
21
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Riêng ý nghóa hàm ẩn ngôn từ phi cấu trúc câu nếu tách rời ngữ huống
thì chỉ còn là ý nghóa hàm ẩn dự cảm.
Theo Cao Xuân Hạo, ở trong câu, các từ ngữ đều có thể có những hàm ý
tuỳ theo ngữ cảnh và tình huống nói năng. Tuy nhiên cũng có những từ mang
sẵn một hàm ý thường xuyên không lệ thuộc vào văn cảnh và tình huống
(Như: những từ tình thái đặt trước vò từ trung tâm: bèn, đònh, toan, muốn…).
Tác giả phân loại thành hàm ý của từ , hàm ý của câu và của phát ngôn.
Hàm ý của từ hoặc hàm ý của câu và của phát ngôn đều có thể lộ rõ
trực tiếp từ nguyên văn của câu và còn có thể không lộ rõ trong nghóa nguyên
văn của câu mà thường là do tình huống hội thoại gợi lên.
Dựa vào quan điểm của Grice, tác giả phân hàm nghóa ngôn từ (HN
hội thoại) và hàm nghóa từ vựng (HN ước lệ) [6, 62].
Ví dụ: (Bà mẹ nói vói cô gái ngoài sân) Kìa mưa rồi con!
Trên câu chữ đó là một nhận đònh báo tin về thời tiết nhưng đó cũng có
thể là mệnh lệnh bảo cô con gái cất những thứ đang phơi ngoài sân vào nhà.
Nguyễn Thiện Giáp trong “ Dụng học Việt ngữ” phân loại phành HN
khái quát và hàm ngôn đặc thù.
Như vậy, dù cách phân loại của mỗi tác giả có sự khác nhau về tên gọi
nhưng tất cả đều phân loại theo cách lưỡng phân, dựa trên ngôn từ và ngôn
cảnh. Chúng ta có thể hiểu đơn giản hoá rằng: HN có hai loại, một là HN dựa
trên ngữ nghóa của ngôn từ mà có và hai là HN dựa vào ngữ cảnh mà có.
1.3. MỤC ĐÍCH DÙNG HÀM NGÔN
Một câu hỏi thường được đặt ra là: Tại sao người ta lại tránh nói thẳng
một cách hiển ngôn, bằng những từ ngữ chính xác được dùng theo nghóa đen,
mà bắt người nghe phải hiểu câu nói thông qua những ẩn dụ, hoán dụ, những
khúc ngôn, những lời nói mỉa, phải suy diễn ra những nghóa hàm ẩn nhiều khi
22
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
khá lắt léo? Nhất là khi đã phải tuân thủ những quy tắc hội thoại yêu cầu phải
minh xác, phải nói đầy đủ, phải nói vào đề, phải tránh rườm rà, v.v.?
Sở dó có hiện tượng hàm ý, hàm ngôn, là vì những yêu cầu phức tạp của
hoạt động giao tiếp xã hội, của sự tác động lẫn nhau giữa những con người
trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ, của nền văn hoá dân tộc (trong đó có
những nét chung cho toàn nhân loại) và xu hướng thẩm mỹ của con người [6,
517].
HN cho phép nói ra những điều mà không thể nói bằng hiển ngôn thật
đầy đủ và chính xác được. HN có tác dụng quan trọng trong phát ngôn, nó có
thể chuyển tải nhiều hơn ý nghóa của phát ngôn, để tăng tính hấp dẫn và tính
thuyết phục cho lời nói. Do vậy, nó được tích cực sử dụng và người nói thường
dùng HN với nhiều mục đích khác nhau.
1.3.1. NGƯỜI NÓI KHÔNG MUỐN NHẬN TRÁCH NHIỆM VỀ LỜI NÓI CỦA MÌNH
Theo Hoàng Phê thì muốn“nói một cái gì đó mà không vì thế nhận
trách nhiệm là đã có nói, nghóa là vừa có được hiệu lực của nói năng, vừa có
được sự vô can của im lặng” [15, 95].
Khi dùng HN, người nói có thể nói bóng gió xa xôi, nói mát, nói
ngược… để người nghe tự suy nghó và rút ra nội dung thông tin chính mà
người nói muốn nói nhưng không có dấu hiệu nào để bắt bẻ và gán ghép ý đó
cho người nói. Theo Cao Xuân Hạo thì việc sử dụng HN còn do một nhân tố
tâm lý: Người ta không bao giờ muốn mang tiếng là nói xấu, dèm pha hay vu
khống người khác. Sử dụng HN, dù là một cách có thiện ý hay ác ý thì người
nói có thể phủ nhận cái ẩn ý chứa trong câu nói ra, khi có ai trách cứ [4, 518].
