Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Gíao dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.9 KB, 26 trang )

Trờng đại học s phạm hà nội
Khoa giáo dục mầm non
Bài tập nghiệp vụ cuối khoá
Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa
cho trẻ mẫu giáo
trờng Cao Xá - lâm thao - phú thọ

Ngời hớng dẫn : T.s Đinh Hồng Thái
Ngời thực hiện : Nguyễn Thị Tuyết Lan
Lớp ĐHTC Việt trì - Khoa GDMN

1
Vĩnh yên, tháng 3 năm 2004
Phần I : Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài :
Từ lâu cộng đồng nhân loại đã nhận thức rằng trẻ em không chỉ là niềm
hạnh phúc của mỗi gia đình mà còn là tơng lai của nhân loại. Khẩu hiệu Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai đã cho chúng ta thấy đợc sự cần thiết của việc
chăm sóc giáo dục trẻ. Việc chăm sóc giáo dục trẻ càng chu đáo và đầy đủ bao
nhiêu thì càng có ý nghĩa chuẩn bị cho thế giới ngày mai bấy nhiêu. Chính vì lẽ
đó, việc chăm sóc giáo dục trẻ nói chung cũng nh việc phát triển ngôn ngữ nói
riêng là trách nhiệm mỗi con ngời trong xã hội.
Bác Hồ đã dạy : Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng
quý báu của dân tộc. Chúng ta phải gữi gìn nó, quý trọng nó
Trong tất cả các hoạt động của trẻ mẫu giáo từ vui chơi, học tập đến trò
chuyện với nhau, với cô giáo, cha mẹ trẻ đều sử dụng từ ngữ. Vì thế ngôn ngữ
giúp cho hoạt động của trẻ thêm sinh động và hấp dẫn. Trong mọi hoạt động
nếu không có lời giải thích của cô giáo hay ngời lớn thì trẻ không hiểu đợc
nhiệm vụ cần thiết. Sự phát triển trí tuệ của trẻ chỉ diễn ra khi trẻ lĩnh hội những
tri thức về sự vật. Song sự lĩnh hội những tri thức đó lại không thể thực hiện nếu
thiếu ngôn ngữ . Muốn phát triển một cách chính xác rõ ràng những ý nghĩ phức


tạp thì trẻ cần nắm chắc một số vốn từ, biết sử dụng đúng ngữ pháp và diễn đạt
bằng những câu nói rõ ràng mạch lạc. Công tác giáo dục và hoàn thiện ngôn
ngữ cho trẻ không những có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển trí tuệ mà còn
có tác dụng quan trọng trong phát triển tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ.
Không những thế trong hoạt động nhận thức của con ngời, ngôn ngữ là phơng
tiện truyền đạt những tri thức, những kinh nghiệm mà loài ngời thu nhận đợc.
Nên rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, rèn cho trẻ nói đúng ngữ pháp là
vô cùng cần thiết để trẻ dễ dàng tiếp thu kinh nghiệm của cha ông.
2
Lứa tuổi 5 - 6 tuổi là lứa tuổi học ăn, học nói hay bắt chớc những lời nói,
hành động của ngời lớn và cô giáo. Cho nên việc trau dồi kiến thức và phát triển
ngôn ngữ, ngữ pháp cho trẻ ở giai đoạn này là rất quan trọng. Song muốn trẻ nói
đúng ngữ pháp, nói đợc các kiểu câu tốt thì cô giáo mầm non phải thờng xuyên
rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ. Không chỉ giáo dục ở mức độ đơn giản và bó hẹp
mà phải tiến hành theo nguyên tắc mở rộng từ đơn giản đến phức tạp; từ dễ đến
khó; từ cụ thể đến khái quát, biết làm giàu vốn từ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp có một tầm quan trọng lớn trong sự phát
triển của trẻ. lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ trẻ em bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất
đối với các hiện tợng ngôn ngữ, khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tới
tốc độ khá cao và đều về mọi mặt (vốn từ, ngữ âm và ngữ pháp). Đến cuối tuổi
mẫu giáo nếu đợc dạy dỗ thì hầu hết các trẻ đều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ trong
sinh hoạt hàng ngày. Nếu chúng ta không lu ý dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tức là
đã bỏ lỡ một cơ hội không nhỏ trong sự phát triển của trẻ.
Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp góp phần giáo dục văn hoá nói cho trẻ, dạy trẻ
giao tiếp với mọi ngời xung quanh đợc tốt hơn. Trẻ phát âm biết sử dụng đúng
ngữ pháp, đúng ngữ điệu phù hợp với nội dung giao tiếp hay chuyện kể làm cho
lời nói của trẻ có sức thuyết phục, tăng hiệu quả của việc giao tiếp và gây đợc
thiện cảm với ngời khác. Nhng tác dụng quan trọng hơn của khả năng này là tạo
ra ở trẻ những tiền đề cần thiết đi vào lĩnh vực văn học, cảm thụ đợc vẻ đẹp của
tiếng mẹ đẻ, vẻ đẹp của văn hoá giao tiếp. Nh vậy, dạy trẻ sử dụng thành thạo

