Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Tiềm năng hoạt động du lịch bền vững ở khu đô thị cổ Hội An và những biện pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.07 KB, 43 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một trong những ngành phát triển nhanh nhất và mang lại nhiều lợi nhuận
nhất trên thế giới. Du lịch không những mang đến nhiều cơ hội cho phát triển
kinh tế đặc biệt là cho quá trình phát triển của một đất nước. Nó có thể tạo ra
nguồn thu nhập và việc làm đáng kể thông qua việc phát triển các nguồn lực văn
hóa và thiên nhiên. Nó cũng giúp cho người dân địa phương có cơ hội bày tỏ
niềm tự hào về nền văn hóa đặc sắc của mình, từ đó tạo đòn bẩy để phục hồi các
giá trị truyền thống và đời sống văn hóa đang dần mai một. Du lịch cũng tạo ra
sự giao lưu giữa con người của nhiều dân tộc, nhiều tầng lớp, nhiều nền văn hóa
khác nhau từ đó giúp nuôi dưỡng sự đối thoại giữa các nền văn hóa và khuyến
khích sự sáng tạo, đa dạng về văn hóa.
Tuy nhiên, du lịch cũng có thể gây ra những tác hại đối với văn hóa và môi
trường nếu không có sự quản lý đúng đắn. Trong sự phát triển ồ ạt của ngành du
lịch địa phương, các cấp chính quyền địa phương đặc biệt là ở các nước đang
phát triển, thường đầu tư vào số lượng một cách ồ ạt nhằm phát huy giá trị của
một khu di sản tuy nhiên lại không chú ý nhiều đến công tác ngăn ngừa sự xuống
cấp của các phương diện văn hóa, thiên nhiên và xã hội do ngành du lịch thiếu đi
sự kiểm soát mang lại. Các cấp chính quyền địa phương, ngành du lịch, các nhà
đầu tư và phát triển, các nhà quản lý di sản và các thành viên cộng đồng dân cư
cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng các chính sách nhằm giảm thiểu các tác động
tiêu cực của ngành du lịch đến văn hóa và môi trường của nơi sở tại. Điều này
chỉ có thể thực hiện được nếu như tất cả các nhà quản lý có sự am hiểu nhất định
về sự tác động qua lại giữa ngành du lịch, sự phát triển và các nguồn di sản.
Là một di sản thế giới - Đô thị cổ Hội An – quần thể di tích kiến trúc hội tụ đủ
các yếu tố văn hóa nổi trội của một thương cảng sầm uất của một thời kì phát
triển rực rỡ trong quá khứ. Nơi đây có đông đảo cư dân đang sinh sống trên một
nền tảng văn hóa, truyền thống xưa. Tuy việc bảo tồn di sản đã đạt được một số
thành quả nhất định nhưng nó cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn từ sự
phát triển kinh tế, xã hội, con người trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế như hiện
nay.


Đề tài : “Tiềm năng hoạt động du lịch bền vững ở khu đô thị cổ Hội An và
những biện pháp” nhằm giới thiệu những tiềm năng và thế mạnh cũng như
những thiếu sót, những áp lực, cảnh báo nguy cơ và đưa ra những biện pháp cơ
bản nhằm “bảo tồn vững chắc, phát huy bền vững” di sản văn hóa thế giới này
nói riêng cũng như du lịch bền vững ở Việt Nam nói chung.
2. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ đề chính là việc tìm ra và đưa ra những
đề xuất hợp lí cũng như các phương pháp, phương án nhằm phát triển hoạt động
du lịch mà vẫn giữ nguyên vẹn các tài nguyên hình thành nên hoạt động du lịch
và thiết lập nên các mối quan hệ tương hỗ giữa phát triển du lịch với các ngành
kinh tế khác có liên quan. Khai thác du lịch sao cho có hiệu quả cao nhất và phát
triển bền vững cho khu, điểm du lịch tại khu đô thị cổ Hội An- Quảng Nam.
2.2. Ý nghĩa
Trong thực trạng phát triển du lịch ở khu đô thị cổ Hội An với tốc độ phát triển
khá nhanh cả về số lượng khách cũng như nâng cao chất lượng điểm đến. Tuy
nhiên việc phát triển ấy lại nhỏ lẻ mạnh ai nấy làm và thiếu đi sự quản lý đồng
bộ của các cấp quản lý và việc phát triển vẫn còn là với mục đích thương mại là
chủ yếu, việc phát triển du lịch còn gây xâm hại đến môi trường tự nhiên và văn
hóa, còn nhiều điều chưa hợp lý đối với kinh tế xã hội. Việc phát triển du lịch
bền vững ở khu đô thị cổ Hội An chính là việc lập nên một kế hoạch hoàn chỉnh
và tối ưu nhất cho việc phát triển du lịch đi đôi với phát triển kinh tế địa phương
đem lại hiệu quả lâu dài cho địa phương trong hiện tại cũng như tương lai sau
này mà gây ảnh hưởng ít đối với môi trường tự nhiên và nền văn hóa bản địa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng của đề tài trên là tập trung vào nghiên cứu cơ sở lý luận về
tình hình hoạt động phát triển du lịch bền vững ở khu đô thị cổ Hội An.
• Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi của các nhân tố tác động
đến hoạt động du lịch bền vững của khu đô thị cổ Hội An. Đó là tài

