Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phân tích quá trình dạy học và vận dụng vào công tác giảng dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.09 KB, 7 trang )

TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ GIÁO DỤC HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP
BÀI THU HOẠCH
BỘ MÔN: Lí luận dạy học.
Đề bài: Phân tích quá trình dạy học và vận dụng vào công tác giảng dạy.
Họ và tên: Đào Ngọc Hùng.
Lớp: NVSP/A
4
.
Hà Nội, tháng 10 – 2010.
BÀI THU HOẠCH MÔN
TÂM LÍ DẠY HỌC
Đề bài: Phân tích quá trình dạy học và vận dụng vào công tác giảng dạy.
Bài làm
I – Phân tích quá trình dạy học.
Quá trình dạy học nói chung, quá trình dạy học hoá học nói riêng đã là đối tượng
nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục – lí luận dạy học. Nhưng trước tiên chúng ta hãy
cùng nhau xem xét như thế nào là quá trình dạy học?
Như GS.Nguyễn Ngọc Quang đã xác định: Học là quá trình tự giác, tích cực, tự
lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên, chiếm
lĩnh khái niệm khoa học là mục đích của hoạt động học. Học sinh sẽ thu nhân kiến thức
từ kho tàng văn hóc xã hội của nhân loại thành nền học vấn riêng cho bản thân, Như
vậy quá trình chiếm lĩnh khái niệm thành công sẽ đạt được 3 mục đích dạy học: Trí dục,
phát triển tư duy, giáo dục. Vậy quá trình dạy học là quá trình tương tác giữa học sinh
và giáo viên nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học. Trong đó học sinh
cần phải có tính tự giác, tích cực trong học tập, không chờ đợi ở giáo viên mà cần phải
biết tự tổ chức, lên kế hoạch học tập cho mình. Học sinh cần tự điều khiển quá trình
nhận thức và giáo viên chỉ là người chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển lớp học,
học sinh. Khi có vấn đề gì cần trao đổi, tranh luận thì giáo viên sẽ đóng vai trò là cố
vấn, trọng tài.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về dạy và học. Với quan niệm thông thường


dạy thế nào thì học thế ấy nên khái niệm dạy sẽ kéo theo khái niệm học. Có quan niệm
cho rằng dạy học là một nghề trong xã hội hay dạy học là hoạt động của thày giáo trên
lớp. Cũng có quan niệm cho rằng có việc học mới cần đến việc dạy nên nhu cầu và cách
học sẽ quyết định quá trình dạy. Các quan niệm này đều nói về vai trò của người giáo
viên. Các quan niệm như thế đều không đầy đủ. Khái niệm dạy, học .... được tâm lý học
sư phạm, giáo dục học đề cập đến đến như những khái niệm xuất phát của tâm lý học
sư phạm và giáo dục của nhà trường. Lịch sử văn hoá phương Đông thường coi Khổng
Tử là học giả đầu tiên của giáo dục. Theo Nguyễn Văn Tiến: “Khổng Tử là người đầu
tiên đưa ra phương pháp giáo dục khoa học ... Cách dạy của ông là gợi mở để người
học suy nghĩ, chứ không phải là giảng giải nhiều lời”.
Có quan niệm cho rằng học là thu nhận kiến thức của nhân loại và mục đích của
việc học là để “khai trí tiến đức” như cố nhân đã dạy (Giáo Sư Nguyễn Ngọc Quang-
3
bài Bản chất quá trình dạy học - sách GD học đại học - Hà Nội 2000). Quan niệm học
đó sẽ tương ứng với khái niệm “dạy là truyền thụ kiến thức mà nhân loại đã tích luỹ
được”. Ngoài ra còn rất nhiều các quan niệm khác về quá trình dạy và học. Cố Giáo sư
Nguyễn Ngọc Quang đã viết “học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực, chiếm lĩnh khái
niệm khoa học (nội dung học) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Trong quan
niệm này chúng ta thấy rõ học mà chỉ ghi chép những gì giáo viên nói thì không phải là
học, học phải tích cực, tự giác, tự lực nếu không thì quá trình học sẽ không có kết quả.
Như vậy học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh là chủ thể, khái niệm
khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Cũng theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang:“Dạy là
sự điều khiển tối ưu hoá quá trình người học chiếm lĩnh nội dung học, trong và bằng
cáchđó phát triển và hình thành nhân cách (năng lực, phẩm chất)”. Nhân cách ở đây
được hiểu là tri thức, kĩ năng và thái độ.

