Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 112 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5
4. Giả thuyết khoa học 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 6
7. Phương pháp nghiên cứu 6
8. Cấu trúc của luận văn 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CBQL TTHTCĐ 8
1.1. Vài nét tổng quan về nghiên cứu Trung tâm học tập cộng đồng 8
1.1.1. Mô hình trung tâm học tập cộng đồng ở một số nước trên thế giới 8
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu, phát triển mô hình TTHTCĐ ở Việt Nam 13
1.2. Trung tâm học tập cộng đồng (mô hình của Việt Nam) 16
1.2.1. Khái niệm trung tâm học tập cộng đồng 16
1.2.2. Mục tiêu hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng 18
1.2.3. Đặc điểm tổ chức của trung tâm học tập cộng đồng 20
1.2.4. Nội dung, phương pháp, hình thức học và dạy ở các TTHTCĐ 22
1.2.5. Người học và người dạy trong trung tâm học tập cộng đồng 25
1.2.6. Đặc điểm các nguồn lực của trung tâm học tập cộng đồng 27
1.3. Hoạt động quản lý TTHTCĐ và người cán bộ quản lý TTHTCĐ 28
1.3.1. Quản lý trung tâm học tập cộng đồng 28
1.3.2. Người cán bộ quản lý trung tâm học tập cộng đồng 34
1.4. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trong các TTHTCĐ 39
1.4.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm học tập cộng đồng 39
1.4.2. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm học tập cộng đồng 41
* Kết luận chương 1 43
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN CÁN BỘ QUẢN LÝ CÁC TTHTCĐ VÀ CÔNG
TÁC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ CÁC TTHTCĐ Ở HUYỆN YÊN HƯNG -


TỈNH QUẢNG NINH
44
2.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến quy mô và chất
lượng hoạt động của các TTHTCĐ trên địa bàn huyện Yên Hưng
44
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của huyện Yên Hưng 44
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội của huyện Yên Hưng 46
2.1.3. Tình hình phát triển giáo dục của huyện Yên Hưng 47
2.2. Thực trạng hoạt động của các TTHTCĐ ở huyện Yên Hưng 49
2.2.1. Quá trình chỉ đạo tổ chức xây dung các trung tâm học tập cộng đồng 49
2.2.2. Nội dung hoạt động của các TTHTCĐ ở huyện Yên Hưng 51
2.2.3. Kết quả hoạt động của các TTHTCĐ ở huyện Yên Hưng 54
2.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý các TTHTCĐ ở huyện Yên Hưng 58
2.3.1. Về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ CBQL TTHTCĐ 59
2.3.2. Về động cơ tham gia hoạt động quản lý của đội ngũ CBQL các TTHTCĐ 64
1
2.3.3. Khả năng phù hợp đặc điểm công việc quản lý TTHTCĐ của đội ngũ CBQL 65
2.3.4. Kỹ năng quản lý của đội ngũ CBQL trung tâm học tập cộng đồng 68
2.4. Thực trạng công tác phát triển đội ngũ CBQL các TTHTCĐ ở Yên Hưng 69
2.4.1. Thực trạng quản lý đội ngũ CBQL TTHTCĐ của cấp xã 69
2.4.2. Thực trạng quản lý đội ngũ CBQL TTHTCĐ của cấp huyện 70
* Kết luận chương 2 72
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ CÁC
TTHTCĐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN HƯNG - TỈNH QUẢNG NINH
74
3.1. Một số nguyên tắc xây dựng các biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản
lý TTHTCĐ trên địa bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh
74
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính tự chủ của cộng đồng và phát huy cao nhất sự
tham gia của nhân dân vào công tác quản lý TTHTCĐ

74
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền
các cấp đối với công tác phát triển đội ngũ CBQL ở TTHTCĐ
75
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính phối hợp và liên kết trong chỉ đạo phát triển đội
ngũ CBQL các TTHTCĐ
75
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính đa dạng và tương hỗ trong đội ngũ CBQL từng
TTHTCĐ
76
3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo sự kết hợp hài hoà các lợi ích trong công tác và trong
đãi ngộ cho đội ngũ CBQL các TTHTCĐ
77
3.1.6. Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp giữa từng ban giám đốc TTHTCĐ với tất
cả đội ngũ CBQL các TTHTCĐ trên địa bàn huyện
77
3.2. Một số biện pháp phát triển đội ngũ CBQL TTHTCĐ trên điạ bàn huyện
Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh
78
3.2.1. Xây dựng quy hoạch CBQL theo đặc thù tổ chức,hoạt động TTHTCĐ 78
3.2.2. Tổ chức chặt chẽ quy trình giới thiệu – thẩm định trong khâu tuyển chọn 81
3.2.3. Sử dụng hiệu quả đội ngũ CBQL trên cơ sở phối hợp thế mạnh cá nhân 83
3.2.4. Bồi dưỡng năng lực và đào tạo kỹ năng quản lý giáo dục cho CBQL 85
3.2.5. Kết hợp giám sát, đánh giá với điều chỉnh kịp thời 88
3.2.6. Đảm bảo các chế độ đãi ngô hợp lý và kịp thời 89
3.2.7. Xây dung hệ thống hỗ trợ công tác quản lý trên phạm vi toàn huyện 90
3.3. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp đã đề xuất 92
3.3.1. Mục đích và đối tượng khảo nghiệm 92
3.3.2. Quá trình khảo nghiệm 92
3.4.3. Kết quả khảo nghiệm và nhận xét 93

* Kết luận chương 3 97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 98
1. Kết luận 98
2. Khuyến nghị 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
PHỤ LỤC 109
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những tiến bộ có tính chất nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đã làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội loài người; tri thức ngày càng đóng vai
trò quan trọng thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Đó là cơ hội và cũng là
thách thức lớn đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ các nền giáo dục nhằm đáp ứng một
cách hiệu quả hơn những nhu cầu phát triển của thời đại. Tổ chức các nước trong
Hội đồng kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) họp tháng 4/2000, Hội nghị
thượng đỉnh G8 họp tháng 7/2000 đều có lời kêu gọi các nước “Xây dựng xã hội
học tập trên quan điểm học tập suốt đời”... Đứng trước “một thế giới đang chuyển
động từ xã hội công nghiệp hoá theo kiểu truyền thống sang một xã hội mà tri
thức đang xuất hiện và nổi trội lên, sự thách thức đối với mỗi quốc gia là phải xây
dựng một xã hội học tập và phải đảm bảo cho công dân của mình được trang bị
kiến thức, kỹ năng và tay nghề cao”[31-Tr.3].
Ở nước ta, chủ trương phát triển giáo dục thường xuyên, đào tạo tại cơ sở,
học tập suốt đời đã được thể hiện từ khá sớm trong đường lối phát triển giáo dục
của Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) nêu rõ “Cần
sử dụng rộng rãi các hình thức học buổi tối, hàm thụ và mở lớp tại các cơ sở sản
xuất”[31-Tr.10], đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) đã khẳng
định: “Cần phải thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác
định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân”[31-Tr.10].
Tư tưởng về “Xây dựng xã hội học tập” bắt đầu được thể hiện trong Báo cáo

Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX: " Thực hiện giáo dục cho mọi người, cả
nước trở thành một xã hội học tập” [16-Tr.35].và được phát triển tại Đại hội Đảng
lần thứ X: "Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở -
mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông
giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi
3
người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập
thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, đảm bảo sự
công bằng xã hội trong giáo dục"[17-Tr.39]. Với tư tưởng mới mẻ ấy, hệ thống
giáo dục quốc dân Việt Nam đã có sự biến đổi đáng kể với sự ra đời những mô
hình tổ chức cơ sở giáo dục ở nhiều cấp độ khác nhau trong lĩnh vực Giáo dục
thường xuyên và Dạy nghề, trong đó có mô hình Trung tâm học tập cộng đồng
(TTHTCĐ). Luật Giáo dục (năm 2005) đã chính thức công nhận Trung tâm học
tập cộng đồng là cơ sở giáo dục thường xuyên thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
được tổ chức ở các xã, phường, thị trấn. Đây chính là cơ sở giáo dục dành cho tất
cả mọi người để thực hiện việc xây dựng xã hội học tập từ đơn vị hành chính thấp
nhất ở nước ta hiện nay. “Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010” do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ban hành ngày 18/5/2005 đã khẳng định điều
đó qua việc xác định: “Phấn đấu đến năm 2010 đạt tỷ lệ trên 80% số lượng các
xã, phường, thị trấn trong cả nước có trung tâm học tập cộng đồng”[42-Tr.4].
Với sự quan tâm chỉ đạo về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và
sự nỗ lực của toàn xã hội, hệ thống TTHTCĐ ở nước ta đã có bước phát triển rõ
rệt và có đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng xã hội học tập. Tuy nhiên do
là một mô hình tổ chức cơ sở giáo dục rất mới nên, để đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững và hoạt động có hiệu quả thực sự, hệ thống TTHTCĐ ở nước ta đang
đứng trước những thách thức không nhỏ. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho
việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để từng bước hoàn thiện hệ thống này.
Tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Yên Hưng nói riêng là địa phương
có phong trào xây dựng “xã hội học tập” phát triển khá mạnh và đã quan tâm
nhiều tới xây dựng hệ thống TTHTCĐ. Tỉnh Quảng Ninh đã triển khai sớm

“Chương trình hành động xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”, trong
đó một trọng tâm lớn là chỉ đạo phát triển hệ thống TTHTCĐ ở ít nhất là 80% số
xã, phường, thị trấn của tỉnh vào năm 2010 [47-Tr.7]. Huyện Yên Hưng là huyện
có nhiều đặc điểm điển hình nhất cho tỉnh Quảng Ninh (cả về địa hình, dân cư và
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội) nên được xác định là một trong ba địa
4
phương chỉ đạo điểm về xây dựng TTHTCĐ của tỉnh. Mạng lưới TTHTCĐ của
Yên Hưng được xây dựng sớm (đến tháng 6 năm 2006 đã có 100% số xã và thị
trấn có TTHTCĐ), góp phần đáng kể vào việc nâng cao dân trí và phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, phần lớn TTHTCĐ trên địa bàn huyện vẫn
đang hoạt động chưa thật hiệu quả: việc tổ chức học tập tại trung tâm còn đơn
điệu và thụ động, cơ sở vật chất và kinh phí duy trì hoạt động còn hạn chế, cơ cấu
tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành chưa được ổn định. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ
quản lý các TTHTCĐ còn nhiều biến động và hầu hết chưa được đào tạo, thiếu
hiểu biết sư phạm và nghiệp vụ quản lý nên đã ảnh hưởng trực tiếp và rõ rệt tới
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các TTHTCĐ.
Là người phụ trách công tác Giáo dục thường xuyên tại Sở Giáo dục và
Đào tạo, chịu trách nhiệm tham mưu và chỉ đạo hệ thống TTHTCĐ ở địa phương,
đồng thời trực tiếp chỉ đạo thí điểm tại huyện Yên Hưng trong nhiều năm qua,
bản thân tôi luôn trăn trở tìm biện pháp để thúc đẩy các TTHTCĐ phát triển bền
vững và hoạt động đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài : "Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm học tập
cộng đồng trên địa bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh".
Đối với lĩnh vực quản lý, phát triển các TTHTCĐ, vấn đề “phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý các TTHTCĐ trên địa bàn cấp huyện” là một đề tài mới, chưa
được trực tiếp nghiên cứu. Do vậy việc lựa chọn nghiên cứu đề tài này cũng nhằm
đóng góp một phần nhỏ vào nỗ lực chung để phát triển bền vững hệ thống
TTHTCĐ hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra các biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý TTHTCĐ với cơ