nguyên du lịch, các ngành có liên quan trong mối quan hệ phát triển du
lịch bền vững. Đồng thời cũng đưa ra thực trạng cũng như những định
hướng hợp lý cho sự phát triển du lịch của khu đô thị cổ Hội An trong
tương lai.
- Không gian: Trên địa bàn thành phố Hội An
4. Phương pháp nghiên cứu

5. Kết cấu của chuyên đề
Nội dung chuyên đề gồm có 3 phần chính sau:
Chương I : Những lý luận cơ bản về du lịch bền vững
Đưa ra cơ sở lý thuyết về du lịch bền vững cũng như các đặc điểm, nguyên tắc,
các phương pháp đánh giá trong du lịch bền vững, cũng như đưa ra các điều kiện
để phát triển du lịch cũng như du lịch bền vững.
Chương II Thực trạng các điều kiện để phát triển du lịch bền vững ở khu
phố cổ Hội An.
Đưa ra một cái nhìn tổng quát về du lịch tỉnh Quảng Nam nói riêng và khu đô
thị cổ Hội An nói riêng, cũng như những điều kiện phát triển du lịch bền vững ở
khu đô thị cổ Hội An.
Chương III Giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại khu phố cổ Hội
An
Một số giải pháp cụ thể để khu đô thị cổ Hội An có thể phát triển bền vững hơn
trong hiện tại cũng như trong tương lai.
CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DU LỊCH
BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm và các yêu cầu của phát triển du lịch bền vững.
1.1.1. Khái niệm về du lịch và du lịch bền vững.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về du lịch:
Theo liên hiệp Quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of
Official Travel Organization) thì “ Du lịch được hiểu là hành động du hành đến
một nơi khác nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để

làm ăn tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống…”.
Tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch họp tại Roma – Italia (21/8 –
5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các
mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngoài nước của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ lưu trú không phải là nơi
làm việc của họ”.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì : “Hoạt động du lịch là tổng hòa hàng loạt
các mối quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất
định làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm
điều kiện”.
Trong pháp lệnh của du lịch Việt Nam tại diều 10 thuật ngữ du lịch được hiểu
như sau: “ Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”
Về sự bền vững được ủy ban Thế giới về phát triển môi trường định nghĩa như
là “Sự phát triển đáp ứng nhu cầu hôm nay mà không làm giảm bớt khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Liên Hiệp Quốc, 1984).
Hơn nữa phát triển bền vững liên quan đến việc sử dụng dài hạn và khả năng có
thể bảo tồn được của nguồn tài nguyên (APEC, 1996)
Định nghĩa phát triển du lịch bền vững được hiểu như sau: “Du lịch bền vững
là quá trình điều hành quản lý các hoạt động du lịch với mục đích xác định và
tăng cường các nguồn hấp dẫn du khách tới các vùng và các quốc gia du lịch.
Quá trình quản lý này luôn hướng tới việc hạn chế lợi ích trước mắt để đạt được
mục đích lâu dài do các hoạt động du lịch mang lại”.
Theo World Conservation Union, 1996 Du lịch bền vững là việc di chuyển và
tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường để tận
hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất cả những đặc điểm văn hóa kèm theo, có
thể là trong quá khứ và trong hiện tại) theo các khuyến cáo về bảo tồn, có tác
động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế-