câu đúng ngữ pháp sẽ góp phần giáo dục văn hoá nói, văn hoá giao tiếp cho trẻ.
Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tức là chúng ta dạy cho trẻ biết diễn đạt chính
xác, biểu cảm mạch lạc những suy nghĩ bằng lời nói của trẻ. Nói năng mạch lạc
thể hiện một trình độ phát triển cao không những về phơng diện ngôn ngữ mà
cả về phơng diện t duy nữa. Kiểu nói năng mạch lạc đòi hỏi đứa trẻ khi trình
bày ý kiến của mình cần phải theo một trình tự nhất định, phải nêu đợc những
điểm chủ yếu và những mối quan hệ liên kết giữa sự vật, hiện tợng một cách
hợp lý để ngời nghe dễ hiểu và đồng tình. Đây là một yêu cầu cao đối với trẻ
nhng không phải là không thực hiện đợc, nhất là đối với trẻ mẫu giáo lớn 5- 6
3
tuổi. Nh vậy, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tức là chúng ta dạy trẻ nói năng mạch
lạc. Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
Lời nói mạch lạc thể hiện hoàn thiện việc sử dụng tiếng mẹ đẻ, đó là việc cần có
của một con ngời.
Là một giáo viên mầm non trực tiếp đứng lớp tôi thấy trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi của Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc còn nhiều cháu nói
sai ngữ pháp. Trẻ cha biết sắp xếp trật tự câu, trẻ còn nói sai các từ trong câu,
nói câu què câu cụt, thiếu thành phần câu Nguyên nhân chủ yếu là do giáo
viên khi dạy trẻ nói chỉ chú trọng đến phát triển vốn từ cho trẻ, cha chú ý rèn
cho trẻ nói câu đúng ngữ pháp và sử dụng câu đúng. Với tâm huyết yêu nghề
mến trẻ, sự ham muốn tìm tòi điểm mạnh yếu trong việc sử dụng một số loại
câu của trẻ 5- 6 tuổi tại trờng mình công tác nên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu :
Điều tra thực trạng sử dụng một số kiểu câu theo cấu trúc ngữ
pháp của trẻ 5 - 6 tuổi . Từ đó đề xuất một số biện pháp để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, daỵ trẻ nói đúng câu, nói đúng ngữ pháp.
II. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng sử dụng một số kiểu câu phân loại theo cấu trúc ngữ
pháp của trẻ 5 - 6 tuổi.
III. Khách thể và đối tợng nghiên cứu.
1. Khách thể : 20 trẻ 5 - 6 tuổi của Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh

Yên - Vĩnh Phúc
2. Đối tợng nghiên cứu :
Một số kiểu loại câu theo cấu trúc ngữ pháp của trẻ 5 - 6 tuổi Trờng mầm
non Hoa Hồng- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
IV. Giới hạn nghiên cứu :
Thực trạng sử dụng câu của trẻ 5 - 6 tuổi ở Trờng mầm non Hoa Hồng-
Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
1. Tìm hiểu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
2. Điều tra thực trạng sử dụng một số kiểu loại câu theo cấu trúc ngữ
pháp của trẻ 5 - 6 tuổi của Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Bớc đầu đề xuất những biện pháp rèn luyện cho trẻ nói câu đúng ngữ
pháp nói rõ ràng mạch lạc.
VI. Phơng pháp nghiên cứu
VI .1 Phơng pháp nghiên cứu lý luận.
Thu thập và phân tích tài liệu, sách giáo khoa, tạp chí có liên quan đến
VI. 2 Phơng pháp trò chuyện với trẻ trên các tiết học, giờ chơi và các
hoạt động khác ở mọi lúc, mọi nơi.
VI. 3 : Phơng pháp quan sát và ghi chép những câu trả lời của trẻ.
VI. 4 : Phơng pháp thống kê toán học : Xử lý các số liệu thu đợc.
Phần II : Nội dung
Chơng I. Cơ sở lý luận
I. Khái quát về câu
1. Định nghĩa về câu :
Từ nhiều năm nay đã có rất nhiều định nghĩa về câu. Những định nghĩa
này thể hiện những quan niệm khác nhau. Tuy nhiên có những nét chung nh sau
:
- Câu có chức năng biểu hiện và truyền đạt t tởng, tình cảm từ ngời này
sang ngời khác. Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất.