cấu hợp lý và ổn định, năng lực quản lý tốt, đáp ứng các đặc điểm và yêu cầu phát
triển TTHTCĐ tại địa bàn huyện Yên Hưng, từ đó rút kinh nghiệm để phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý TTHTCĐ toàn tỉnh Quảng Ninh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động của các TTHTCĐ trên địa bàn huyện Yên Hưng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các TTHTCĐ của các xã và thị
trấn của huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ cán bộ quản lý các TT HTCĐ hiện tại chưa phù hợp, thiếu ổn định
và năng lực quản lý còn thấp là một trong những nguyên nhân chính làm hạn chế
chất lượng hoạt động của các TT HTCĐ. Vì thế, tìm ra những biện pháp hữu hiệu
để phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các TT HTCĐ sẽ tạo chuyển biến quan trọng
để nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự phát triển bền vững của các
TTHTCĐ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý TTHTCĐ và phát triển đội
ngũ cán bộ quản lí các TTHTCĐ.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động và quản lý các TTHTCĐ tại địa
bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các TTHTCĐ
ở địa bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đội ngũ cán bộ quản lí các TTHTCĐ của các xã và thị trấn thuộc huyện
Yên Hưng (có đối chiếu so sánh với một số địa bàn khác của tỉnh Quảng Ninh).
- Phạm vi khảo sát : 5 năm (từ tháng 6/2004 đến tháng 6/2009)
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Bao gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá,
khái quát hoá các tài liệu lý luận, các công trình nghiên cứu có liên quan để xây
dựng cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
6
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễu
Gồm các phương pháp:
- Phương pháp điều tra: Phát phiếu trưng cầu ý kiến và phỏng vấn trực tiếp
về những vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ quản lý của TT HTCĐ.
- Phương pháp quan sát: Quan sát thực tiễn công tác điều hành của các cán
bộ quản lý, sự tham gia học tập và hoạt động giảng dạy tại các TT HTCĐ.
- Phương pháp chuyên gia: Thông qua các mẫu phiếu và trao đổi trực tiếp
để xin ý kiến các chuyên gia về cách xử lý các kết quả điều tra, cách thức thực
hiện các biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý được đề xuất.
- Phương pháp khảo nghiệm: Nhằm chứng minh giả thuyết khoa học của đề
tài.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trao đổi, toạ đàm; tổ chức các hội
thảo, hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm về quản lí các TT HTCĐ.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý các tài liệu lượng hoá kết quả nghiên cứu đề tài.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận - khuyến nghị, nội dung của Luận
văn được thực hiện trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm
học tập cộng đồng
Chương 2. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm học tập cộng đồng
và công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lí các trung tâm học tập cộng đồng ở
huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh
Chương 3. Một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm
học tập cộng đồng ở huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh
7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN
LÝ TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG (TTHTCĐ)
1.1. Vài nét tổng quan vấn đề nghiên cứu về Trung tâm học tập cộng đồng
1.1.1. Mô hình TTHTCĐ ở một số nước trên thế giới
1.1.1.1. Trung tâm học tập cộng đồng (Kominkan) ở Nhật Bản.
Hình thức tổ chức mang tính chất Trung tâm học tập dành cho dân chúng
được thành lập theo cách tự phát đã xuất hiện rất sớm ở Nhật Bản. Từ thế kỷ thứ
XVII, Nhật Bản đã có 15.000 Terakoya (tiếng Nhật có nghĩa là: Nhà dành cho học
viên hoặc Trung tâm học tập). Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, trên cơ sở
nghiên cứu các Terakoya, Chính phủ Nhật Bản đã khuyến khích thành lập các
Trung tâm học tập chung cho cộng đồng với tên gọi là Kominkan (tiếng Nhật có
nghĩa là: Nhà văn hóa của nhân dân). Người đề xuất ra mô hình này là Giáo sư
Teranaka Sakuto- Giáo sư của Trường Đại học Matsumoto – một nhà cải cách
giáo dục Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2. Hoạt động của các Kominkan
liên quan sâu sắc đến việc xây dựng đất nước Nhật Bản sau chiến tranh và trở
thành nền móng vững chắc trong việc xây dựng cộng đồng Nhật Bản ngày nay.
Sơ đồ 1.1: HỆ THỐNG QUẢN LÝ CÁC KOMINKAN Ở NHẬT BẢN
Bộ Giáo dục - Khoa học -
Thể thao và Công nghệ
Luật Giáo dục – Xã hội
Chính quyền quận/huyện
8
Việc tăng cường đầu tư và quản lý các Kominkan (trong đó có việc Bộ
luật Giáo dục – Xã hội của Nhật Bản ra đời năm 1949 khẳng định Kominkan
là một bộ phận của hệ thống giáo dục người lớn) đã khiến số Kominkan ở
Nhật Bản phát triển rất nhanh chóng : năm 1947 có 3.534 trung tâm, năm
1963 có 19.410 trung tâm, năm 1993 có 17.562 trung tâm, năm 2002 có
17.947 trung tâm. Đến năm 2006, ở Nhật Bản có 18.000 Kominkan hoạt động
dưới sự bảo trợ của Nhà nước trung ương và địa phương, phủ khắp 90% tổng
số thị trấn, làng xã của nước Nhật (ngoài ra còn có 76.883 Kominkan do người

dân tự thành lập với quy mô nhỏ hơn và thường nằm ở vùng nông thôn). Ở
Nhật Bản, các Kominkan đóng vai trò là nơi hội họp, là địa điểm học tập, nơi
liên kết các cá nhân hoặc các nhóm với nhau, nơi mà người dân có thể đến để
phát triển bản thân, phát triển cộng đồng và tìm hiểu và khám phá về cộng
đồng (xin xem cấu trúc mô hình quản lý Kominkan ở Sơ đồ 1.1) .
Kết quả nghiên cứu về mô hình trung tâm học tập cộng đồng -
Kominkan ở Nhật Bản đã đề xuất được các nguyên tắc cơ bản để phát triển và
quản lý các trung tâm này là:
- Phải đảm bảo sự tự do và bình đẳng;
- Phải được miễn phí;
- Với tư cách là cơ sở giáo dục, Kominkan phải tổ chức các hoạt động
giảng dạy hoặc tập huấn (nếu không, nó chỉ đơn thuần là phòng họp);
- Phải có đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên;
- Phải được đặt ở nơi gần và thuận tiện đối với người dân;
- Phải được cung cấp đầy đủ các trang thiết bị phù hợp.
1.1.1.2. Trung tâm học tập cộng đồng ở Thái Lan
Thái Lan là một nước có nhận thức sớm về vai trò của giáo dục không
chính quy và cũng có cơ sở hạ tầng của giáo dục không chính quy tương đối
tốt. Năm 1998, Thái Lan đã có 35.000 Trung tâm đọc sách. Hiện nay, các cơ
9
sở giáo dục không chính quy của Thái Lan được tổ chức theo hệ thống từ
Trung ương tới địa phương gồm các Trung tâm nguồn ở cấp vùng (gồm 7
Trung tâm), các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp tỉnh (gồm 76 Trung
tâm), các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp huyện (gồm 877 Trung
tâm) và Trung tâm học tập cộng đồng ở cấp xã (gồm 8.577 Trung tâm).
Với cách tổ chức hệ thống như vậy, các TTHTCĐ ở Thái Lan được hỗ
trợ điều phối các hoạt động về tài chính, được điều phối về cán bộ quản lý,
nhân viên, giáo viên và được tập huấn cán bộ, hỗ trợ học liệu từ các Trung tâm
nguồn, các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp tỉnh và cấp huyện.
TTHTCĐ tổ chức ở cấp xã được đánh giá là thực sự cần thiết để cung cấp kiến

thức và thông tin cho mọi người dân sống trong cộng đồng.
Các của TTHTCĐ ở Thái Lan thực hiện 3 chức năng chủ yếu là:
- Giáo dục cơ sở (xóa mù chữ, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở),
- Giáo dục nghề nghiệp (mở lớp huấn luyện kỹ năng ngắn ngày và giáo
dục nghề cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông);
- Thông tin, tư vấn (qua các hoạt động và qua tài liệu).
Kết quả nghiên cứu về mô hình TTHTCĐ ở Thái Lan đã khẳng định các
nguyên tắc cơ bản để điều hành và quản lý hoạt động của TTHTCĐ là:
- TTHTCĐ là của dân, do dân và vì dân. Người đứng đầu trung tâm phải
có định hướng cụ thể để phát triển trung tâm, đảm bảo để mọi người đều có cơ
hội học tập.
- TTHTCĐ hoạt động theo cơ chế mở. Mọi người trong cộng đồng có
thể đến học bất cứ lúc nào.
- TTHTCĐ phải trở thành cầu nối thông tin giữa mọi người, gắn được
việc học chữ với việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày.
- TTHTCĐ phải có mạng lưới liên kết với các cơ sở giáo dục, với các tổ
chức xã hội, các cơ sở sản xuất và các chuyên gia trên các lĩnh vực.
(Xin xem mô hình quản lý và tác động của TTHTCĐ ở Thái Lan tại Sơ đồ 1.2)
10
Sơ đồ 1.2: MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TTHTCĐ Ở THÁI LAN
1.1.1.3. Trung tâm học tập cộng đồng ở Ấn Độ
Từ năm 1988, Chính phủ Ấn Độ đã quyết định thành lập hàng loạt các
Jana Shikshan Nilayams (viết tắt là JSNs - tiếng Ấn Độ có nghĩa là Trung tâm
học tập) trong cả nước với mô hình cứ 4-5 làng (khoảng 5.000 dân) có một
Trung tâm nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho giáo dục sau xoá mù chữ và
GDTX. Tới những năm 1990-1991, chính sách giáo dục quốc gia của Ấn Độ
đề ra thêm nhiều chương trình để đẩy mạnh giáo dục sau xóa mù chữ và
GDTX, trong đó có chương trình thành lập các Trung tâm GDTX (Continuing
Education Centres - CECs). Các Trung tâm GDTX này không chỉ phục vụ cho
những người mới biết chữ mà cho cả trẻ em, thanh niên thất học và tất cả