Từ khái niệm dạy và học sẽ đưa tới khái niệm dạy học. Dạy học là hai mặt của
một quá trình luôn luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, quyết định lẫn nhau thông
qua hoạt động cộng tác nhằm tạo cho người học khả năng phát triển trí tuệ, góp phần
hoàn thiện nhân cách. Bản chất của quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm

ba thành tố cơ bản là khái niệm khoa học (nội dung dạy học), học và dạy.

a) Nội dung dạy học là nội dung của bài học và là đối tượng lĩnh hội của người
học; nó là một trong hai yếu tố khách quan, quyết định logic của bản thân quá trình dạy
học về mặt khoa học.

b) Hoạt động học là yếu tố khách quan thứ hai quy định logic của quá trình dạy
học về mặt lý luận daỵ học; nghĩa là trình độ trí dục và quy luật lĩnh hội người học có
ảnh hưởng quyết định đến việc tổ chức quá trình dạy học; nó bao gồm hai chức năng
thống nhất với nhau: lĩnh hội và tự điều khiển nhận thức.
c) Hoạt động dạy gồm hai chức năng truyền đạt và điểu khiển, luôn luôn tác
động và thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ logic khoa học của khái niệm và
logic sư phạm của tâm lý học lĩnh hội.
Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn, ở đó các thành tố của nó luôn luôn tương
tác với nhau theo những quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau để tạo
nên một sự thống nhất biện chứng.
- Giữa dạy với học.
- Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy.
- Giữa lĩnh hội với tự điều khiển trong học.
4
Nội dung dạy học là điểm xuất phát của dạy và lại là điểm kết thúc của học. Quá
trình dạy học là hoạt động cộng đồng hợp tác giữa các chủ thể: thày - cá thể trò, trò - trò
trong nhóm, thày - nhóm trò. Sự tương tác theo kiểu cộng đồng hợp tác giữa dạy và học
là yếu tố duy trì và phát triển sự thống nhất toàn vẹn của quá trình dạy học, nghĩa là của
chất lượng dạy học. Dạy tốt, học tốt chính là bảo đảm được ba phép biện chứng (ba sự
thống nhất) nói trên trong hoạt động cộng tác. Đó là sự thống nhất của điều khiển, bị
điều khiển và tự điểu khiển, có sự đảm bảo liên hệ nghịch thường xuyên bền vững.

Cái khác nhau của các quan niệm dạy học nằm ở chỗ đã nhấn mạnh hơn yếu tố
nào trong các chức năng của dạy và học. Theo quan niệm truyền thống nhấn mạnh chức

năng truyền đạt của việc dạy và chức năng lĩnh hội của việc học mà chưa chú ý thích
đáng chức năng điều khiển quá trình nhận thức, quá trình lĩnh hội của người học của
việc dạy học và tính tích cực, chủ động tự điều khiển quá trình nhận thức của người học
trong quá trình học của mình. Ngược lại theo quan niệm về việc dạy học, người ta rất
coi trọng yếu tố điều khiển sư phạm của giáo viên, ở đây vai trò của giáo viên đã có sự
thay đổi, người giáo viên phải biết gợi mở, hướng dẫn, dạy cho người học cách tìm
kiếm và xử lí thông tin, từ đó vận dụng chúng. Tuy nhiên, muốn được như vậy cần coi
trọng môi trường cộng tác giữa việc dạy và việc học và người học phải biết tự điều
khiển quá trình nhận thức của mình thông qua việc tích cực, chủ động, tự lực chiếm lĩnh
lấy nội dung học với sự hỗ trợ của người dạy.