xã hội của cộng đồng địa phương đó.
Phát triển du lịch bền vững cũng chính là sự đáp ứng đầy đủ, tiện nghi nhất các
nhu cầu của khách du lịch, tạo sức hút du khách đến vùng, điểm du lịch trong
thời điểm hiện tại đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng cho tương lai. Nó
được định ra để hướng việc quản lý toàn bộ các tài nguyên, các điều kiện tự
nhiên, môi trường sinh thái và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa kèm theo,
theo cách mà chúng ta có thể thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ, đồng
thời duy trì tính toàn vẹn về văn hóa, các quá trình sinh thái chủ yếu, sự đa dạng
sinh học và các hệ thống duy trì nuôi dưỡng sự sống.
Phát triển du lịch bền vững là việc quản lý toàn bộ các thành phần cấu thành
nên ngành du lịch đảm bảo phát triển cân bằng để có thể mang lại những kết quả
có lợi về kinh tế, xã hội mang tính lâu dài mà không gây ra những tổn hại cho
môi trường tự nhiên và bản sắc văn hóa của du lịch. Quá trình phát triển du lịch
bền vững phải có sự kết hợp hài hòa nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai
góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch, nhằm mục đích bảo tồn và tái tạo tài
nguyên thiên nhiên, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Việc phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo và thỏa mãn ba yếu tố sau:
- Mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên tự nhiên, môi trường và lợi ích kinh
tế, xã hội, văn hóa.
- Quá trình phát triển diễn ra trong một thời gian lâu dài
- Đáp ứng được nhu cầu hiện tại, song không làm ảnh hưởng đến nhu cầu
của các thế hệ tiếp theo.
1.1.2. Các yêu cầu để phát triển du lịch bền vững
Việc phát triển du lịch bền vững phải tiếp cận và thực hiện một cách toàn diện,
hài hòa các yêu cầu sau:
1.1.2.1. Hệ sinh thái
Hệ sinh thái đề cập đến việc duy trì các hệ thống trợ giúp cuộc sống (đất,
nước, không khí, cây xanh), bảo vệ sự ổn định và đa dạng sinh học của các loài
và của cả hệ sinh thái. Yêu cầu này đòi hỏi các hoạt động du lịch và cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất – kĩ thuật phải được thiết kế, tổ chức phù hợp với điều kiện

cho phép (giới hạn) của môi trường. Do điều kiện môi trường thay đổi theo thời
gian và không gian nên các hoạt động du lịch cũng phải có sự phát triển phù hợp
với điều kiện môi trường mỗi vùng khác nhau.
1.1.2.2. Hiệu quả
Hiệu quả liên quan đến việc đánh giá các phương thức, biện pháp đo lường chi
phí, thời gian, lợi ích của cá nhân và xã hội thu được thông qua hoạt động du
lịch. Việc đó cũng có nghĩa là sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn và lao
động bỏ ra trong hoạt động kinh doanh du lịch. Việc này đòi hỏi quy mô và sự
ổn định thích hợp của các thị trường du lịch.
1.1.2.3. Công bằng
Công bằng đề cập đến sự bình đẳng và thừa nhận các nhu cầu giữa cá nhân,
hộ gia đình, các nhóm xã hội, giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai, giữa con
người với thiên nhiên.
1.1.2.4. Bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa được đề cập trong hoạt động du lịch bền vững là việc bảo vệ
và duy trì chất lượng cuộc sống, các truyền thống văn hóa đặc sắc như tôn giáo,
nghệ thuật và thể chế. Du lịch phải tăng cường bảo vệ văn hóa thông qua các
chính sách du lịch văn hóa.
1.1.2.5. Cộng đồng
Cộng đồng đề cập đến vấn đề tham gia của cư dân địa phương vào quá trình
phát triển du lịch, tham gia một cách trực tiếp hoặc thông qua đầu tư trong kinh
doanh du lịch cũng như trong việc thúc đấy các hoạt động của các ngành có liên
quan như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, tiểu thủ công
mỹ nghệ…
1.1.2.6. Cân bằng
Cân bằng đề cập đến việc hòa nhập, cân bằng ở đây nghĩa là hài hòa giữa các
yếu tố như giữa kinh tế với môi trường, giữa nông nghiệp, tiểu thủ công mỹ
nghệ và du lịch, giữa các loại hình du lịch. Hoặc là sự cân bằng văn hóa bản địa
với các nền văn hóa ảnh hưởng từ du khách. Phát triển du lịch phải tạo được sự
liên kết và cân đối liên ngành để tạo hiệu quả tổng hợp.