thành viên trong cộng đồng có nhu cầu học tập suốt đời.
Các Trung tâm GDTX (CECs) ở Ấn Độ thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu
là: Mở các lớp buổi tối để củng cố kỹ năng biết chữ; Tổ chức đọc sách hoặc
cho mượn sách; Tổ chức thảo luận những vấn đề của cộng đồng; Tổ chức
huấn luyện ngắn ngày về kỹ thuật sản xuất và đời sống; Tổ chức các hoạt động
thể thao, văn hóa, giải trí; Tổ chức thông tin tuyên truyền ...
Trung tâm nguồn
(cấp vùng)
Trung tâm GDKCQ
cấp huy nệ
Trung tâm
học tập
cộng đồng
Các giáo viên,
Cộng tác viên
Các
chuyên gia
Các thành viên
trong cộng đồng
Các tổ chức
xã hội
Các CSGD
tại cộng đồng
Các cơ sở
liên kết khác
11
Về mặt tổ chức và quản lý, các Trung tâm GDTX (CECs) của Ấn Độ
được thành lập theo quy mô cấp xã (dân số khoảng 1500-2000 người trong đó
có khoảng 500 người mới biết chữ), và chủ yếu do cộng đồng tự cam kết
thành lập và quản lý.

1.1.1.4. Trung tâm học tập cộng đồng ở Myanmar
Mô hình trung tâm học tập cộng đồng bắt đầu được xây dựng tại
Myanmar từ năm 1994 với sự giúp đỡ của UNDP, UNESCO và các tổ chức
phi chính phủ khác. Tính đến năm 2007, Myanmar đã có 480 Trung tâm.
Mục đích của các TTHTCĐ tại Myanmar là: Khuyến khích sự tham gia
của cộng đồng trong việc hạn chế tỷ lệ bỏ học và nâng cao tỷ lệ đến trường
tiểu học của trẻ em; Tập trung vào hoạt động tăng thu nhập và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân; tạo cơ hội cho người dân được tiếp cận với
thông tin. Ở Myanmar, TTHTCĐ có thể vừa là một trung tâm thông tin, trung
tâm huấn luyện nghề nghiệp vừa là một câu lạc bộ để trao đổi, thảo luận, một
thư viện, nơi đọc sách báo hoặc trung tâm văn hoá, vui chơi, giải trí của cộng
đồng, có vai trò to lớn trong việc tạo cơ hội học tập tiếp tục cho trẻ em và
người lớn.
Về măt tổ chức và quản lý, TTHTCĐ tại Myanmar được xác định là
một cơ sở giáo dục tại làng xã, nằm ngoài hệ thống giáo dục chính quy, được
nhân dân địa phương thành lập và quản lý, nhằm cung cấp cho nhân dân
những cơ hội học tập đa dạng để cải thiện chất lượng cuộc sống và phát triển
cộng đồng.
1.1.1.5. TTHTCĐ ở các nước khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Trong khuôn khổ Chương trình Châu Á - Thái Bình Dương về Giáo dục
cho mọi người (APPEAL), Dự án phát triển TTHTCĐ đã được triển khai từ
năm 1998. Đến năm 2005, chương trình phát triển TTHTCĐ của UNESCO đã
được triển khai tại 20 quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương .
Ở các quốc gia này, TTHTCĐ đã phát huy vai trò phục vụ cho các đối
tượng người lớn, thanh thiếu niên thuộc mọi đối tượng trong cộng đồng thông
12
qua các hoạt động xóa mù chữ và GDTX. TTHTCĐ giúp người học có được
thông tin chủ yếu và những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho sự phát triển của
cá nhân, gia đình và xã hội.
Tóm lại, nghiên cứu sự phát triển mô hình tổ chức và quản lý của các

TTHTCĐ trên thế giới chúng tôi thấy TTHTCĐ ở các nước dù có tên gọi khác
nhau nhưng đều thể hiện rõ là một cơ chế có hiệu quả để thực hiện xoá mù
chữ và GDTX và có vai trò quan trọng trong các hoạt động giáo dục, y tế,
nông nghiệp, phát triển cộng đồng - nhất là ở nông thôn. Đúng như “ Khuyến
nghị của Hội đồng quốc tế về giáo dục cho thế kỷ 21 gửi UNESCO 1996” đã
khẳng định: “Rõ ràng cộng đồng địa phương bao giờ cũng giữ vai trò quan
trọng hàng đầu đối với bất kỳ một chiến lược cải cách nào.Vì vậy, một trong
những giải pháp quan trọng để phát triển cộng đồng và để cộng đồng tham gia
vào quá trình cải cách giáo dục cần thiết phải xây dựng và phát triển các cơ sở
giáo dục cộng đồng” [31-Tr.19]. TTHTCĐ đã và đang được phát triển ngày
càng rộng khắp ở các nước như một hệ thống cơ sở tổ chức học tập cho cộng
đồng phù hợp với xu thế giáo dục mới. Sự ra đời và phát triển của mô hình
TTHTCĐ ở Việt Nam cũng nằm trong xu thế đó.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu, phát triển mô hình TTHTCĐ ở Việt Nam
Mô hình Trung tâm học tập cộng đồng của Việt Nam bắt đầu được thử
nghiệm từ năm 1997 do Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thiết kế với sự hỗ
trợ kinh nghiệm của một số tổ chức nước ngoài như UNESCO Bangkok, hiệp
hội các câu lạc bộ UNESCO Nhật Bản và UNICEF Việt Nam. Sự nỗ lực của
các tổ chức xã hội (trước hết là Hội Khuyến học Việt Nam) và ngành Giáo dục
– Đào tạo, đặc biệt là sự thừa nhận vai trò, vị trí như một cơ sở giáo dục nằm
trong hệ thống giáo dục quốc dân (Luật Giáo dục - 2005) đã làm cho hệ thống
TTHTCĐ phát triển rất nhanh. Từ 10 TTHTCĐ được thử nghiệm trong những
năm 1997-2000 tại một số tỉnh đại diện cho các vùng miền trong cả nước
(gồm: Hà Nội, Hoà Bình, Lai Châu, Thái Bình, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Kon
13
Tum và Lao Cai), năm 2001 cả nước đã có 125 TTHTCĐ, đến năm 2005 có
5.331 TTHTCĐ và tại thời điểm tháng 6/2009 đã có 9.551 TTHTCĐ (chiếm
86,41% so với tổng số 11.059 xã, phường, thị trấn của cả nước). Mô hình
TTHTCĐ đã được thực tiễn chấp nhận và được triển khai đều khắp trên cả
nước trong đó có 29 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ 100% và 39 tỉnh, thành phố đạt tỷ

