Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.16 KB, 107 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------




NGUYỄN THỊ THANH VÂN





ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. VŨ TUẤN ANH







Thái Nguyên, năm 2007
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------




NGUYỄN THỊ THANH VÂN





ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN












Thái Nguyên, năm 2007

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu
I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1
II. Lịch sử vấn đề 2
III. Phạm vi nghiên cứu 3
IV. Phương pháp nghiên cứu 4
V. Đóng góp của luận văn 4
VI. Cấu trúc luận văn 4
Nội dung

Chương 1: Yêu ngôn - một thế giới nghệ thuật huyền kỳ 5
1.1. Một cõi riêng trong văn chương Nguyễn Tuân và văn chương
đương thời
5
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù 14
Chương 2: Đặc trƣng thi pháp Yêu ngôn

19
2.1. Không gian - thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn 19
2.1.1. Không gian nghệ thuật 19
2.1.2. Thời gian nghệ thuật 33
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thường 37
2.3. Phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn 54
2.3.1. Nghệ thuật trần thuật 54
2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật 66
2.3.3. Giọng điệu 74
Chương 3: Sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị
nhân bản
77
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hoá 78
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản 85
Phần kết luận
96
Thƣ mục tham khảo
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU


I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

1. Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Sự
nghiệp sáng tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông
là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ
những nhà văn gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân
thuộc nhiểu thể loại: tùy bút, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự,

tự truyện, bút kí phê bình… Về truyện ngắn ông là cây bút xuất sắc. Vang
bóng một thời của ông được đánh giá như một tác phẩm “gần đạt đến độ
toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện ngắn Nguyễn Tuân tồn
tại một thể tài – thể tài yêu ngôn như cách ông đã từng định danh cho nó.
Đây là một thể tài đặc biệt, in đậm dấu vết sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sau
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới và từ những năm chín
mươi thế kỉ XX mới được tập hợp đầy đủ, được nhìn nhận như một mảng
tác phẩm có những nét riêng độc đáo trong toàn bộ sáng tác của ông.
2. Yếu tố kì ảo, chất huyền kì đang là một hướng đi, một hướng tìm tòi
tạo nên những đột phá quan trọng của nghệ thuật tự sự đương đại. Chất kì ảo
quái dị từng làm nên một dòng truyện đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX trong đó có
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đang được tiếp tục dòng chảy của nó vào văn
học đương đại, tạo nên sự khởi sắc của văn xuôi hôm nay.
3. Chọn đề tài “ Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn
Tuân” luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong
văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy
bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” mà cây bút bậc thầy Nguyễn
Tuân đã từng khai phá và sáng tạo đang tiếp tục được vận dụng trong văn
học đương đại, và cũng qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này
của văn học đương đại .
4. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên
cứu toàn diện hoặc nhiều khía cảnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn
Tuân: quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,
đặc trưng kí, tùy bút. Tuy vậy, mảng truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho
đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh

thể, một thể tài riêng với các khía cạnh nội dung và nghệ thuật có tính đặc
thù. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng
khảo sát còn mới mẻ này.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Trong dòng chảy văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại,
yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong diện mạo văn học.
Trong giai đoạn 1930 – 1945 gắn liền với thực tiễn sáng tạo, vấn đề
truyện truyền kì, yếu tố kì ảo đã được đề cập đến trong phê bình văn học.
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có các bài phê bình tác giả, tác
phẩm Lan Khai , Tchya , Nguyễn Tuân…
Trong khoảng mười năm trở lại đây, song song với sự phát triển chất
kì ảo, truyền kỳ trong văn học đương đại cùng với việc in lại các truyện
truyền kì, ma quái (Đêm bướm ma, Chuyến xe ma quái, Hồn hoa trở lại,
Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa…) đã có các bài giới thiệu, phê
bình loại truyện này.
Song song với sự phát triển chất kì ảo, truyền kì trong văn học
đương đại, đã có nhiều bài phê bình, luận án đề cập đến vấn đề này. Có thể
kể các bài viết chuyên sâu, các luận án đề cập đến vấn đề này: Truyện kì ảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
hiện đại – dư ba của truyện truyền kì truyền thống (Bùi Thị Thiên Thai),
Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt Nam (Phạm Văn
Thắm), Huyền thoại , một điều thú vị (Trần Duy Châu) , Phương thức huyền
thoại trong văn học Việt Nam từ sau 1975 (Lê Thị Hường), Truyện thần linh
ma quái và vấn đề giáo dục con người (Vũ Ngọc Khánh), Ma và vô thức –
bức tranh sáng tối của hương hồn (Trần Thanh Ngoạn).
Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in Yêu ngôn, một tuyển tập
những đoản thiên có tính huyền bí nhưng chưa kịp làm. Nhiều năm sau khi
Nguyễn Tuân qua đời, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, giới
thiệu và cho in Yêu ngôn (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1998).

Sau khi Yêu ngôn được xuất bản, đã có một vài bài của các nhà nghiên
cứu, phê bình đề cập đến tác phẩm: Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Như Mai,
Vương Trí Nhàn, Thụy Khuê, Trương Chính...ở những bài viết này thường
tập trung nói về những nét độc đáo của một số truyện mà chưa có sự đánh
giá khái quát về toàn bộ những sáng tác có tính chất yêu ngôn của Nguyễn
Tuân. Lời giới thiệu Yêu ngôn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng
chỉ dừng lại ở chỗ phác họa diện mạo cơ bản của yêu ngôn. Một số bài viết
của các nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài cũng chú ý tới một số vấn
đề trong Yêu ngôn. Nhìn chung mỗi người mỗi thế mạnh riêng, góp phần
dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhưng
chưa hoàn toàn tập trung vào việc xem Yêu ngôn như một thế giới nghệ
thuật đặc thù trong văn chương Nguyễn Tuân.