1.1.2.7. Phát triển
Phát triển là khai thác các tiềm năng thông qua đó làm tăng khả năng cải thiện
chất lượng cuộc sống. Tăng trưởng cũng là kết quả của sự phát triển nhưng
không đồng nghĩa với việc khai thác một cách triệt để các nguồn lợi kinh tế và
hủy hoại môi trường.
1.2. Tính tất yếu và lợi ích của phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Tính tất yếu
Tính tất yếu của việc phát triển du lịch bền vững được thể hiện qua một số yếu
tố sau:
- Thứ nhất do đặc tính của ngành du lịch đó là ngành kinh doanh tổng hợp,
phức tạp và cần phải có quy hoạch phát triển đồng bộ. Du lịch bền vững đáp ứng
được sự quy hoạch có tính đồng bộ đó, nó lập ra một kế hoạch hoàn chỉnh và
nếu thực hiện tốt nó thì sẽ mang lại hiệu quả nhất định.
- Thứ hai do các yếu tố tạo thành sản phẩm của ngành du lịch phải có sự kết
hợp cả tài nguyên phục hồi, tài nguyên khó phục hồi và tài nguyên hoàn toàn
không thể phục hồi được đó là các tài nguyên xã hội, tài nguyên nhân văn, tài
nguyên thiên nhiên. Do các nguồn tài nguyên này không thể tồn tại mãi mãi
chính vì thế việc sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả sẽ là tiền đề bảo tồn
các nguồn tài nguyên này. Du lịch bền vững đáp ứng được nhu cầu này, không
những thế nó còn giúp phát huy các nguồn tài nguyên này thông qua nhiều hình
thức.
- Thứ ba do nhu cầu của khách du lịch hay xã hội nói chung về hoạt động du
lịch, hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng ngày càng nhiều và với chất lượng ngày
càng cao hơn, mức sống và trình độ văn hóa ngày càng được cải thiện đòi hỏi
phải phong phú các loại hình du lịch để đáp ứng nhu cầu đó.
1.2.2. Lợi ích của việc phát triển du lịch bền vững
Chúng ta có thể thấy rõ lợi ích này đến từ ba phía từ nhà cung cấp, khách du
lịch và người quản lý.
Lợi ích cho nhà cung cấp: các nhà cung cấp kinh doanh do lợi ích có thể mang
lại nhiều loại hình, sản phẩm du lịch lớn hơn để cung cấp cho du khách thu lại

lợi nhuận cho mình. Do chu kì sống của các loại hình và sản phẩm du lịch này
lớn hơn các sản phẩm và loại hình du lịch thông thường nên chi phí chỉ bỏ ra ban
đầu tuy nhiều nhưng dễ dàng mở rộng quy mô hoạt động đồng thời cũng giảm
thiểu được rủi ro trong kinh doanh, doanh thu thu được là lâu dài và lớn hơn so
với các loại hình du lịch khác.
Lợi ích cho khách du lịch: khách du lịch có thể tiếp cận và khám phá, nghiên
cứu các nền văn hóa, phong tục tập quán trong quá khứ nhưng vẫn còn tồn tại
được ở hiện tại. Chiêm ngưỡng các phong cảnh, cảnh quan thiên nhiên , những
công trình văn hóa , lịch sử, các sản phẩm du lịch địa phương với mức chi phí
thấp nhất.
Lợi ích cho điểm du lịch: ban quản lý các điểm du lịch có thể cung cấp sản
phẩm dịch vụ cho đơn vị kinh doanh và khách du lịch để từ đó tạo ra lợi nhuận
tiếp tục đầu tư cải tạo và nâng cấp, bảo vệ cho khu du lịch đồng thời tạo điều
kiện công ăn việc làm cho người dân địa phương.
Lợi ích cho người dân địa phương: hoạt động du lịch bền vững với đối tượng là
hướng đến cải thiện kinh tế địa phương nên người dân được hưởng lợi rất nhiều
từ hoạt động này, không những được tạo công ăn việc làm, phát huy các nghề
truyền thống, phương thức sản xuất cũng như bảo tồn các hoạt động nghệ thuật,
người dân còn hiểu rõ được giá trị văn hóa mà họ phải giữ gìn và bảo tồn.
1.3. Đặc điểm của du lịch bền vững
Được lập kế hoạch với ba mục đích chính: lợi tức, môi trường và cộng đồng
đây chính là mô hình ba chân của du lịch bền vững.
- Thân thiện với môi trường, du lịch bền vững có tác động thấp đến các nguồn
lợi tự nhiên. Nó giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường (động thực vật,
các sinh cảnh sống, nguồn lợi sống, sử dụng năng lượng và ô nhiễm ...) và cố
gắng có lợi cho môi trường.
- Gần gũi về xã hội và văn hoá, nó không gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc
văn hoá của cộng đồng nơi mà hoạt động du lịch được thực hiện. Thay vào đó
thì nó lại tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên
liên quan (các cá nhân, cộng đồng, nhà điều hành tour và quản lý chính quyền)

trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát, giáo dục
các bên liên quan về vai trò của họ.
- Có kinh tế, nó đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra những thu
nhập công bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng nhiều bên
liên quan khác càng tốt. Nó mang lợi ích cho người chủ, cho nhân viên và cả
người xung quanh. Nó không bắt đầu một cách đơn giản để rồi sau đó sụp đổ
nhanh chóng do các hoạt động kinh doanh nghèo nàn mà nó được:
• Được lập kế hoạch trước cùng với sự tham gia của các bên liên quan.
• Định hướng đến địa phương và có sự tham gia điều khiển của chính
quyền địa phương sở tại.
• Tập trung nhiều vào các kinh nghiệm giáo dục.
• Bảo tồn các nguồn lợi về tự nhiên, văn hóa, xã hội được xem là ưu
tiên.
• Đề cao văn hóa bản địa cũng như giữ nguyên vẹn được những phong
tục tập quán, lối sống cũng như sinh hoạt.
• Đem lại lợi tức đáng kể cho địa phương cũng như phục vụ cho việc
bảo tồn tốt hơn
Chương II. Thực trạng các điều kiện để phát triển du
lịch bền vững ở khu phố cổ Hội An.
2.1. Tình hình phát triển du lịch ở Quảng Nam và ở khu phố cổ Hội An
2.1.1. Tình hình phát triển du lịch của tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam được cả nước và trên thế giới biết đến với một tỉnh có hai di sản
thế giới một là khu đô thị cổ Hội An và một là thánh địa Mỹ Sơn. Điều này
không những là niềm tự hào của đất nước mà còn là niềm tự hào của người dân
xứ Quảng. Đây là một lợi thế lớn để ngành du lịch tỉnh Quảng Nam phát triển
một cách mau chóng.
Được sự nhìn nhận và đánh giá của hai chuyên gia nước ngoài đó là ông
Jonathan Galavis và ông Jozef W.M.Van Darm về tương lai nền du lịch của
Quảng Nam cho thấy tiềm năng phát triển của ngành du lịch trong những năm
tiếp theo là rất lớn.

Riêng Quảng Nam tổng lượng khách tham quan và lưu trú trên địa bàn tỉnh
trong 3 tháng đầu năm 2009 ước đạt 530.390 lượt khách, tăng 22,2% so cùng kỳ
với năm ngoái. Trong đó khách quốc tế ước đạt 341.000 lượt tăng 22% so với
cùng kỳ năm 2009. Điều này cho ta thấy đầu năm 2009 phần nào phát triển rất
mạnh của du lịch ngành du lịch tỉnh Quảng Nam.
Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh tỉnh Quảng Nam tháng 1-2 năm 2009
ĐVT: Tỷ đồng.
Tháng 1 TĐTT ( % ) Tháng 2 TĐTT ( % )
Tổng khách tham quan
và lưu trú
130.000 7,8 145.500 14,3
Khách quốc tế 85.035 2,93 95.035 23,5
Khách nội địa 45.065 18,39 50.465 2,95
Khách tham quan 79.100 9,9 85.500 12,3
Ở Hội An 47.000 5,47 51.000 14,4
Ở Mỹ Sơn 15.000 3,96 20.000 21,2
Khách lưu trú 51.000 4,71 60.000 17,9
Doanh thu du lịch 55 tỷ đồng 22,65 71 tỷ đồng 64,36
Thu nhập XH từ du lịch 150 tỷ đồng 180 tỷ đồng
Nguồn: www.quangnamtourism.vn
Đến với du lịch Quảng Nam hiện nay ta sẽ được chứng kiến nhiều loại hình du
lịch rất đặc sắc, mang đậm bản chất văn hóa địa phương, ẩm thực đa dạng, con
người lại hiếu khách và rất thân thiện.
2.1.2. Tình hình phát triển du lịch ở khu đô thị cổ Hội An
Kể từ năm 1997 đến nay, lượng khách nội địa và quốc tế đến Hội An ngày
càng tăng nhanh, đặc biệt kể từ khi Hội An chính thức trở thành di sản văn hóa
thế giới vào tháng 12 năm 1999, lượng khách đến Hội An đã tăng vọt cụ thể tăng
24% trong năm 2000 (so với năm 1999), và tăng 82% trong năm 2001 (so với
năm 2000).
Bảng 2.1: Số lượng khách du lịch của Hội An (1997 - 2007)