lệ trên 95% đơn vị cấp xã đã thành lập TTHTCĐ.
Về mặt tổ chức và quản lý, mô hình TTHTCĐ của Việt Nam được thiết
kế và phát triển trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới
(như đã trình bày ở trên), đồng thời có sự kế thừa và phát huy các yếu tố tích
cực của các mô hình thiết chế văn hoá - giáo dục tại cộng đồng đã có từ trước
đây ở trong nước (như Nhà Rông, Đình làng,..). Do đó, TTHTCĐ đang được
xây dựng và phát triển ở Việt Nam vừa có sự phù hợp với những điều kiện,
hoàn cảnh mới và mang ý tưởng của thời đại, vừa có yếu tố truyền thống. (Xin
xem sơ đồ quản lý TTHTCĐ ở địa phương tại Sơ đồ 1.3)
Sau hơn mười năm phát triển, hệ thống TTHTCĐ ở Việt nam đã được
đánh giá là một mô hình cơ sở giáo dục mới với những điểm mạnh, điểm yếu
và đang đứng trước những cơ hội và thách thức khá rõ rệt. Cụ thể là:
i) TTHTCĐ ở nước ta đã khẳng định những điểm mạnh chủ yếu sau:
+ Đã tạo ra cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời cho người dân
ngay tại cộng đồng do được tổ chức ngay tại cơ sở làng xã, với phương châm
“cần gì, học nấy”;
+ Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở cộng đồng
cả về nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh, thực hiện dân quyền, ổn định và
nâng cao chất lượng dân số và cải thiện môi trường dân cư;
+ Góp phần phát triển cộng đồng bền vững thông qua việc đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế địa phương, thực hiện các mục
tiêu phát triển văn hóa - xã hội của địa phương và nâng cao nhận thức, kỹ năng
của người dân trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường.
ii) Những hạn chế cần khắc phục:
14
+ Chưa thực sự tạo cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời cho
tất cả mọi người (mới chỉ thu hút được khoảng 20-40% người dân tham gia);
+ Chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của nhiều THTCĐ còn hạn chế
(Chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của nhiều
TTHTCĐ chưa đa dạng, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của người dân và các

vấn đề của cộng đồng; Địa điểm đặt TTHTCĐ chưa thật sự thuận lợi đối với
người dân ở các địa bàn miền núi, hải đảo có địa hình phân tán...);
+ Việc giám sát, đánh giá chưa được quan tâm và còn nhiều bất cập
iii) Những cơ hội đang mở ra đối với hệ thống TTHTCĐ hiện nay là:
+ Người dân ngày càng ý thức được tầm quan trọng và có nhu cầu học
tập thường xuyên, học tập suốt đời;
+ Đảng và Nhà nước đã quan tâm và có nhiều chủ trương chính sách
(TTHTCĐ đã được thể chế hóa trong Luật Giáo dục; Đã có “Quy chế tổ chức
và hoạt động” cụ thể; Đã được Nhà nước hỗ trợ ban đầu và hỗ thợ thường
xuyên về kinh phí...);
+ Việc giáo dục, tuyên truyền cho người dân ở cơ sở ngày càng được
các ban, ngành, đoàn thể, chương trình, dự án coi trọng;
+ Vấn đề học tập thường xuyên, học tập suốt đời ngày càng được các tổ
chức quốc tế quan tâm.
iiii) Những thách thức đang đặt ra đối với hệ thống TTHTCĐ hiện nay :
+ Nhận thức của xã hội, các cấp chính quyền và người dân đối với vị trí,
vai trò của THHTCĐ còn chưa đầy đủ, sự quan tâm chỉ đạo của nhiều địa
phương và sự tích cực chủ động tham gia của nhiều người dân còn hạn chế; Sự
phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc tổ chức hoạt động tại các
TTHTCĐ chưa chặt chẽ và thiếu hiệu quả;
+ Cơ sở pháp lý, chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý và giáo viên
của THTCĐ chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và chưa phù hợp;
+ Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên của TTHTCĐ còn thiếu về số
lượng, hạn chế về chất lượng;
15
+ Cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu học tập tại TTHTCĐ còn thiếu
thốn, chưa phù hợp; Kinh phí đã được Nhà nước hỗ trợ nhưng chưa đáp ứng
được nhu cầu, trong khi khả năng huy động xã hội hóa còn rất hạn chế.
Từ những đánh giá (qua việc phân tích SWOT) đối với hệ thống
TTHTCĐ trên đây, có thể thấy rằng : với đặc điểm là một mô hình cơ sở giáo

dục mới, bên cạnh việc phát triển khá nhanh về số lượng, hệ thống TTHTCĐ ở
nước ta vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Vì vậy việc nghiên cứu các giải
pháp để nâng cao chất lượng các TTHTCĐ (trong đó có vấn đề “phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý các TTHTCĐ” - nhằm giải quyết một trong những khó
khăn/thách thức đối với hệ thống TTHTCĐ hiện nay) là một vấn đề cần thiết
không chỉ đối với một địa phương mà đối với cả nước.
Sơ đồ 1.3: HỆ THỐNG QUẢN LÝ TTHTCĐ TẠI ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM
1.2. Trung tâm học tập cộng đồng (mô hình Việt Nam)
1. 2.1. Khái niệm Trung tâm học tập cộng đồng
TTHTCĐ (từ sau đây, khi nhắc đến khái niệm “trung tâm học tập cộng
đồng” là để chỉ TTHTCĐ theo mô hình của Việt Nam) là một cơ sở giáo dục
nhưng là một loại hình cơ sở giáo dục có những đặc điểm rất riêng biệt so với
các loại hình cơ sở giáo dục khác. Để quản lý hệ thống TTHTCĐ và đề xuất
các giải phát phát triển, nâng cao chất lượng hệ thống này (trong đó có việc
16
Sở GD&ĐT
tỉnh
UBND
cấp xã
UBND
cấp huyện
Phòng GD&ĐT
cấp huyện
Trung tâm
GDTX
cấp huyện
Trung
tâm
HTCĐ
“phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm học tập cộng đồng”), cần