III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Tập Yêu ngôn do Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm tuyển chọn-nhà xuất
bản Hội nhà văn, 1998, gồm tám truyện: Khoa thi cuối cùng, Trên
đỉnh non Tản, Đới roi, Xác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong
tranh, Loạn âm, Tâm sự của nước độc (tức Chùa Đàn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Một số truyện ngắn khác của Nguyễn Tuân gần gũi với Yêu ngôn (Tóc
chị Hoài, Bữa rượu máu, Vườn xuân lan tạ chủ…)
- Một số truyện của các tác giả khác thuộc thể loại này: Thần Hổ, Ai
hát giữa rừng khuya (Tchya), Suối đàn (Lan Khai)…
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thi pháp học thể loại:
Vận dụng thi pháp thể loại (các yếu tố không gian- thời gian nghệ thuật,
nhân vật, nghệ thuật và hình thức tự sự), để làm sáng tỏ thể tài Yêu ngôn.
2. Phương pháp phân tích tác phẩm:
Nhằm làm rõ nội dung và nghệ thuật trong các truyện Yêu ngôn

3. Phương pháp hệ thống:
Xem xét thể tài yêu ngôn như một hệ thống hoàn chỉnh với những đặc
điểm riêng như một thế giới nghệ thuật đặc thù trong văn Nguyễn Tuân.
4. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Các truyện Yêu ngôn sẽ được nhìn nhận và đánh giá trong sự so sánh
đối chiếu với nhau và với các loại truyện kỳ ảo đương thời của các tác giả
đương thời để làm rõ những đặc sắc riêng trong tương quan chung.
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của loại truyện yêu ngôn
trong sáng tác của Nguyễn Tuân, xác định những giá trị của nó trong sự
phát triển loại truyện truyền kì hiện đại.
- Từ việc khẳng định những đặc sắc của thể tài yêu ngôn trong sáng tác
của Nguyễn Tuân, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn
như một truyền thống hòa nhập vào văn xuôi đương đại.
VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được viết
theo 3 chương sau:
Chương 1: Yêu ngôn – Một thế giới nghệ thuật huyền kỳ.
Chương 2: Đặc trưng thi pháp yêu ngôn.
Chương 3: Sự thăng hoa của cái đẹp và những giá trị nhân bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chương 1:
YÊU NGÔN - MỘT THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT HUYỀN KỲ

Huyền kì, kì ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
chết đi khi bước sang thế kỉ XX” [53, tr25 ].
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như một phạm trù tư duy

nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc sống
nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định.
Thế giới nghệ thuật là “sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có
thể cảm thấy được của người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong
chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của
mọi yếu tố đang dạng trong tác phẩm” [53, tr28]. Với tư cách là thủ pháp
nghệ thuật chủ đạo, yếu tố huyền kì, kì ảo đã tác động đến mọi phương diện
của truyện, mang lại cho nó những đặc trưng riêng tạo nên một thế giới nghệ
riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng của đời sống văn học. Yêu ngôn của
Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài những đặc điểm ấy.
1.1. Một cõi riêng trong văn chƣơng Nguyễn Tuân và văn chƣơng
đƣơng thời
1.1.1. Tính riêng biệt độc đáo của Yêu ngôn trong loại truyện
truyền kì, ma quái đương thời
Yếu tố kì ảo không hề xa lạ với văn học Việt Nam từ xa xưa của
lịch sử cho tới bây giờ. Ngay từ lúc mới hiện diện, văn học Việt Nam đã gắn
liền với kì ảo: “Kì ảo là một trong những đặc trưng của truyện dân gian,
không có kì ảo thì không thể có truyện dân gian vậy” [50, tr55]. Khả năng
tiềm tàng của thần thoại, cổ tích là dưỡng chất nuôi dưỡng nền văn hóa hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
đại. Với tư cách là “văn hóa gốc”, nguồn mạch dân gian bất tận suốt bao đời
vẫn không ngừng nghỉ bồi đắp cho dòng chảy của văn học, đồng thời có vai
trò quan trọng trong việc tạo nên tâm thức cộng đồng dân tộc: gần gũi và có
xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, biểu hiện thế giới quan thần
linh, tư duy huyền thoại trong quan điểm của người sáng tác văn học mọi
thời đại. Bên cạnh đó, đặc điểm của một xã hội nông nghiệp phương Đông
là nơi “tràn đầy những màu sắc lãng mạn thần kì”, cũng là môi trường thuận
lợi để yếu tố kì ảo này sinh, trường tồn. Những truyện kì lạ, hoang tưởng
còn được nâng cánh bởi cái nhìn thế giới với một niềm tin hồn nhiên là có

sự tương thông, tương giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới
thực tồn và thế giới siêu nhiên. Người ta xem những chuyện quái dị, hoang
đường là có thật. Niềm tin mang tính chât tâm linh vào những lực lượng
thần bí, siêu nhiên này đã góp phần tạo thành dòng tín ngưỡng ghi dấu ấn
sâu đậm vào mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động sáng tạo
nghệ thuật. Nghĩa là trong mỗi con người Việt Nam hiện đại vẫn tiềm ẩn
một tâm hồn phương Đông cổ xưa, đây chính là cơ sở tạo ra “tầm đón đợi”
thuận lợi đối với bộ phận văn học tiếp cận cuộc sống bằng những yếu tố kì
lạ, siêu nhiên nói trên.
Thời kì văn học 1930 – 1945 vẫn tiếp tục dòng chảy kì ảo của văn
học truyền thống, với xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, với
những câu chuyện li kì, ma quái. Trong văn chương hiện đại đã hình thành
một kiểu tư duy nghệ thuật về cuộc sống không phải bằng chất liệu hiện
thực quen thuộc mà bằng cái kì ảo, hư ảo. Mỗi nhà văn mỗi vẻ, bằng tài
năng và sự sáng tạo của mình đã làm nên sự phong phú, đa dạng ở thể tài
này. Có thể kể tên những tác phẩm nổi bật: “Ba hồi kinh dị”; “Trại Bồ tùng
linh” của Thế Lữ , “Ai hát giữa rừng khuya” của Tchya , “Tiền kiếp” của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Đỗ Huy Nhiệm, “Kim Ba chí dị” của Kim Ba, “Suối Đàn” và “Truyện
đường rừng” của Lan Khai…
Truyện của Lan Khai chủ yếu hấp dẫn người đọc bằng màu sắc xứ
lạ phương xa, tạo cảm giác ghê rợn đối với người miền xuôi bằng một
không gian miền núi là rừng rú, là chốn sơn cùng thủy tận. Trong “Nhà văn
hiện đại”, Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Mặc dầu Lan Khai viết nhiều loại, từ
trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng về tiểu thuyết đường rừng hơn
cả” [47, tr298]. Những truyện của ông đều là những truyện khác thường,
nếu không phải là hoang đường thì cũng là những việc, những người không
phải hàng ngày trông thấy. Chủ ý của nhà văn là “kích thích sự tò mò, trí
tưởng tượng của người đọc”, “khiến người ta ghê sợ về những cái bí hiểm