- Câu có cấu tạo ngữ pháp nhất định, có ngữ điệu kết thúc biểu hiện thái
độ của ngời nói đối với nội dung của câu nói.
2. Phân loại câu :
Câu đợc phân loại căn cứ vào các mặt sau đây :
5
- Mặt cấu tạo ngữ pháp của câu : Chúng ta có thể quy số lợng vô hạn các
câu cụ thể về một số kiểu câu có hạn căn cứ vào cấu tạo ngữ pháp của câu.
VD : Căn cứ vào sự có mặt của các câu nhỏ có mối quan hệ với nhau ng-
ời ta chia thành câu đơn giản và câu phức tạp; Dựa vào tính chất của vị ngữ ngời
ta chia thành câu danh từ, câu động từ, câu tính từ
- Mặt tác dụng giao tiếp hay mục đích nói năng, chúng ta có thể chia
thành câu tờng thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh và câu cảm thán.
Câu phân loại theo kết cấu gồm có câu đơn và câu ghép :
Câu đơn là câu đợc cấu tạo từ hai thành phần nòng cốt là chủ ngữ và vị
ngữ . Chủ ngữ và vị ngữ đợc gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ vị. Chủ ngữ là
thành phần biểu thị đối tợng thông báo, còn vị ngữ biểu thị nội dung thông báo
về đối tợng đó.
VD : Trong câu : Cháu là học sinh ngoan thì cháu là chủ ngữ; là học
sinh ngoan là vị ngữ. Thông thờng chủ ngữ đi trớc vị ngữ . Trong một số ít tr-
ờng hợp vị ngữ có thể đứng trớc chủ ngữ.
Câu đơn đặc biệt : Trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định, câu có thể cấu
tạo đặc biệt chỉ có một từ hoặc một nhóm từ chính phụ hay đẳng lập.
Câu ghép là câu có từ hai kết cấu chủ vị trở lên, có quan hệ ý nghĩa với
nhau và không bao hàm lẫn nhau. Trong câu ghép có câu ghép đẳng lập, câu
ghép chính phụ, câu ghép nhiều tầng.
Câu phân loại theo mục đích nói : Câu tờng thuật, câu nghi vấn, câu cầu
khiến, câu cảm thán.
Ngữ pháp có tính chất trừu tợng và khái quát cao vì các quy luật ngữ
pháp không thuộc về một từ hay một câu cụ thể mà là chung cho các từ các câu
cùng loại các quy luật ngữ pháp. Vì vậy, thờng đợc biểu hiện dới dạng mô hình