Trong hoạt động học, người ta đã thấy được tính thống nhất của hai chức năng
vừa thu nhận kiến thức vừa kết hợp với sự tự điều khiển kiến thức của mình. Để hoạt
động học thu được kết quả tốt người học không chỉ thu nhận kiến thức mới mà còn phải
tích cực, tự điều khiển nhận thức của mình, tức là người học phải tích cức, chủ động,
sáng taọ tìm tòi kiến thức mới. Có như vậy thì quá trình tự thu nhận kiến thức của
người học mới thu được kết quả cao nhất. Và hoạt động học sẽ diễn ra một cách tích
cực.
Giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng để khuyến khích tính ham hiểu biết
của người học, rèn luyện độc lập khám phá trí tuệ, tăng cường khả năng khả năng tổ
chức và sử dụng kiến thức giúp người học đạt được năng lực học suốt đời qua việc tự
giáo dục. Để đáp ứng được nhu cầu của dạy và học, giáo viên đại học cần phải có năng
lực phẩm chất của một nhà khoa học chân chính và một nhà sư phạm tâm huyết.

Người học ở đại học có những đăc điểm đăc trưng là họ là những người trưởng
thành cả về thể chất, tâm lý và nhận thức. Do đó họ phải được ứng xử như người lớn
trong mọi hoạt động. Sinh viên là người đã có định hướng về nghề nghiệp gắn vời nhu
cầu và lợi ích của họ. Vậy nên dạy học làm sao để kích thích được nguyện vong hướng
5
nghiệp của họ. Sinh viên hoàn toàn có khả năng tự học tập, nghiên cứu, tuy nhiên khả

năng đó được phát huy thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có cách dạy
của giáo viên. Theo quan niệm của UNESCO sản phẩm đại học trong thời đại ngày nay
phải có năng lực trí tuệ, có khả năng sáng tạo và thích ứng. Có khả năng hành động để
có thể lập nghiệp, có năng lực tự học, tụ nghiên cứu để có thể học thuòng xuyên và phải
có năng lực quốc tế như ngoại ngữ, văn hóa toàn cầu để có khả năng hội nhập. Để đáp
ứng được những yêu cầu trên thì sinh viên phải có cách học chủ động, khả năng tự lực
tìm kiếm, xử lý thông tin và khát khao sáng tạo.

Để góp phần cho hoạt động dạy học đạt kết quả tốt thì phương pháp dạy học
phải tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyên kỹ năng thực
hành, bồi dưỡ năng lực tự học tập nghiên cứu. Như vậy cũng như các bậc học khác,
phương pháp dạy học ở đại học phụ thuộc vào đặc điểm của nội dung, bám sát mục tiêu
dạy học, đặc điểm của sinh viên. Khai thác các nguồn lưc sẵn có như thời lượng, tài
liệu, trang thiết bị, môi trường và đặc biẹt là năng lực chuyên môn và khả năng sư phạm
của giáo viên.
II – Vận dụng vào công tác giảng dạy môn Hóa Học trong trường THPT.
“Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” là phương pháp sư phạm tiến bộ của
thế giới hiện nay, yêu cầu người dạy phải quan tâm tới học sinh từ tâm sinh lý đến hoàn
cảnh sở trường, sở đoản... Từ nhiều phương diện khác nhau đó người dạy mới có thể
chọn lựa được những phương pháp giảng dạy phù hợp, động viên học sinh hứng thú
học tập.

Giúp học sinh tự học
Dạy học cá thể là dạy cho từng học sinh học, đưa kiến thức đến từng em một. Dù
trong lớp học có nhiều học sinh nhưng thầy cô phải quan tâm từng em và có biện pháp
phù hợp tác động tới từng cá thể trong quá trình dạy học. Để thực hiện tốt phương pháp
dạy học cá thể, giáo viên cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản sau: Chia nhóm học
sinh trong lớp mỗi nhóm từ 4 đến 6 em để các thành viên trong nhóm đều có cơ hội
tham gia xây dựng bài học, em nào cũng có điều kiện thể hiện ý kiến cá nhân trong một
tập thể. Thay đổi các phần trong từng bài cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng tiết

dạy nếu thấy cần thiết. Chuẩn bị tốt các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học như
dụng cụ thí nghiệm, hóa chất, phiếu học tập, giáo án điện tử, bảng hệ thống hóa kiến
thức chuẩn…
6

×