của rừng núi”.
Đi vào chốn non cao rừng thẳm của Lan Khai, ta gặp một thế giới
hoang sơ kì thú của Suối Đàn – một dòng suối thơ mộng như mối tình của
chàng trai thành phố với cô sơn nữ . Mối tình đẹp nhưng dang dở , người
con gái chết âm thầm như bông hoa héo rũ, trong cái vắng lặng của núi
rừng, để từ đó trong nỗi niềm thương nhớ não nùng, chàng trai luôn nghe
thấy trong âm thanh của suối, của rừng có khúc đàn ai oán, phảng phất nỗi
niềm oan ức của người trinh nữ rừng xanh…
Nếu Suối Đàn khiến người đọc tràn đầy cảm xúc về tâm hồn ngây
thơ chất phác của người sơn nữ bao nhiêu, thì trong Truyện đường rừng Lan
Khai lại làm cho người ta ghê sợ về những cái bí hiểm của rừng núi bấy
nhiêu. Đó là chốn ma thiêng nước độc, người mandi còn ở lẫn với thú dữ và
với… ma: nào là “Ma thuồng luồng”, nào là “Người hóa hổ”, nào là “Gò
thần”,…, chỉ những cái tên đọc lên đã gợi sự rùng rợn, kì quái.
Nếu Lan Khai “đưa người ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một
cách thân mật vào các gia đình Thổ Mán, và cho người ta được thấy những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
tâm tính kì dị” [47, tr 298] thì truyện của Tchya Đái Đức Tuấn lại hấp dẫn
bằng sự kì quái, ghê rợn với cốt truyện thần bí, phi thường: “Cái lối truyền
kì của ông là một lối thần quái, một lối quái đản như những truyện trong
“Liêu trai” trong “Truyền kì mạn lục”. Cái xã hội ma và xã hội người trong
tiểu thuyết của ông chỉ là một …”[47, 319].
Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya chính là những tập
“Liêu trai Việt Nam”, những tập viết riêng về vài loài yêu quái ở đường
rừng đất Việt chứ không phải về tất cả các loài yêu ma như của Bồ Tùng
Linh. Cái giống ma ở hai cuốn truyện thần quái của Tchya là ma trành và cái
loại thần trong đó là thần Hổ , những con hổ đã ăn thịt hàng trăm người,
trong tai nổi lên hàng trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm. Vị thần Hổ đây
là con hổ xám, hổ vàng, khi họp hội đồng cơ mật dưới gốc cây đại thụ, vị

thần Hổ thường trút bỏ bộ lông, biến thành một ông già đầu râu tóc bạc
đường bệ. Bị hổ vồ là có số, những kẻ bị giống mãnh thú ấy ăn thịt là đã có
tên trong quyển sổ do thần Hổ giữ - định mệnh ấy không sao trốn thoát
được. Cái họ Đèo trong Thần Hổ mà tất cả con cháu phải làm mồi cho hổ
chỉ vì ông tổ của họ đã dám phạm đến một con hổ già, làm nó chột một mắt
và tuyệt đường duy trì nòi giống. Sự báo thù thật là ghê gớm, tất cả con cháu
họ Đèo khi đã sa vào nanh vuốt hổ, người nào cũng bị móc mất một mắt và
cắn xé mất hạ bộ. Thần Hổ ra oai và gieo vạ cho cả dòng giống những người
đã dám phạm đến thần.
Bọn ma trành phải hầu hạ thần Hổ rất khổ sở. “Ma trành là những
thứ ma bất đắc kì tử, hoặc bị hổ ăn, hoặc bị dìm đuối hoặc vì thắt cổ, hoặc vì
bị chẹt xe… Chết như thế thì linh hồn vất vưởng bị đầy đọa không đi đầu
thai được mà không được tự do. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm hãm, cũng
phải tìm kẻ thế cho mình. Nếu không thì mãi mãi, mình sẽ phải làm ma
trành, đói khát khổ sở”. Muốn có kẻ thế chân mình, họ phải run rủi những kẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
có số bị hổ vồ vào nanh vuốt thần Hổ để họ được sống cái đời ma độc lập,
gần gụi với gia đình, với họ mạc.
Cả truyện Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya đều thuộc loại
truyện ma quái, truyền kì được xây dựng và hư cấu trên những mẩu chuyện
truyền kì ở miền núi. “Những tình tiết li kì trần tục xen lẫn sắc thái hoang
đường thần thoại, tao nên một câu chuyện kích thích mạnh trí tưởng tượng
và giác quan người đọc. Đằng sau câu chuyện li kì, bí hiểm và ghê rợn về
mối quan hệ người – mãnh thú, người – ma là dấu vết của một thế giới quan
thơ mộng và mông muội còn lưu giữ lại”. Tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn riêng
trong những truyện đường rừng của Tchya.
Khác với truyện của Lan Khai, của Tchya hấp dẫn người đọc bằng
lối truyện đường rừng hoang sơ kì thú và bí hiểm, truyện của Nguyễn Tuân
lại cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn riêng, giàu chất thẩm mĩ,