của nhóm từ, mô hình của câu. Trẻ học nói không học từng câu một mà qua lời
nói của những ngời xung quanh. Từ đó trẻ sẽ rút ra đợc các mô hình câu,dựa
vào các mô hình câu trẻ sẽ nói những câu cụ thể.
VD : Cháu ăn thịt, cháu ăn cơm.
6
II. Tầm quan trọng của việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của con ngời trong xã hội, là nguyên nhân
của mọi suy nghĩ và là công cụ của mọi t duy. Nhng ngôn ngữ không phải tự
nhiên mà có và hoàn thiện ngay đợc mà nó phải đợc tích luỹ trong quá trình
sống, lao động, học tập, vui chơi. Vì thế, có thể nói rằng rèn luyện phát triển
ngôn ngữ và việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là góp phần trang bị cho thế hệ
mầm non một phơng tiện mạnh mẽ để giúp trẻ biết đợc những điều mới lạ về
thế giới xung quanh. Cho nên việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp và nói đúng câu
theo cấu trúc ngữ pháp là một nội dung vô cùng quan trọng.
Tiếng Việt là thứ tiếng không có biến hoá hình thái. Cho nên học ngữ
pháp Tiếng Việt là học các mô hình nhóm từ, mô hình câu. Trẻ lĩnh hội ngữ
pháp tiếng mẹ đẻ bằng cách bắt chớc ngời lớn. Vì vậy, ở trờng mầm non hoạt
động của trẻ càng phong phú, trẻ càng đợc giao tiếp với ngời lớn bao nhiêu thì
việc nói đúng ngữ pháp của trẻ càng đợc phát triển bấy nhiêu, tạo nền tảng vững
chắc cho t duy của trẻ.
Mỗi một mô hình câu đối với trẻ trở thành tín hiệu phản ánh khái quát
những quan hệ hiện thực nhất định. Vì vậy, cùng một lúc với sự tiếp thu ngữ
pháp, trẻ sẽ hình thành t duy, trí tuệ của trẻ sẽ phát triển và không những trẻ
nhận ra mình là trai hay là gái mà còn biết phải thể hiện hành vi nh thế nào cho
phù hợp với giới tính của mình. ở đây ngời lớn là yếu tố tác động rất lớn đối
với trẻ. Em trai thờng bắt chớc những cử chỉ hành động của đàn ông; em gái thì
bắt chớc dáng điệu của đàn bà. Hiện tợng này phản ánh ở trò chơi rất rõ : Con
trai thờng đóng vai các chú bộ đội, công an còn con gái thì th ờng đóng vai
ngời nội trợ, cô bán hàng.. Trong khi nhận xét nhau trẻ cũng hiểu khía cạnh giới
tính : Trẻ thờng nói : Con trai mà khóc à? Hay con gái mà lại đánh nhau

ý thức của trẻ đợc xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội. Từ
đó mà hành vi của trẻ mang tính xã hội, tính nhân văn đậm nét hơn trớc. Trong
sự phát triển các hành động ý chí của trẻ mẫu giáo lớn có thể thấy đợc sự liên
kết giữa 3 mặt :
7
- Thứ nhất là sự phát triển tính mục đích của hành động.
- Thứ hai là xác lập quan hệ giữa mục đích của hành động với động cơ.
- Thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong việc thực hiện các
hành động.
Nh vậy, chúng ta thấy đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hởng trực tiếp đến sự
phát triển ngôn ngữ và sử dụng ngữ pháp của trẻ. Đứa trẻ nói đúng tiếng mẹ đẻ
thể hiện việc sử dụng ngôn ngữ và câu theo cấu trúc ngữ pháp đã đạt tới trình độ
cao. Thực chất ngôn ngữ lúc này trở thành phơng tiện giao tiếp để tiếp thu kinh
nghiệm lịch sử loài ngời.
Muốn hiểu biết và diễn đạt ý nghĩ, nguyện vọng của mình trong bất cứ
lĩnh vực nào trẻ đều phải sử dụng ngôn ngữ và sử dụng câu theo đúng cấu trúc
ngữ pháp. Muốn cho ngôn ngữ của trẻ phát triển thì điều quan trọng là cho trẻ
tích luỹ đợc nhiều từ và rèn luyện cho trẻ nói câu đúng ngữ pháp. Trên cơ sở đó
trẻ có thể giao tiếp một cách thành thạo. Ngôn ngữ và cấu trúc câu của trẻ chỉ
hình thành và phát triển qua giao tiếp với ngời lớn, với các sự vật, hiện tợng
xung quanh. Làm giàu ngôn ngữ cho trẻ không thể tách việc tạo điều kiện cho
trẻ giao tiếp với môi trờng xung quanh. Cùng với sự hớng dẫn của giáo viên trẻ
đợc quan sát nhận xét, phân tích tổng hợp, đánh gía. Qua đó trẻ sẽ tích luỹ đợc
những hiểu biết để có điều kiện diễn đạt những thu nhận bằng ngôn ngữ, bằng
câu theo đúng cấu trúc ngữ pháp từ đơn giản đến phức tạp.
Vì vậy, khi hớng dẫn trẻ nhận xét về môi trờng xung quanh, cô giáo nên
theo những nội dung trọng tâm đã xây dựng trên nguyên tắc s phạm. Đó là đảm
bảo tính vừa sức hệ thống đồng bộ. Có những kiến thức sẽ đợc nhắc lại, song
phải có sự mở rộng củng cố dần theo lứa tuổi. Khi dạy trẻ biết sử dụng các kiểu