nghiên cứu kỹ các đặc điểm đó.
TTHTCĐ là cơ sở giáo dục được thành lập tại xã, phường, thị trấn để
thực hiện nhiệm vụ giáo dục thường xuyên. TTHTCĐ được lập ra nhằm cung
cấp cơ hội học tập cho mọi người trong xã, phường, thị trấn để phát triển
nguồn nhân lực, cải thiện đời sống và phát triển cộng đồng, xây dựng xã hội
học tập, góp phần thực hiện sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Hoạt động của TTHTCĐ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân ở
mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, được phổ biến kiến
thức và sáng kiến kinh nghiệm trong sản xuất và cuộc sống, góp phần xoá đói
giảm nghèo, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng
cuộc sống của từng người dân và cả cộng đồng. TTHTCĐ cũng là nơi thực
hiện việc phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật đến với mọi người dân
một cách trực tiếp và cụ thể, phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi cộng đồng
dân cư tại cơ sở.
Khái niệm “Trung tâm học tập cộng đồng” đã chính thức được ghi nhận
với tư cách một cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân của Việt
Nam sau khi Luật Giáo dục được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14 tháng
6 năm 2005. Tại Điều 46, Mục 1 Luật Giáo dục khẳng định: “Cơ sở giáo dục
thường xuyên gồm: a) Trung tâm giáo dục thường xuyên được tổ chức ở cấp
tỉnh và cấp huyện; b) Trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức ở cấp xã,
phường, thị trấn” [39- Tr.40).
Theo “Quy chế tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường, thị
trấn” của Bộ GD&ĐT, “TTHTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, là trung tâm học tập tự chủ của cộng đồng cấp xã, có
sự quản lý hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời phát huy mạnh mẽ sự tham gia,
đóng góp của người dân trong cộng đồng dân cư để xây dựng và phát triển các
trung tâm theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm”[9-Tr.1].
17
1.2.2. Mục tiêu hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng
TTHTCĐ là nơi thu hút mọi người dân đến để học tập, góp phần thực

hiện "chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô
hình xã hội học tập” như mục tiêu mà Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Việc xây dựng “xã hội học tập”, chủ trương mang tính chiến lược mà Đảng ta
nêu lên bắt nguồn từ tư tưởng mang tính nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng này đã trùng
hợp với xu thế phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI.
Xây dựng “xã hội học tập” để tiến tới nền kinh tế tri thức đang là một
trong những chủ đề trọng tâm của UNESCO, của các Hội nghị giáo dục quốc
tế. Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông
tin; sự xuất hiện của xã hội thông tin, của kinh tế tri thức, của xã hội học tập;
xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Những yếu tố đó liên kết chặt
chẽ giữa các quốc gia vào cộng đồng chung thế giới và khu vực, việc học tập
suốt đời lại có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Những kiến thức có được trong nhà
trường chính quy của mỗi người không đủ đáp ứng với những nhu cầu mới,
luôn thay đổi của cuộc sống hiện đại. Do đó, mỗi người phải học thường
xuyên, học suốt đời “Học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung
sống cùng nhau”, như ông Jacque Delors, Chủ nhiệm Uỷ ban quốc tế về giáo
dục cho thế kỷ XXI đã khẳng định.
Hiểu một cách cơ bản nhất, “xã hội học tập” là một xã hội mà mọi
người được khuyến khích và hỗ trợ để học tập, mọi người vừa làm vừa học,
học thường xuyên, học liên tục để không ngừng nâng cao trình độ học vấn và
tay nghề nhằm đáp ứng những yêu cầu của thời đại mới: tin học hoá, toàn cầu
hoá, xã hội thông tin và tri thức. “Cả loài người đang bước vào ngưỡng cửa
của thế kỷ XXI với tư tưởng xây dựng một xã hội học tập, coi việc học là việc
làm thường xuyên, suốt đời của mọi người, lấy việc học là động lực quyết
định hàng đầu để đưa xã hội tiến lên” [20-Tr.28].
18
Với tư cách là hạt nhân xây dựng “xã hội học tập” tại cơ sở, mục tiêu
của TTHTCĐ là: tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trong cộng đồng được
học tập thường xuyên , được hưởng dịch vụ giáo dục, thực hiện đa dạng các

nội dung học tập; là mô hình chuyển giao kiến thức, khoa học kỹ thuật trực
tiếp, rộng rãi, nhanh nhất đến người lao động và cũng là nơi trang bị kiến thức
về cuộc sống cho cộng đồng, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí, cải thiện
cuộc sống, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm,...góp phần làm lành
mạnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng. Mục tiêu học tập ở TTHTCĐ là
học không chỉ vì bằng cấp mà chủ yếu để nâng cao chất lượng cuộc sống,
chăm sóc gia đình, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội ở địa phương,
thực hiện “dấy lên phong trào diệt “giặc dốt” trong toàn Đảng, toàn dân. Ai
dốt gì diệt nấy, người biết dạy người chưa biết, xoá mù chữ, mù công nghệ,
mù nghề, mù tin học, mù ngoại ngữ để nhân dân ta tự nâng mình lên một trình
độ trí tuệ ngang tầm thời đại, áp dụng được công nghệ vào sản xuất, xây dựng
được nếp sống văn hoá, văn minh”[31-Tr18].
Mục tiêu hoạt động của TTHTCĐ còn thể hiện ở chỗ nó là nơi thực
hiện chiến lược thông tin (tuyên truyền, giáo dục) của các ban, ngành, đoàn
thể tại cộng đồng. Với xu thế toàn cầu hoá, các quốc gia đang sống trong thời
kỳ vừa thể hiện tính phụ thuộc lẫn nhau, vừa bảo vệ tính độc lập của từng
nước, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Cuộc cách mạng thông tin hiện nay đang tạo
điều kiện thuận lợi để tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các nước, nhưng đồng
thời cũng làm cho các nền văn hoá dễ bị pha tạp, lai căng, mất bản sắc. Khi
hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá, nếu biết phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại thì sẽ có sức đề kháng với các cuộc “xâm lược văn hoá" diễn ra hàng
ngày, hàng giờ. Gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc phải được quán triệt trong
mọi lĩnh vực giáo dục và trong lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội,
khoa học, nghệ thuật, ngoại giao, an ninh quốc phòng. Các hoạt động này đều
do các ban ngành đoàn thể cùng phối hợp tổ chức tại TTHTCĐ.
19
1.2.3. Đặc điểm tổ chức của Trung tâm học tập cộng đồng
Là một cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhưng
TTHTCĐ có những đặc điểm về tổ chức không giống các loại hình cơ sở giáo