chất văn hóa, nhân bản: “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng,
cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [47, tr 415]. Yêu ngôn là tác phẩm như thế.
1.1.2. Một thể tài độc đáo trong toàn bộ sáng tác Nguyễn Tuân.
Vang bóng một thời là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân được Vũ
Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” [47, tr
415].Vang bóng một thời khơi lại đống tro tàn của một quá khứ chưa xa, tác
phẩm thể hiện sự nuối tiếc cái đẹp với những con người, lối sống, thú chơi
của một thời. Đó là các cụ nghè, cụ cử, cụ tú, lớp nho sĩ cuối mùa với những
sinh hoạt cầu kì, những thú chơi tiêu dao, nhàn tản và qua đó tái hiện nhiều
nét văn hóa của người Việt. Ở tập truyện ngắn này, người ta đã thấy rõ tài
năng và phong cách của Nguyễn Tuân: phóng túng-tài hoa-uyên bác.
Đọc Yêu ngôn, có thể nhận thấy những nét quen thuộc, gần gũi
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà ta đã gặp trong Vang bóng
một thời và những tác phẩm về sau này. Vẫn là một Nguyễn Tuân nhạy cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
với cái đẹp và nhìn sự vật nghiêng về góc độ thẩm mĩ, vẫn là những con
người tài hoa nghệ sĩ như thuở một thời vang bóng: những người thợ mộc
Chàng Thôn với đôi tay tài nghệ được chúa Ngàn Thiêng vời lên sửa đền ở
chốn non cao thần tiên ( Trên đỉnh non Tản ); một Bá Nhỡ - kẻ dám đi đến
tận cùng của nghệ thuật, dùng mạng mình để đổi lấy tiếng đàn đạt tới tuyệt
đỉnh nghệ thuật (Tâm sự của nước độc – Chùa Đàn ); một Bố Ô – vua lưu
linh sống trong rượu và chết cũng trong rượu ( Rượu bệnh – Bố Ô )… Nếu
trong Vang bóng một thời, ta gặp những nếp sinh hoạt và thú chơi cầu kì mà
thanh đạm, tao nhã: uống trà, uống rượu Thạch Lan Hương, đánh thơ, thả
thơ, chơi chữ… thì trong Yêu ngôn, vẫn là những lối sống, những thú chơi
cầu kì tao nhã ấy: một người chủ đồn điền nhưng lại có cái “cốt tài tử” say
mê những bức cổ họa, sẵn sàng bỏ ra rất nhiểu tiền để có được bức họa vẽ
tướng Hàn Kỳ ngồi đọc binh thư bên ngọn bạch lạp; anh em ông Đầu xứ
Anh, Đầu xứ Em nổi danh về tài học vẫn mải miết với nghiệp đèn sách thi

cử dẫu biết rằng có thể bị hồn ma báo oán giữa trường thi (Khoa thi cuối
cùng )…
Đọc Yêu ngôn, vẫn gặp những cảnh sắc, những đồ vật quen thuộc
của một thời: vùng Sơn Nam hạ mùa thi cử hoa hòe nở vàng ( Khoa thi cuối
cùng ), những cửa ô thân thuộc của chốn kinh kì ( Rượu bệnh ), những roi
chầu, đàn đáy, tiếng tơ tiếng trúc (Chùa Đàn)… có nghĩa là vẫn là văn
Nguyễn Tuân, kiến thức Nguyễn Tuân, mảnh hồn Nguyễn Tuân in hằn một
dấu triện riêng không thể lẫn.
Là con người luôn thèm khát những cảm giác mới lạ và mãnh liệt
“Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu
tối tân hôn”, những cảm giác ấy “Nguyễn Tuân không thể tìm được trong
cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày, phải đi tìm
một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồng nhiệt, phát huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
tận độ cá tính của mình” [63, tr 9]. Nhà văn tìm cách vượt, phóng thoát hoàn
toàn khỏi hiện thực bằng sự đẩy xa đến cùng sức tưởng tượng và cảm hứng
lãng mạn. Ông tìm đến một thế giới khác, một hiện thực khác để sống mãnh
liệt hơn, thế giới của cõi âm, cõi ma, thế giới của Yêu ngôn.
Không phải đến Yêu ngôn mà ngay trong một số truyện khác của Nguyễn
Tuân đã mang màu sắc huyền kì. Trong tập Vang bóng một thời, các truyện
Trên đỉnh non Tản và Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) được tuyển chọn vào Yêu
ngôn bởi “có màu sắc huyền kì, ma quái” [3 ,tr 917]. Bên cạnh đó, các truyện
Tóc chị Hoài, Chém treo ngành, Vườn xuân lan tạ chủ đã có một chút màu sắc
kì ảo phi thường. Tóc chị Hoài (1942) “đứng riêng như một thử nghiệm tiểu
thuyết mới của Nguyễn Tuân những năm 1940” [54, tr7]. Chị Hoài là “một
nhân vật hư cấu hư không, chị có mà không, chị không mà có”. Như tất cả
những nhân vật tiểu thuyết thông thường, “chị Hoài là một người chị tôi
mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái”, chị Hoài cộng hưởng những ảo
ảnh đớn đau của người nghệ sĩ. “Chị Hoài, ảo ảnh vô hình, chị không có thật

nhưng hồn chị, tóc chị là thật. Chỉ có tôi đang nói chuyện với một mớ tóc
mây. Chỉ có hai ngón tay chị Hoài đang nói chuyện với những sợi chỉ tơ
thâm một mớ tóc xõa. Gian nhà có hai người, lặng mà không vắng. Thế rồi
trong cái hiu quạnh tay đôi ấy, khe khẽ nổi lên giọng kể chuyện Nhị Độ
Mai, khẽ một cách rất mơ hồ thủ thỉ. Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm
thẳm gấp mấy giọng hát u hoài… Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi
thấy nhộn nhạo trong lồng ngực và ước muốn được làm ngay cái anh chàng
Mai Sinh kia” [56, tr 657]. “Chất huyền ảo của Nguyễn Tuân bắt đầu từ đây,
từ mái tóc lãng mạn của chị Hoài, trước khi rẽ sang ngả kinh dị của yêu
ngôn” [14, tr 8].
Ở Bữa rượu máu, tác giả đã vẽ một cảnh rùng rợn của pháp trường.
Bát Lê, tay đao phủ có tài chém người rất ngọt đang luyện lại đường đao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
“chém treo ngành” trong vườn chuối với những lời hát vừa dữ dội, vừa ai
oán:
“Trời nổi cơn lốc
Cảnh càng u sầu