loại câu theo cấu trúc ngữ pháp, ta phải dựa trên cơ sở mở rộng tầm hiểu biết
cung cấp kiến thức cần thiết cho trẻ, hình thành các chức năng nghe, hiểu cho
trẻ. Muốn đạt đợc những yêu cầu này thì cô giáo phải chú ý lắng nghe những
câu trả lời của trẻ trong lúc chơi, lúc trò chuyện. Qua đó cô kịp thời uốn nắn, bổ
xung, giúp trẻ nói đợc câu đúng ngữ pháp và làm phong phú các kiểu câu của
trẻ.
8
III. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 - 6 tuổi
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của lứa tuổi mầm non, tức là
lứa tuổi trớc khi đến trờng phổ thông. ở giai đoạn này, những cấu tạo tâm lý
đặc trng của con ngời đã đợc hình thành. Với sự giáo dục của ngời lớn những
chức năng tâm lý đó sẽ đợc hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phơng diện của
hoạt động tâm lý (nhận thức, tình cảm, ý chí) để hoàn thành việc xây dựng
những cơ sở nhân cách ban đầu của con ngời.
Một trong những thành tựu lớn lao nhất của giáo dục mầm non là làm
cho trẻ sử dụng một cách thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày. Lứa
tuổi 5 - 6 tuổi là lứa tuổi bộc lộ tính nhạy cảm khiến cho sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ đạt tốc độ khá nhanh và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đêu sử
dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo. Trẻ em lứa tuổi này đã biết sử dụng ngữ
điệu phù hợp với nội dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ th-
ờng sử dụng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thơng, trìu mến. Ngợc lại
khi giận dữ trẻ lại dùng ngữ điệu thô và mạnh. Khả năng này đợc thể hiện khá
rõ khi trẻ kể những câu chuyện mà trẻ thích cho ngời khác nghe. Sự tự ý thức
còn đợc biểu hiện rõ ràng trong sự phát triển giới tính của trẻ. ở lứa tuổi này trẻ
luôn thích tìm hiểu thế giới xung quanh, đây là phơng tiện phát triển các chức
năng tâm lý đợc cải tạo dới ảnh hởng của ngôn ngữ, và ngợc lại sự phát triển
ngôn ngữ nói chung chịu ảnh hởng dới tác động của quá trình tâm lý ấy.
Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo 5 - 6 tuổi là lứa tuổi đã vợt qua thời kỳ ấu nhi để
tiến tới một chặng đờng tơng đối ổn định. Có thể nói đây là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ những nét đặc trng cho lứa tuổi mẫu giáo. Đó là những chức năng tâm

lý đặc trng của con ngời trong sự hình thành và phát triển. Cùng với sự giáo dục
của nhà trờng mẫu giáo và của ngời lớn, những thuộc tính tâm lý sẽ đợc hoàn
thiện một cách tốt đẹp về mọi phơng diện của hoạt động, làm cho nhân cách của
trẻ ở quá trình hình thành mang tính độc đáo rõ nét. Do đó ở trờng lớp mẫu giáo
cần tập trung hết sức để giúp trẻ phát triển những đặc trng tâm lý đó, để từ đó
hình thành việc xây dựng nền tảng nhân cách ban đầu của con ngời.
IV. Đặc điểm ngữ pháp của trẻ 5 - 6 tuổi
9
Giai đoạn 5 - 6 tuổi là độ tuổi mẫu giáo lớn, là giai đoạn cuối cùng của
trẻ em lứa tuổi mầm non, tức là lứa tuổi trớc khi đến trờng phổ thông. ở giai
đoạn này trẻ đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày.
Tiếng mẹ đẻ là phơng tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân tộc, để
giao lu với những ngời xung quanh, để t duy, tiếp thu khoa học, bồi bổ tâm hồn.
Trẻ em tốt nghiệp xong trờng mẫu giáo là đứng trớc một nền văn hoá
đồ sộ của dân tộc và nhân loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội những kinh
nghiệm mà cha ông để lại. Do vậy, phát triển ngôn ngữ và phát triển các kiểu
câu theo cấu trúc ngữ pháp cho trẻ ở giai đoạn này là cực kỳ quan trọng.
Nếu một đứa trẻ 5 - 6 tuổi mà nói năng ấp úng, phát âm ngọng líu ngọng
lô, vốn từ nghèo nàn không đủ để diễn đạt những điều mình cần nói, không sử
dụng đợc các kiểu câu đúng ngữ pháp để nói mạch lạc cho mọi ngời hiểu và
hiểu đợc lời ngời khác nói thì có thể liệt kê vào loại chậm phát triển.
Do nhu cầu giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đợc mở rộng nên vốn từ
của trẻ tăng lên rất nhanh và ngôn ngữ ngữ pháp của trẻ phát triển mạnh. Đặc
điểm nổi bật của trẻ ở độ tuổi này là số lợng câu đơn mở rộng trong lời nói của
trẻ tăng. Sự mở rộng không còn hạn chế ở thành phần phụ trạng ngữ mà còn ở
cả các thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ .
VD : Bạn Phơng lớp cháu hay khóc.
ĐN
Còn các kiểu câu ghép trong lời nói của trẻ cũng tăng lên. Ngoài các kiểu
câu ghép đẳng lập liệt kê và ghép chính phụ nhân quả còn xuất hiện kiểu câu