dục khác. Trước hết, tuy cũng được tổ chức ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
tắt là cấp xã) nhưng TTHTCĐ có nhiều điểm không giống các cơ sở giáo dục
cùng được tổ chức ở cấp xã như trường Mầm non, trường Tiểu học, trường
Trung học cơ sở (THCS). Mặt khác, tuy cũng là cơ sở giáo dục thường xuyên
nhưng TTHTCĐ không có các thành phần cấu trúc tương tự ở Trung tâm Giáo
dục thường xuyên (TTGDTX) cấp tỉnh và cấp huyện. Cụ thể là:
+ TTHTCĐ không nhất thiết phải có khuôn viên, phòng học, sân chơi
độc lập và cố định (hầu hết các TTHTCĐ đều mượn cơ sở sẵn có của xã như
Hội trường, Nhà văn hóa xã hoặc Nhà sinh hoạt cộng đồng của các thôn...);
+ TTHTCĐ không có đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách và không có
giáo viên cơ hữu. Họ làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, không theo nhiệm kỳ
và không nhất thiết phải có chuyên môn sư phạm;
+ TTHTCĐ không tổ chức học sinh (học viên) theo biên chế lớp cố
định từng niên khóa (mọi người dân tự nguyện đăng ký và đến dự bất kỳ lớp
học nào, vào thời gian nào khi thấy cần thiết)
+ TTHTCĐ không có chương trình giáo dục và tài liệu giảng dạy, học
tập cố định; không có “thời khoá biểu” và hồ sơ sổ điểm học sinh.
Những điểm khác biệt đó vừa do mục tiêu hoạt động của TTHTCĐ như
đã trình bày ở trên, vừa do tính chất cơ sở giáo dục và tính chất của hoạt động
học tập ở TTHTCĐ quy định:
Về tính chất của cơ sở giáo dục, TTHTCĐ là cơ sở giáo dục thực sự
“do dân, của dân và vì dân”. TTHTCĐ chủ yếu do người dân trong cộng đồng
tự lập ra và tự quản lý. TTHTCĐ là của từng cộng đồng dân cư (chủ yếu là
mỗi xã có một TTHTCĐ) góp công sức, của cải tại chỗ để tạo nên. Tác động
của Nhà nước trung ương và nhà nước địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện) chỉ
mang tính chất hỗ trợ ban đầu và tạo mặt bằng tối thiểu. Mọi người dân đều
20
tham gia xây dựng, ủng hộ và kiểm soát. TTHTCĐ hoạt động trước hết là để
đáp ứng nhu cầu “cần gì học nấy”, “học để làm ngay”, “vừa học vừa làm” một
cách thường xuyên, liên tục, học suốt đời của cán bộ và các tầng lớp nhân dân

ở các cụm dân cư xã, phường, thị trấn – đó chính là những nhu cầu cụ thể của
từng cộng đồng (bao gồm các thành viên và những người đứng đầu cộng
đồng). Những nhu cầu học tập do nhân dân đề xuất, xây dựng lên được kịp
thời đáp ứng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội.
Về tính chất hoạt động học tập, ở TTHTCĐ hoạt động học tập là
thường xuyên, suốt đời. Đây là hoạt động giáo dục hết sức đa dạng về nội
dung và hình thức tổ chức; trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự kết hợp hài
hoà giữa giáo dục và đời sống của người dân. Tổ chức hoạt động giáo dục ở
TTHTCĐ do đó không quá lệ thuộc vào các điều kiện “cứng” về cơ sở vật
chất, đội ngũ người dạy - người học, chương trình và tài liệu như giáo dục
trong nhà trường chính quy. Tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ là phản ánh
rõ nhất tinh thần “Giáo dục cho mọi người” và “Mọi người cho giáo dục”
đồng thời minh họa cho bức tranh phong phú về cơ sở giáo dục để cung cấp
mọi cơ hội học tập cho người dân trong “xã hội học tập”. (Xin xem thêm minh
họa về cơ hội học tập và cơ sở giáo dục trong “xã hội học tập” tại Sơ đồ 1.4)
Sơ đồ 1.4: CƠ HỘI HỌC TẬP VÀ CƠ SỞ GIÁO DỤC TRONG “XÃ HỘI HỌC TẬP”

21
XÃ HỘI HỌC TẬP
GD NGOÀI NHÀ TRƯỜNG
(GD người lao động và các đối tượng còn lại)
GD NHÀ TRƯỜNG
(Giáo dục thế hệ trẻ)
HỌC TẬP THƯỜNG XUYÊN, HỌC TẬP SUỐT
ĐỜI
1.2.4. Nội dung, phương pháp, hình thức học và dạy ở các TTHTCĐ
1.2.4.1. Nội dung học và dạy ở các TTHTCĐ .
Với phương châm “cần gì học nấy”, “học để làm ngay”, trên cơ sở thực
tiễn của từng cộng đồng dân cư để lựa chọn nội dung học tập cho phù hợp.
Các nội dung, chương trình học tập tại TTHTCĐ rất đa dạng. Tuy nhiên, có

thể khái quát thành các nhóm nội dung chính sau:
+ Học tập đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật, thời sự chính trị.
+ Học tập về khoa học kỹ thuật , sản xuất và đời sống, học nghề.
+ Học tập về văn hoá, ngoại ngữ, tin học.
+ Học tập về văn nghệ, thể dục - thể thao, vệ sinh - môi trường.
Các nhóm nội dung học tập trên được thể hiện qua một số chương trình học
tập và giảng dạy chủ yếu sau đây:
+ Chương trình nâng cao trình độ văn hoá ứng với các trình độ phổ
thông như: chương trình xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo
dục THCS, tin học, ngoại ngữ thông dụng. Những chương trình này được tiến
hành bằng cách dùng đội ngũ giáo viên ngay tại địa phương để vận động học
viên ra lớp và phối hợp với chính quyền, ban, ngành đoàn thể hỗ trợ, cùng
cộng tác trách nhiệm tạo điều kiện để người dân đi học đầy đủ, nghiêm túc và
hiệu quả cao. Ở TTHTCĐ, các nội dung được thực hiện linh hoạt theo yêu cầu
thực tế, có thể dạy bất cứ lức nào người dân cho là hợp lý.
+ Chương trình tạo thu nhập: Căn cứ vào đặc thù của địa phương và nhu
cầu học tập của nhân dân, các TTHTCĐ mở các chuyên đề phù hợp để thiết
thực giúp người lao động biết cách xoá đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao
chất lượng cuộc sống, phấn đấu làm giàu chính đáng thông qua việc tư vấn,
chuyển giao khoa học công nghệ, truyền nghề và dạy nghề ngắn hạn (yí dụ: các
nội dung về chăn nuôi, trồng trọt, nghề thủ công,..). Vì tính đa dạng về nội
dung của chương trình, học viên có thể chọn cho mình những nội dung cần
thiết và phù hợp với quỹ thời gian, điều kiện học tập, nhu cầu học tập của
22
mình nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giúp bản thân và gia đình đồng
thời góp phần cùng cộng đồng nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Chương trình học theo sở thích: cung cấp các cơ hội khác nhau cho cá
nhân tham gia học tập những vấn đề xã hội, văn hoá, tinh thần, sức khoẻ và
nghệ thuật,...mà họ quan tâm, nhằm khuyến khích và tăng cường các hoạt động
học tập để làm tăng khả năng của mỗi người trong việc sử dụng thời gian, cải