Sống không thù nhau
Chết không oán nhau

Hãy ngồi cho vững
Cho ngọt nhát đao
Hỡi hồn!
Hỡi quỷ không đầu!
Bài hát phù thủy, chiêu hồn, giã oán, phân trần với chính mình, với
oan hồn, với trời đất.
Rồi cảnh pháp trường, Bát Lê mặc áo trắng, thắt khăn điều, khai
đao hành quyết như một nghệ nhân múa một vũ khúc thảm khốc. Trảm xong

mười hai người, áo không vấy máu. “Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba
tiếng chiêng. Dứt mỗi hồi chiêng mớm thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một
thể xác. Tùng! Bili! Bili!”. Cảnh hành hình dữ dội đã diễn ra, nhà văn đã kết
thúc bằng một bầu không khí ma quái u hiển bao trùm cả pháp trường, khí
lạnh như thấm vào hơi văn: “Lúc quan công sứ ra về, khi lướt qua mười hai
cái đầu lâu còn dính vào da cổ người chết quỳ, sân pháp trường sắp giải tán
bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi
lên xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ
trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn
mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ hiến và thì thào… Bấy giờ vào
khoảng giữa giờ thân …”. Với lối viết “lạnh” Nguyễn Tuân sử dụng hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
tượng cơn gió lốc kết thúc tác phẩm như một lời cảnh báo, dự báo về một sự
báo oán: những kẻ đang gieo gió kia hãy coi chừng cái thủ cấp của chúng.
Tính ám dụ của hình tượng như ký thác kín đáo thái độ căm phẫn của nhà
văn đối với bọn thực dân thống trị.
Trong Vườn xuân lan tạ chủ [55, tr135] có một quan án Trần phong
lưu, chủ nhân Túy lan trang. Ông có một niềm vui thích đặc biệt, thường sai
cô con gái yêu – cô chiêu Tần – đi mua thứ “rượu khê” ở làng Vĩnh Trị,
vùng cất rượu ngon có tiếng, về “bón hoa”. Vị hưu quan già đã không quan
tâm đến vóc xương khô, mà chỉ lo cho hoa trong thời loạn khi mà “một mai
lũ người ô hợp tràn đến”. Bên cạnh quan án là cậu ấm Hai giữa buổi loạn li
mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, “tâm người tài tử, chọn lầm thế kỉ,
buồn, tủi, cực đến dường nào”. Cảnh cô chiêu Tần mỗi sớm chèo thuyền đi
lấy rượu trên sông Mã, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Cả ba tạo nên một
đời sống thanh khiết thoát tục. Nhưng rồi kinh hoàng xảy đến: Túy lan trang
bị đốt cháy, cô chiêu Tần bị thuyền cướp mang đi, quan án Trần phẫn uất
mà chết, và “giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỉ, thề không ở lại với
thế gian”. Giai nhân khuất bóng, thuật cất “rượu khê” bên Vĩnh Trị cũng

thất truyền và “làng men” mất đi một phong vị. Lan đã biết tạ chủ, các loài
cây cỏ khác ở Túy lan trang cũng “đều ủ rũ để tang người thiên cổ”. Vườn
xuân lan tạ chủ với không khí thần kì, thoát tục vài năm sau sẽ có dịp biểu
lộ rõ hơn trong Yêu ngôn.
Như vậy không phải đến Yêu ngôn, yếu tồ kì ảo mới xuất hiện
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trên cái đà có sẵn ấy, trí tưởng
tượng của ông đã đẩy xa hơn thành hẳn một thể tài – thể tài Yêu ngôn. Ông
đã đắm mình trong thế giới nghệ thuật mà mình sáng tạo nên và tạo được
những cảnh tượng kì thú, mê hoặc mà người đọc khó phân biệt được là âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
hay dương, là ma hay người… và đây chính là điều mới mẻ của Yêu ngôn so
với các tác phẩm khác của chính ông.
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù:
Sự pha trộn, hòa lẫn thực và ảo, âm và dương… là những yếu tố cấu
thành phương thức tư duy nghệ thuật của Yêu ngôn.
1.2.1. Phản ánh hiện thực không phải là sao chép hiện thực mà là
sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm tạo ra hiện thực.
Hiện thực ở đây được hiểu không đồng nghĩa với tính có thậ, giống
như thật. Điều này là một chân lý quen thuộc trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhưng với cái nhìn huyền ảo, huyền hoặc thì khái niệm hiện thực ở đây
cũng trở nên vô bờ bến. Hiện thực, đặc biệt là trong cách tư duy huyền thoại
được tạo nên bởi cái phóng túng của tưởng tượng. Ở đây cái huyễn hoặc, hư
ảo không còn là yếu tố gây hoang mang cho người tiếp nhận mà trái lại càng
kích thích trí tưởng tượng bay bổng của người đọc, tạo ra sự đa dạng, mới
mẻ cho tác phẩm văn học. Nó cho phép con người vi phạm các quy tắc của
lý trí, nhân danh một thứ ánh sáng siêu việt không chỉ thuộc về tri thức mà
còn thuộc về số mệnh. [67,755]. Việc xuất hiện cái ảo trên nền cái thực này
cũng là nỗ lực khai thác tầng sâu của hiện thực, là một hình thức để người
đọc nhận thấy các chiều khác nhau của hiện thực. Nói cách khác, đây chính