ghép đẳng lập lựa chọn, đẳng lập tơng phản, câu ghép chính phụ điều kiện- kết
quả - giả thiết, kết quả mục đích - sự kiện
VD : Câu ghép lựa chọn :
Lan cho tớ mợn búp bê hay Lan đổi búp bê cho tớ lấy qủa bóng.
Câu ghép tơng phản :
Cô nhắc các bạn nhng các bạn vẫn mất trật tự
10
Câu ghép điều kiện kết quả :
Nếu cháu ngoan thì cô sẽ thởng phiếu bé ngoan
Câu ghép mục đích - sự kiện :
Cháu giúp mẹ để mẹ đỡ mệt.
Nh vậy, đến tuổi mẫu giáo lớn thì trong lời nói của trẻ đã có mặt hầu hết
các kiểu câu ghép. Điều này chứng tỏ t duy của trẻ đã có sự thay đổi về chất.
* Tuy nhiên trẻ vẫn còn hạn chế ở những điểm sau :
- Các dạng câu đơn mở rộng còn nghèo nàn.
- Dùng câu ghép thiếu các quan hệ từ :
VD : Cô giáo mắng bạn Tuấn Anh, bạn Tuấn Anh khóc.
(thiếu tại vì, nên)
Chơng II
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I. Vài nét về điều kiện công tác, giáo dục ở Trờng mầm non Hoa Hồng-
Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc là trờng trọng điểm
cấp tỉnh, nhiều năm liền trờng đạt tiên tiến xuất sắc.
- Thuận lợi :
+Trờng có đội ngũ giáo viên nhiệt tình với nghề nghiệp, yêu nghề, mến
trẻ.
Tổng số giáo viên, nhân viên trong trờng là 54 ngời. Tuổi đời của giáo
viên đa số là từ 25 - 35 tuổi.
+Tổng số học sinh : 545 cháu

Trong đó : Nhà trẻ + mẫu giáo 3 tuổi : 206 cháu/ 7 lớp.
Mẫu giáo 4 -5 tuổi : 339 cháu /8 lớp
11
+ Cơ sở vật chất : Trờng đợc đầu t nhiều đồ dùng, đồ chơi và các trang
thiết bị phục vụ cho việc dạy và học. Lớp học đợc xây dựng đúng quy cách,
phòng học khang trang, sạch sẽ đảm bảo vệ sinh.
- Khó khăn :
Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ giáo viên cha đồng đều, một số
giáo viên mới ra trờng tay nghề còn non yếu. Do vậy, việc tuyên truyền kiến
thức nuôi dạy trẻ theo khoa học còn hạn chế. Nhất là việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
II. Điều tra thực trạng :
1. Thời gian điều tra : Từ 12/9 đén 12/10/ 2003.
Điều tra tại Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
2. Phơng pháp điều tra :
- Phơng pháp quan sát, đàm thoại trực tiếp với trẻ.
- Phơng pháp trò chuyện
- Phiếu điều tra.
3. Tiến hành điều tra :
Điều tra trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở Trờng mầm non Hoa Hồng- Vĩnh
Yên - Vĩnh Phúc.
Số trẻ điều tra : 20 cháu (10 trai, 10 gái)
4. Hình thức điều tra
*Điều tra trên tiết học qua các bộ môn.
- âm nhạc
- Môi trờng xung quanh
- Văn học (thơ, truyện)
- Tạo hình
-Toán
12

×