Ví dụ:
Viên phó thuyền trưởng của một chiếc tàu viễn dương nọ có thói nát
rượu. Một hôm thuyền trưởng phải ghi vào nhật kí của tàu: Hôm nay phó
thuyền trưởng lại say rượu. Hôm sau, đến phiên trực của mình, viên phó
thuyền trưởng đọc thấy mấy câu này trong nhật kí của tàu, giận lắm, liền viết
23
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
vào trang kế theo: Hôm nay thuyền trưởng không say rượu (Dẫn theo Cao
Xuân Hạo).
Đọc câu viết của phó thuyền trưởng thì ai cũng nghó thuyền trưởng say
rượu vào những hôm khác trong khi thuyền trưởng không hề uống rượu bao giờ.
Mặc dù ta biết đó là một lời vu khống nhưng trên nội dung nguyên văn thì hoàn
toàn đúng sự thật. Vậy nên nếu có ai trách cứ thì phó thuyền trưởng hoàn toàn
không chòu trách nhiệm và cho rằng mình viết đúng sự thật vì “hôm ấy thuyền
trưởng không say rượu. Tôi không hề viết là những hôm khác thuyền trưởng say
rượu”.
Hoặc trong “Mất cái ví” của Nguyễn Công Hoan, cách nói bóng gió
của ông tham là nghi cho cậu mình ăn cắp nhưng khi bò ông cậu hiểu ra thì
ông tham gạt phăng trách nhiệm với những câu nói trước đó mà cho rằng: “tự
ông đổ cho ông đấy”.
1.3.2. NGƯỜI NÓI DÙNG HÀM NGÔN VỚI MỤC ĐÍCH MỈA MAI CHÂM BIẾM
Người nói dùng HN để thể hiện thái độ mỉa mai ngầm ẩn khi bày tỏ
thái độ không đồng tình với những hành vi, việc làm của người nghe mà anh
ta cho là không tốt, không phải. Hoặc nhằm chê bai bằng một lời đánh giá
trái nghóa với lời đánh giá lẽ ra phải có.
Ví dụ: Con chồn chê chuột chù:
- Họ nhà mày hôi quá!
Chuột chù đáp:
- Phải, còn họ nhà mày thì thơm! (Truyện dân gian).
Cách nói đay này bề ngoài thì khen thơm nhưng thực chất lại là một lời
chửi xéo, “trả đũa” lại những lời phê phán, chê bai trước đó. Sắc thái mỉa
mai, châm biếm sâu cay thể hiện qua lời “khen đểu”. Phát ngôn thứ hai thể
hiện sự mỉa mai ngầm ẩn của chuột chù: Họ nhà mày thì hơn gì họ nhà tao mà
chê!
24
Một số phương thức tạo hàm ngôn trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan
Lời nói mỉa đắc dụng nhất là khi đối tượng tự đánh giá quá cao, “mục
tiêu chính của sự mỉa mai là cái khoảng cách quá lớn giữa giá trò hiện thực với
giá trò tự gán cho mình chứ không hẳn là cái giá trò quá thấp của người bò nói
mỉa”.
1.3.3. NGƯỜI NÓI MUỐN TIẾT KIỆM (LỜI)
Trong phát ngôn có thể chứa nhiều HN (ý tại ngôn ngoại) và được sử
dụng như là “một mũi tên trúng nhiều đích”. Người dùng HN luôn mong nuốn
nói được nhiều hơn cái nói ra.
Ví dụ: Một hãng sản xuất nước hoa của Pháp quảng cáo sản phẩm của
họ như sau: Đàn ông thật đễ tìm nhưng khó giữ, hãy giữ họ bằng nước hoa
Magique
(Dẫn theo Đỗ Thò Kim Liên).
Lời quảng cáo này chứa đựng nhiều lớp ý nghóa: Khuyên người phụ nữ
hãy dùng nước hoa để giữ người đàn ông của họ, quan trọng nhất là hãy mua
nước hoa Magique.
Hoặc trong phát ngôn: Bẩm quan, quan nên biết thương người.
(Bước đường cùng- Nguyễn Công Hoan).
Với câu nói ngắn gọn này, anh Pha có hàm ý nhắc nhở khéo Nghò lại,
vừa nhắc đến tình người cho nghò Lại thức tỉnh vừa cảnh báo hậu quả của
việc “không biết thương người” của ông ta.
1.3.4. NGƯỜI NÓI MUỐN GIỮ THỂ DIỆN CHO NGƯỜI NGHE
Người nói không muốn nói trắng ra mà nói tránh đi để người nghe
không cảm thấy bối rối, mất thể diện. Để nâng cao hiệu quả giao tiếp, người
nói phải chú ý tăng cường đề cao người khác và tránh hoặc giảm những hành
vi phương hại đến thể diện đó. Ví dụ:
Một ông quan không râu ăn cơm cùng một ông quan râu rậm, ông râu
rậm để cơm dính vào râu nhưng được tên lính hầu khéo léo bẩm: “Bẩm quan
lớn trong chòm râu của quan lớn có hạt ngọc minh châu ạ”; Thấy người đầy tớ
25