Năm Khách nội địa Khách quốc tế Tổng cộng Tỷ lệ % tăng so
với năm trước
1997 58.834 81.148 139.982 -
1998 80.039 66.480 146.519 4,7
1999 84.858 73.457 160.314 9,4
2000 97.823 99.617 199.440 24,4
2001 208.133 153.600 361.733 82,4
2002 230.565 212.000 444.567 22,2
2003 277.900 185.296 465.199 4,6
2004 241.868 352.442 596.314 28,2
2005 318.994 329.222 650.221 9,0
2006 453.379 423.395 878.780 35,2
2007 424.320 608.477 1.032.797 17,5
Nguồn: phòng thống kê Hội An
2.1.2.1. Doanh thu du lịch
Ngành du lịch và dịch vụ thương mại đã góp phần tạo nên nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ của Hội An, chiếm khoảng 64% tổng thu nhập của toàn thành
phố. Nhờ ngành du lịch mà nền kinh tế ở Hội An trở nên khởi sắc chính vì thế
chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của du lịch đối với sự phát triển
nền kinh tế của một địa phương.
Bảng 2.3: Các ngành kinh tế chính ở Hội An
Nguồn: phòng thống kê Hội An
2.2. Những điều kiện để phát triển hoạt động du lịch bền vững ở Hội An
2.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
Hội An nằm ở bờ Bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam, trên bờ biển Nam
Trung Bộ của Việt Nam. Khu đô thị cổ Hội An cách về phía Tây Bắc của thành
phố Tam Kì chừng 50 km và về phía Đông Đà Nẵng khoảng 30 km. Nằm ở vùng
cửa sông Thu Bồn, Hội An có mạng lưới đường thủy dài khoảng 34 km và rất
gần biển. Hội An cũng có nhiều bãi biển và làng chài như bãi biển An Bàng, bãi
biển Cửa Đại.

Ngoài khơi là một quần đảo được biết đến với cái tên cù lao Chàm, bao gồm
tám hòn đảo nhỏ: hòn Lao, hòn Khô mẹ, hòn Khô con, hòn Tai, hòn Dài, hòn Lá,
hòn Mồ và hòn Ông. Cù lao Chàm có tổng diện tích 15,5 km
2
, trong đó rừng
chiếm 90% diện tích, đất nông nghiệp chiếm 7% còn lại là diện tích khu dân cư
với 2800 người.
Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy Hội An không những có lợi
thế cho việc phát triển du lịch sinh thái mà còn có tiềm năng để phát triển du lịch
bền vững không những gắn liền với khu đô thị cổ mà còn gắn liền với thiên
nhiên và cộng đồng dân cư.
2.2.2. Di sản vật thể
Hội An, một trong những đô thị cổ xưa nhất của Việt Nam, có một chiều dài
lịch sử bốn trăm năm mươi năm, ra đời dưới thời các chúa Nguyễn, xứng đáng
được nghiên cứu thật sâu sắc về giá trị văn hóa và nghệ thuật, các hoạt động
kinh tế và văn hóa xã hội. Đô thị cổ Hội An chỉ chiếm một khoảng không gian
chừng hai cây số, thật nhỏ với đô thị cổ Bến Nghé-Sài Gòn- Gia Định rộng bề
thế, chỉ có bề dày khoảng 500 năm, thật mong hơn nhiều so với Kẻ Chợ- Kinh
Kỳ - Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội với hàng ngàn năm văn hiến, không có
quần thể di tích lịch sử đồ sộ và phong cách hữu tìnhh như cố đô Phú Xuân -
Huế thế nhưng miền đất cổ xưa này lại có sức vẫy gọi kỳ lạ không chỉ đối với du
khách Việt Nam mà cả đối với các du khách và với các nhà nghiên cứu ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Vì thế mà trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu
văn hoá Việt Nam và thế giới rất quan tâm tới việc nghiên cứu về khu phố cổ
Hội An với hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học viết về khu phố cổ Hội
An. Đó là một Khu phố cổ rộng khoảng 2 km
2
, gồm nhiều dãy phố nhỏ hẹp, như
bàn cờ với hàng trăm ngôi nhà cổ, các công trình kiến trúc, di tích, các dấu ấn,
văn bản, thư tịch. . . Có giá trị văn hoá – lịch sử rất cao, không những Hội An trở