là cách để nhà văn mở rộng biên độ phản ánh, chuyển tải một phạm vi đời
sống khác lạ vào tác phẩm, đồng thời thể hiện một phía nào đó của niềm tin,
của tâm hồn phía sau những gì đã nghe và thấy. Bằng trí tưởng tượng,
Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới siêu thực với những con người, những
cảnh tượng khơi gợi những cảm giác mới lạ nơi người đọc. Đây là cái cảnh
chánh chủ khảo tế thi hương trong Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) mà các
oan hồn được mời vào trường thi để trả ân, báo oán trước thí sinh:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
“Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế trường như đang lắng chờ một
sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt
khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời
phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đây chỉ rặt một thứ
mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một
chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh
âm dương không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi
khoa Mậu Ngọ đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh, xuýt xoa khai xong
tên, tuổi, quê, quán, ngài khấn to: “… Báo oán giả, tiên nhập ; báo ân giả,
thứ nhập…”. “Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như
có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây
nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết”. Với những cành huống ngược đời:
mặt đất sáng hơn nền trời ( lẽ ra mặt đất tối hơn ), gió không muốn thổi ( lẽ
ra là gió thổi ), sáp không lung lay ( lẽ ra là ngọn sáp lung lay ), khói bốc
thẳng ( lẽ ra là khói ngoằn ngoèo )… tác giả đã thể hiện một trạng thái bất
bình thường làm toát lên không khí dị thường, lạnh gáy với đám sĩ tử, với cả
người đọc bởi không biết đó là cõi dương gian hay nơi âm thế? Không khí
ấy thật thích hợp để cho những hồn ma hiện về, rũ tóc mà báo oán những
oan khiên tiền kiếp.
Trong Chùa Đàn nhân vật Mợ Lãnh không xuất hiện trực tiếp nhưng
là đầu mối dẫn dắt cốt truyện. Mợ Lãnh là người vợ chết yểu của Lãnh Út –

chủ trại. Lãnh Út, kẻ tài tử chỉ đam mê người vợ yêu, và khi nàng hóa người
thiên cổ bởi một tai nạn hoả xa - một công cụ của văn minh cơ khí, Lãnh Út
không còn lẽ sống trở nên cuồng dại trong niềm thương nhớ và trở thành kẻ
thù của cơ khí văn minh. Hình ảnh còn lại của Mợ Lãnh chỉ là một bức tranh
đẹp và buồn “một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái
đôn màu cốm, bên một khung cửa sổ có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
xanh tái của tranh gia thêm xa lạnh vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm
buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh”.
Mợ Lãnh là người hay ma? Khó có thể gọi tên cho chính xác. Nàng
không tên, chỉ để lại tập thơ di cảo và bóng hình kiều mĩ trên bức họa tuyệt
vời. Phải chăng nàng là thơ, là hoa đang sống trong vườn địa đàng thuở
hồng hoang mê thảo?
Sự đan xen mộng – thực, mộng – tưởng tượng, mộng – ma trong
Yêu ngôn đã tạo thành một vũ trụ âm dương không ngăn cách, ma chính là
người, ma ăn ở với người…Tất cả những yếu tố này là điều mới mẻ của Yêu
ngôn tạo nên sức hấp dẫn biến ảo dị kì.
1.2.2. Hiện thực còn đƣợc tạo nên thông qua lăng kính của huyền kì:
Truyền kỳ, kỳ ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
chết đi khi bước sang thế kỉ XX”.
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như là một phạm trù tư
duy nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc
sống nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Cội
nguồn của sự tưởng tượng li kì vẫn là những điều hiện thực của thế giới này.
Nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo để “lạ hóa” trạng thái hiện thực, đôi khi xáo
trộn hiện thực để kích thích, mở rộng trí tưởng tượng của người đọc. Nhờ
những đặc điểm trên đây, mỗi tác phẩm kì ảo xuất hiện ở từng giai đoạn

khác nhau của lịch sử đều có được khuôn mặt riêng dù có những điểm tương
đồng nhất định xuất phát từ đặc trưng thể loại. Cũng chính những đặc trưng
này đã tạo ra sự gần gũi nhất định giữa các nền văn học kì ảo trên thế giới
dù mảnh đất sinh thành và phát triển của chúng không hoàn toàn đồng nhất.
Văn học huyền kì, kì ảo là bông hoa lạ mọc lên trong tất cả các dòng, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
giai đoạn văn học. Đó là cố gắng không mệt mỏi để nhận thức thế giới của
con người.
Mạch truyện Yêu ngôn đã hình thành trong văn Nguyễn Tuân từ khá
sớm: “vào khoảng năm 1943 , người ta thấy xuất hiện trên tờ Thanh Nghị và
Trung Bắc chủ nhật một số đoản thiên của Nguyễn Tuân viết theo lối Liêu
Trai của Bồ Tùng Linh. Toàn là những truyện ma quỷ hết sức kì quái hoang
đường. Cùng một lúc, cũng trên những tờ báo ấy, người ta thấy quảng cáo
một đầu sách của Nguyễn Tuân có tên là Yêu ngôn” [63, tr6]. Có thể nói
đây là một thể tài đặc biệt, và lối định danh cho thể tài này cũng in dấu
“bản quyền” riêng của nhà văn. Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in
những đoản thiên huyền bí, kỳ ảo và ma quái ấy nhưng chưa kịp làm và sau
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới. Nhiều năm sau khi
Nguyễn Tuân qua đời, Yêu ngôn mới có dịp xuất hiện như một tác phẩm
trọn vẹn, một chân dung thể tài hoàn chỉnh với công phu sưu tầm, biên soạn,
giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhà xuất bản Hội nhà
văn, 1998.
Như vậy, hiện thực trong Yêu ngôn là một hiện thực khác, một thế
giới khác – một thế giới vừa thực vừa ảo, cõi âm hòa vào cõi dương. Ở thế
giới ấy toàn là những chuyện kì quái, rùng rợn. Một kẻ nghiện rượu đến nỗi
cả thân xác biến thành một khối men bốc lửa: “Ngọn lửa xanh lè vờn lấy
mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm
lừng như mùi cá mực nướng bằng rượu không có chút gì là hôi khét cả. Và
lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải

vụn trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi
cái vụn xương vô tư ấy, lại thấy thơm và ngây ngất nữa” (Rượu bệnh ).
Đó là một cái chết khác thường, chết rượu, chết cháy, xác cháy
trong hơi rượu, cũng thơm, cũng ngông ngạo như người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Cảnh đánh cây gạo cổ thụ ở Suối Vầu (Chùa Đàn ) cũng chẳng
khác gì một cảnh trảm tấu khiến người ta rợn tóc gáy. “Cây gạo xiêu dần
xuống rồi vật mạnh xuống như một kẻ chiến tranh bị trúng độc kế ở mặt
trận, làm tung bắn lên những thân hình người đang oằn oại trên những
đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ gốc. Suối Vầu tung nước.
Rừng Vầu vang lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn
tợ máu phun”.
Đọc Yêu ngôn người đọc như bị mê hoặc, bị cuốn hút vào những
cảnh, những người kì ảo. Một cây dó cổ thụ thành tinh, có người con gái áo
chàm từ gốc cây đi ra dạo chơi thơ thẩn trong rừng và cất tiếng hát “u hiển”,
giọng hát khi thì “bi tráng khê nồng của người khách hiệp gặp đường cùng”,
khi thì “trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa rừng nổi gió”,
lúc lại “rờn rợn như lối ma Hời đưa võng ru con”. Cô Dó ấy – vị Thần Dó –
quê ở thượng ngàn, trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống
trung châu, ngày ẩn hồn trong phiến đá đêm trở lại làm người, giúp chồng
nàng thổi cho giấy dó một linh hồn…
Một người thiếp tài hoa bị phụ bạc mà hiện hồn báo oán giữa
trường thi (Khoa thi cuối cùng ), một hồn ma nghệ sĩ còn nặng lòng trần
luôn tìm cơ hội bằng mọi giá để được tái sinh ( Chùa Đàn )… Tất cả những
không gian, những cảnh vật, con người ấy đều huyễn hoặc phi thực. Nguyễn
Tuân có ý thức gia công nhiều vào cái phía thần kì, quái đản của nhân vật,
cảnh vật, tình tiết, chi tiết, tạo nên không khí ma quái của truyện. Để viết
được những trang như thế, Nguyễn Tuân phải thực sự sống với thế giới nghệ
thuật mà mình tạo nên, sống thật sự với những hồn ma kia, những cảnh vật

huyền hồ kia để quan sát, cảm xúc và ngẫm nghĩ. Nhờ thế ông đã có thể tạo
ra được những cảnh tượng mà người đọc khó phân biệt được là âm hay
dương, là người sống hay người chết, là thế giới ông tưởng tượng ra hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
những điều ông tin như thế thật và nhìn thấy như thế thật. Dưới góc độ ấy
mọi vật cho ta cái nhìn khác, là một thứ “lửa nến trong tranh” lung linh, kì
ảo hơn- một thế giới huyền kì.

Chương 2
ĐẶC TRƢNG THI PHÁP YÊU NGÔN

2.1. Không gian – thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn
2.1.1. Không gian nghệ thuật.
Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật như là “một phương
thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư
tưởng thẩm mĩ ” (Trần Đình Sử). Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có
không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Không
gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện con
người và thể hiện một quan niêm nhất định về cuộc sống.
Nguyễn Tuân là nhà văn của những không gian phong phú: “Văn
xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân thường chứa đựng những hình tượng
không gian nghệ thuật đa dạng, những mô hình không gian đặc sắc mang mĩ
quan độc đáo của nhà văn” [11, tr 129]. Trong Yêu ngôn, yếu tố kì ảo đã chi
phối trực tiếp việc xây dựng không gian nghệ thuật, đã khắc họa nổi bật
những hình tượng không gian sau đây.
2.1.1.1. Không gian quá vãng.
Cũng như trong Vang bóng một thời, không gian quá khứ, không
gian của một thời vang bóng là loại không gian có tính chất bao trùm