thiện cuộc sống và tự khẳng định mình. Chương trình này thường được tổ chức
cho những nhóm người có cùng một sở thích nhất định (ví dụ: câu lạc bộ sinh
vật cảnh, câu lạc bộ những người yêu thơ, yêu hội hoạ; hội người chơi tem;
hội những người nghiên cứu làm thuốc đông y; thể dục dưỡng sinh..).Các
chương trình học theo sở thích làm tăng thêm tiềm lực cho con người, do vậy
tăng tốc độ phát triển cho xã hội. Chương trình học theo sở thích cũng tăng
cường sự liên kết giữa các chương trình khác của GDTX, góp phần chuyển
giao truyền thống văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác và khuyến khích các
hoạt động văn hoá làm phong phú thêm cuộc sống. Chương trình này còn giúp
cho những người yêu thích từng lĩnh vực của cuộc sống có điều kiện gần nhau,
cùng nghiên cứu, trao đổi về những lĩnh vực mà họ có cùng sở thích, làm cho
tâm hồn sảng khoái, giúp đời sống vật chất và tinh thần của họ được nâng cao
từ đó củng cố sự gắn bó lành mạnh trong mỗi cộng đồng dân cư.
+ Chương trình định hướng tương lai: bao gồm các nội dung mang tính
chất đón đầu sự phát triển của thời đại. Các chương trình này có ý nghĩa lớn
trong việc cung cấp kiến thức, hình thành các kỹ năng và xây dựng các thái độ
cho người học thực hành một hình tượng tương lai. Từ đó, người học có khả
năng tham gia vào sự biến đổi cá nhân, biến đổi xã hội trong sự vận động từ
hiện tại tới tương lai theo một phương thức có kế hoạch, có tổ chức hợp lý. Ví
dụ như chương trình phổ cập về công nghệ thông tin (một vấn đề tuy đã khá
quen thuộc với nhiều vùng phát triển của nước ta nhưng đối với phần lớn các
vùng nông thôn, miền núi thì còn là những nội dung mới mẻ với đa số người
dân và chỉ có thể thực hiện khi có điều kiện về trang thiết bị và cơ sở hạ tầng
23
trong tương lai), việc học tập để nắm bắt và sẵn sang sử dụng, khai thác công
nghệ thông tin phục vụ cho công việc sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống
được xem là một nhu cầu cấp bách đối với mỗi người dân và với cả cộng đồng.
1.2.4.2. Phương pháp và hình thức học và dạy ở TTHTCĐ
Phương pháp học tập và giảng dạy ở TTHTCĐ căn bản dựa trên các
nguyên tắc học tập cho người lớn vì người học ở TTHTCĐ chủ yếu là đối

tượng người lớn.
+ Trong giảng dạy, người dạy (giáo viên/hướng dẫn viên) phải phát huy
tối đa những kinh nghiệm của người học và tổ chức được sự tham gia tích cực
của người học trong quá trình học tập. Sự thành công của buổi học luôn dựa
trên mức độ đảm bảo sự tương tác tích cực giữa người dạy và việc đảm bảo
môi trường học tập năng động.
+ Việc giảng dạy ở TTHTCĐ luôn phải chú ý sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau tuỳ theo đối tượng và mục tiêu học tập. Liên kết và phối hợp
là phương thức hoạt động chủ yếu của TTHTCĐ. Đối tượng đến học tập tại
TTHTCĐ là mọi người dân đại diện cho mọi tổ chức, thuộc mọi tầng lớp xã
hội, mọi trình độ văn hoá từ mù chữ đến sau đại học. Họ tham gia các hình
thức học tập tuỳ theo nhu cầu cá nhân, cần gì học nấy. Những nhu cầu này có
thể từ xóa mù chữ, bổ túc văn hoá cơ bản, nghề thông dụng đến kỹ thuật tiên
tiến như máy vi tính hoặc các lĩnh vực công nghệ khác.
Các hình thức tổ chức hoạt động của TTHTCĐ rất đa dạng, linh hoạt,
mềm dẻo để tạo điều kiện tốt nhất cho người học. Có thể có những hình thức
học tập và giảng dạy chủ yếu như sau:
+ Hình thức học tập không theo cấp lớp, trình độ văn hoá, lứa tuổi, giới
tính gồm có: Các buổi học theo chuyên đề; Các lớp tập huấn chuyển giao ứng
dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội; Các hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về các chủ đề khác nhau; Các cuộc hội
thảo tại chỗ (“hội thảo đầu bờ”); Các câu lạc bộ sở thích; Các hoạt động tham
quan thực tế; Các Hội thi, giao lưu văn hoá; Các triển lãm; Các buổi nói
24
chuyện; Các buổi tổ chức nghe loa đài, xem tivi, xem phim, đèn chiếu, video;
Các buổi giới thiệu sách báo tại thư viện, tại hội trường trung tâm hoặc các
thôn bản, tổ dân phố…
+ Hình thức học tập theo cấp, lớp gồm có: Các lớp xoá mù chữ, bổ túc
văn hoá, học nghề, ngoại ngữ, tin học… Các lớp học này nhằm mục đích học
để lấy văn bằng, chứng chỉ chính thức nên thường có qui chế chặt chẽ.

+ Hình thức học tập dưới dạng các buổi tư vấn về giáo dục, giáo dục từ
xa, khuyến học, khuyến nông - lâm - ngư nghiệp... thường được tổ chức với
những cá nhân, gia đình hay nhóm dân cư có nhu cầu trong cộng đồng.
1.2.5. Người học và người dạy trong trung tâm học tập cộng đồng
1.2.5.1. Đặc điểm của người học trong các TTHTCĐ
Học viên (người học) của TTHTCĐ là những người có nhu cầu học tập
và có nghĩa vụ học tập, đủ điều kiện tham gia vào một hoặc nhiều chương
trình giáo dục của trung tâm. Động cơ của học viên trong TTHTCĐ là học tập
để nâng cao hiểu biết, bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để nâng cao
năng suất lao động, tăng thu nhập, vươn lên làm giàu chính đáng, nâng cao chất
lượng cuộc sống của chính bản thân mình và góp phần nâng cao cuộc sống của
toàn xã hội. Trong khi đó, điều kiện học tập của họ không phải lúc nào cũng
thuận lợi về mặt thời gian và tài chính. Mặt khác, các yếu tố về vật chất giúp
cho học viên tiến hành thao tác học tập như: phòng học, bàn ghế, tài liệu, trang
thiết bị nghe nhìn, thư viện và các thiết bị học tập đều rất hạn chế.
Một đặc điểm khác của học viên các TTHTCĐ là sự đa dạng về lứa
tuổi, trình độ và khả năng nhận thức. Về tâm sinh lý, họ phần lớn là những
người lớn tuổi, đã trưởng thành về thể chất cũng như về tâm lý. Cũng vì hạn
chế tuổi tác nên một số dễ có tâm lý ngại học lý thuyết, ngại khó hoặc có thể
mặc cảm trong học tập, nhận thức chậm. Một số khác do có nhiều kinh
nghiệm trong cuộc sống và trong lao động sản xuất nên dễ nảy sinh tư tưởng
bảo thủ, khó khăn khi chấp nhận những kiến thức mới. Về nhận thức, phần lớn
25

×