thành đô thị cổ duy nhất của nước ta còn tồn tại mà đây cũng là một trường hợp
hiếm hoi trên thế giới. Nó thể hiện nổi bật nhiều nhất vẫn là ở giá trị di sản vật
thể.
- Bố cục đô thị
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu khảo cổ học gần đây và tư liệu lịch sử thì sự
định cư đầu tiên ở Hội An nằm dọc trên trục đường Nguyễn Thị Minh Khai và
Trần Phú. Do có sự bồi lấp, chuyển dịch dần của con sông nên phần đất của phố
cảng tiếp tục được mở rộng về phía nam. Sự xuất hiện khu phố Nguyễn Thái
Học vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 đã làm cho khu phố cổ này tiếp tục
được mở rộng thêm. Các tuyến phố chạy từ Đông sang Tây nối liền với các
tuyến phố cắt ngang tạo thành tuyến phố ngang – dọc kiểu bàn cờ. Khu phố cổ
Hội An hiện nay có diện tích khoảng 300.000 m
2
.
Các di sản văn hóa vật thể ở Hội An phản ánh sự ảnh hưởng văn hóa của rất
nhiều thương nhân các nước đến định cư và buôn bán ở đây trong lịch sử. Mặc
dù việc buôn bán với người Nhật chỉ kéo dài trong khoảng nửa thế kỷ (1952 -
1636) nhưng người ta vẫn còn thấy sự kế thừa văn hóa của những thương nhân
này thông qua phong cách kiến trúc trong các ngôi nhà ở khu phố Nhật này nay
còn lưu giữ được. Tương tự như vậy , nhiều công trình ở Hội An vẫn còn lưu giữ
được cũng ảnh hưởng theo lối kiến trúc của người Hoa.
Trung tâm bảo tồn di tích Hội An đã thống kê được hiện có hơn 1.360 di tích ở
Hội An. Trong đó có 1.723 di tích nghệ thuật, kiến trúc bao gồm nhà ở, nhà thờ
tộc, đình, hội quán, chùa, nhà thờ, thánh cất, cầu, giếng, chợ, lăng, miếu và mộ.
2.2.2.1 Nhà ở
Nhà cổ ở Hội An là sự đan quyện tài tình, sự hội nhập hài hòa các phong cách
kiến trúc Việt – Hoa – Nhật – Pháp dưới bàn tay tài hoa của các lớp thế hệ nghệ
nhân đã dày công tạo dựng, pha trộn sự đa dạng các truyền thống kiến trúc này
để tạo nên sự kết hợp hài hòa. Các ngôi nhà cổ nhất có niên đại khoảng thế kỷ
thứ 18 trở lại, hầu hết các ngôi nhà gần đây được xây dựng từ thời Pháp thuộc.

Nhà cổ Hội An được xây dựng theo năm kiểu chính sau:
- Loại thứ nhất là nhà một tầng vách gỗ, những ngôi nhà này có niên đại từ thế
kỷ 18 đến thế kỷ 19, các ngôi nhà này nằm chủ yếu trên đường Trần Phú,
tiêu biểu là nhà số 48 - Trần Phú.
- Loại thứ hai là nhà hai tầng có mái hiên, các ngôi nhà loại này được xây dựng
khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tiêu biểu là ngôi nhà số 5 - Nguyễn Thị
Minh Khai.
- Loại thứ ba là nhà hai tầng vách gỗ có ban công, các ngôi nhà này được xây
dựng từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
- Loại thứ tư là nhà hai tầng tường gạch, loại nhà này được xây dựng từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 và nằm dọc theo các đường Trần Phú và Nguyễn
Thái Học.
Nhà cửa hiệu
Quần thể di tích nhà cửa hiệu ở Hội An là một trong những quần thể di tích lớn
nhất ở Đông Nam Á. Ở Việt Nam các loại nhà cửa hiệu tương tự thường thấy ở
những khu phố cổ ở Hồ Chí Minh và Hà Nội, nhưng ngày nay không còn hoặc bị
biến mất. Các nhà cửa hiệu được xây dựng trên những mảnh đất dài và hẹp, dọc
các đường phố bao gồm ba phần: phần nhà trước (nhà chính), nhà sau (nhà phụ)
và cầu nối giữa nhà trước và nhà sau. Phần nhà quay mặt ra đường thường dùng
làm nơi buôn bán. Giữa nhà trước và nhà sau là một sân nhỏ được lát đá và có
nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau trong kiểu nhà này mà vẫn giữ được sự
riêng tư. Tất cả các ngôi nhà cửa hiệu đều có hệ vì kèo bằng gỗ gồm xà ngang và
trụ đội, được thiết kế có độ thông khí cao phù hợp với vùng khí hậu nhiệt đới
của địa phương và thiết kế phù hợp với thuật phong thủy của người Hoa. Và nét
độc đáo khác lạ nữa là mắt cửa, điều mà chỉ có duy nhất ở Hội An mà các kiểu
nhà ở Châu Á không có được.
2.2.2.2. Nhà thờ tộc
Nhà thờ tộc là những công trình riêng biệt được xây dựng trên mảnh đất vuông
vắn, thường nằm trong những con hẻm nhỏ hoặc quay lưng ra đường. Khu đất
có hàng rào bao bọc và có một sân vườn lớn phía trước nhà chính. Mặt bằng và