trong Yêu ngôn. “Đây là loại không gian mang bóng hình quá khứ được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
dựng lên bởi hoài niệm, kí ức, hồi tưởng và cả tưởng tượng nữa” [11, tr
129].
Tất cả cảnh tượng, cảnh quan đều nằm trong vùng không gian rộng
lớn khái quát mang những nét đặc trưng lịch sử một đi không trở lại. xét đến
cùng không gian nghệ thuật trong Yêu ngôn vẫn là cuộc sống con người, và
dù sẽ được nhuốm màu sắc ma quái, huyền kỳ, trước hết vẫn là cuộc sống
trần thế gần gũi. Bằng một vốn từ cổ phong phú có chọn lựa, Nguyễn Tuân
đã khéo dựng cảnh, dựng việc, tạo không khí, đưa người đọc vào cái không
gian cổ kính ấy. “Những cái đó quý giá như một tập tranh cổ” [11, tr 130].
Bởi thế, phảng phất ở những trong viết của Yêu ngôn là linh hồn
ngàn xưa đất nước qua những cảnh núi non sông nước, cảnh phố phường
chợ búa, kẻ chợ kinh kì, cảnh những làng nghề thủ công… Đó là những
khung cảnh quen thuộc, thân thương, gần gũi với mỗi tâm hồn Việt, qua
ngòi bút của Nguyễn Tuân đã hiện lên với tất cả những gì gọi là đặc trưng,
tiêu biểu nhất.
Ở trên đã nói, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất
định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về sự phản ánh giản đơn không
gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất nào! Trong tác phẩm ta thường bắt
gặp sự miêu tả con đường, dòng sông, căn nhà… nhưng bản thân các sự vật
ấy chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ được xem là không gian
nghệ thuật trong chừng mực chúng biểu hiện mô hình thế giới của tác giả.
Chẳng hạn dòng sông, nhà ga, bến tàu… là không gian địa lí. Nhưng đi vào
thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nó lại ứng với những chuyến đi, gắn
với lòng đam mê tìm kiếm những chân trời – đã được mệnh danh là chủ
nghĩa xê dịch. Nó cũng là không gian của thú ngao du giang hồ lãng tử. Ở
Yêu ngôn ta có thể thấy rõ điều này để càng thấy rõ nét riêng biệt và hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
quả nghệ thuật của thế giới Yêu ngôn . Từ những cảnh vật quen thuộc của
quê hương đất nước, vào trang viết của Nguyễn Tuân, qua bút pháp huyền
kì, tất cả bỗng trở nên lung linh hơn, đậm hồn dân tộc hơn. Đây là cảnh xứ
đồng chiêm Sơn Nam hạ vào mùa mưa nước ngập mênh mang “làng mạc
vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo
xanh một màu hoang vu”, người ta đi về bằng những con đò đồng li ti nhiều
như tre rụng lá mùa thu (Khoa thi cuối cùng). Phải am hiểu và gắn bó lắm,
Nguyễn Tuân mới miêu tả có hồn như thế về một vùng quê đồng bằng Bắc
Bộ. Sự quan sát tinh tường khiến tác giả còn nắm bắt và thu vào tầm mắt
của mình một thoáng chuyển động của “Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi
trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi gió rét. Mưa thu lộp độp gõ xuống áo tơi
nón lá của một chuyến đò đầy” (Khoa thi cuối cùng). Từ cái không gian rất
gợi không khí ấy, sẽ là cái nền để xuất hiện cảnh sĩ tử lều chõng đi thi và
cuộc “báo oán” ghê rợn giữa chốn thi trường hoang lạnh. Trong Khoa thi
cuối cùng hình ảnh “hoa hòe nở vàng” đất Sơn Nam hạ “hòe hoa hoàng, cử
tử mang”là một chi tiết thực mà giàu chất thơ. Thấy “dặm hòe ngả màu
vàng, lòng những người có chữ bắt đầu bận bịu” bởi màu vàng của hoa
khiến lòng người mơ tưởng đến sự hiển đạt công danh. Nếu không xuất thân
trong một gia đình có truyền thống Nho học, không am hiểu sâu sắc truyền
thống hiếu học của cha ông, chắc Nguyễn Tuân khó viết được những “trang
hoa” như thế. Và còn đây nữa là những cảnh buôn bán đi về tấp nập từ bến
Bồ Đề qua Ô Quan Chưởng vào kẻ chợ, đất kinh kì, những cô bán hàng ở
làng cất rượu ngon nổi tiếng vùng tả ngạn sông Nhĩ Hà, với gánh rượu trên
vai, mỗi sáng lại kĩu kịt gánh vào các cửa ô của đất kinh kì qua, những phố
phường: “Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, ÔYên Phụ, Ô Quan Chưởng, Ô Đống
Mác, Ô Cầu Rền…” (Rượu bệnh), những cái tên chỉ đọc lên thôi đã đủ gợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22

xao xuyến, rung động trong lòng người – nhất là những ai từng gắn bó với
đất Thăng Long.
Viết về những làng nghề thủ công, có lẽ khó ai am hiểu sâu hơn
Nguyễn Tuân. Ở Xác ngọc lam là làng Hồ Khẩu bên Tây Hồ chuyên nghề
làm giấy, có “nhà họ Chu làm giấy nổi tiếng đến mấy mươi đời liền”. Họ
không làm giấy moi bao giờ, “chỉ làm toàn giấy lụa và giấy lệnh hội để viết
bằng, viết sắc”, và tới lúc có khoa thi “thì nhà ấy mới làm thứ giấy để học
trò đóng quyển”. Giấy nhà họ Chu, người sành sỏi dẫu nhắm mắt lại, chỉ cần
lấy tay sờ cũng nhận diện được bởi “nó nhẵn mặt mà không cứng mình, mà
chất lại dai và lắm tờ khổ rộng mình dầy thế mà bắc đồng cân lên thì nặng
chỉ đến như cái lông ngỗng… Vuốt vào mặt giấy, người ta có cảm tưởng
được sống là một điều dễ chịu ; mùa nực, rờ vào giấy thấy mát cả lòng tay
và về tiết đông ấp tay vào giấy nhà Chu, thấy nó âm ấm như có sinh khí.
Đưa lên mũi tờ giấy đượm hơi thơm của một thức mùi thảo mộc còn tươi
sống, thật là một vật quý trên thế gian”. Tờ giấy quen thuộc giản dị ấy là
tinh hoa, tinh tuý của của Rừng Dó, của bàn tay con người.
Trên đỉnh non Tản có thể được coi là một truyện nối dài cổ tích – lại
đưa người đọc về với làng Chàng Thôn tỉnh Đoài chuyên nghề thợ mộc “Cái
tràng cái đục của dân Chàng Thôn không những được người trần biết đến
mà thỉnh thoảng cứ dăm bảy năm, lại có người tiên trên núi hạ sơn cầu đến”.
Đôi tay tài hoa của họ khiến những thớ gỗ trở nên có hồn “những đầu kèo
vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tứ linh. Bức trần gỗ thì cham bát bửu cổ đồ.
Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài khác
ở khơi dưới núi…”
Có thể thấy tình cảm sâu đậm với quê hương đất nước thấm đượm
qua mỗi trang viết của Nguyễn Tuân. Con người say mê cái đẹp ấy chính lại
rất nặng lòng với quê hương đất nước, với những giá trị thẩm mĩ, giá trị văn

×