cấu trúc cũng giống như nhà chính của nhà cửa hiệu nhưng có thêm mái hiên ở
các bên. Các nhà thờ tộc cơ bản phục vụ cho việc thờ cúng tổ tiên và cũng chính
là nơi giáo dục con cháu lòng biết ơn, kính trọng tổ tiên. Nhà thờ tộc là biểu
tượng cho mối quan hệ đoàn kết, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau của người trong
dòng tộc.
2.2.2.3. Đình
Đình làng truyền thống là trung tâm văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt và
cộng đồng Việt gốc Hoa đang sinh sống ở Hội An. Đình làng là nơi diễn ra các
hoạt động văn hóa – xã hội và cũng là nơi hội họp, tổ chức các lễ cúng và những
sự kiện đặc biệt. Ngày nay các đình làng ở Hội An vẫn còn được sử dụng.
2.2.2.5. Hội quán
Hội quán ở Hội An được xây dựng phục vụ cho cộng đồng người Hoa. Các hội
quán có sự kết hợp các yếu tố kiến trúc và tôn giáo tín ngưỡng của người Hoa
nhưng mang phong cách kiến trúc xây dựng truyền thống của người Việt. Cũng
giống như đình làng hội quán cũng là nơi trao đổi, bàn bạc việc buôn bán.
2.2.2.4. Các công trình khác
- Chùa và miếu
Là kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng được trang trí khá lộng lẫy so với các loại
hình kiến trúc khác. Các công trình này được phân bố khắp nơi trong khu đô thị
cổ Hội An và các vùng ven. Một trong những công trình kiến trúc tôn giáo tiêu
biểu là chùa Phước Lâm, tọa lạc ở xã Cẩm Hà cách Hội An 3km, cùng với chùa
tổ Chúc Thánh là các di tích minh chứng cho việt phát triển phật giáo ở đàng
trong, Việt Nam.
- Mộ
Việc phân bố các loại hình mộ ở Hội An, bao gồm những ngôi mộ của người
Chăm, Việt, Trung Hoa, Nhật, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Đức và Pháp cũng đã
nói lên lịch sử và sự đa dạng về di tích ở Hội An. Những ngôi mộ này đa dạng
về kiểu dáng và phong cách theo từng nhóm văn hóa.
- Cầu
Chùa cầu hay còn gọi là cầu Nhật Bản (Lai Viễn Kiều) là chiếc cầu cổ nhất ở

Hội An tương truyền do người Nhật xây dựng vào đầu thế kỷ 17. Có giả thuyết
cho rằng cầu được xây dựng để trấn an con Cù - một linh vật mà theo truyền
thuyết đầu con Cù ở Ấn Độ, lưng nó chạy dọc bờ biển Việt Nam và đuôi nó ở
Nhật Bản. Khi con Cù cựa quậy thì gây ra ngập lụt ở Hội An hoặc động đất ở
Nhật Bản. Vì thế việc xây dựng chiếc cầu trên lưng con Cù sẽ ngăn chặn động
đất ở Nhật Bản và ngập lụt ở Hội An.
Cầu được xây dựng theo dạng hình vòm, có 7 nhịp bên trên được lợp mái ngói
giúp bảo vệ cấu trúc cầu làm bằng gỗ. Hai đầu cầu thờ các con vật linh, ngoài

×