Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh của công ty TNHH tiếp vận VINAFCO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.31 KB, 102 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tính phổ dụng, nhanh chóng, an toàn và
tin cậy trong giao dịch là yếu tố quyết định sự thành công của các doanh
nghiệp, vì vậy áp dụng thương mại điện tử (TMĐT) là một tất yếu. Trong hơn
một thập kỷ qua, nhờ có ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh, thương
mại toàn cầu đã có những bước phát triển đột phá thông qua việc sử dụng xa
lộ thông tin làm phương tiện giao dịch và thực hiện nghiệp vụ thương mại.
Ở nước ta hiện nay, hoạt động TMĐT cũng đang diễn ra hết sức sôi
động. Áp dụng thương mại điện tử là chiến lược hàng đầu để tạo ra lợi thế
cạnh tranh góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì
vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải chuẩn bị kế hoạch triển khai thương mại điện
tử cho riêng mình, để khai thác cơ hội do TMĐT đem lại và đối phó với
những thách thức trong môi trường cạnh tranh. TMĐT là một giải pháp hiệu
quả và có nhiều ưu điểm vượt trội so với thương mại truyền thống. Với sự
xuất hiện của TMĐT, thương mại truyền thống đã bộc lộ nhiều hạn chế trong
các hoạt động giao dịch cũng như nghiệp vụ thương mại.
Việt Nam đang trong quá trình tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực
và thế giới. Dù muốn hay không các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với sự
cạnh tranh quyết liệt không chỉ trong nước và thị trường quốc tế. Các doanh
nghiệp nước ngoài, mạnh về vốn, công nghệ và kinh nghiệm sẽ thông qua
TMĐT để thâm nhập thị trường Việt Nam, cạnh tranh với các doanh nghiệp
Việt Nam.
Quy luật cạnh tranh sẽ không loại trừ bất cứ doanh nghiệp nào, loại
hình nào, lĩnh vực nào. Cũng như các lĩnh vực khác, dù còn khá mới mẻ ở
Việt Nam nhưng lĩnh kinh doanh Logistics cũng đang biến đổi không ngừng
và chịu những áp lực cạnh tranh lớn. Ứng dụng CNTT –TMĐT để nâng cao
năng lực cạnh tranh là một biện pháp hữu hiệu đối với các doanh nghiệp trong
lĩnh vực này. Bởi lượng thông tin trao đổi trong lĩnh vực Logistics rất lớn và
1
nó quyết định đến tốc độ hoàn thành công việc, nâng cao hiệu quả làm việc.
Vậy TMĐT tác động như thế nào đến hoạt động Logistics ?, và tại sao TMĐT


là giải pháp hữu hiệu cho doanh nghiệp kinh doanh Logistics, từ đó doanh
nghiệp có thể lựa chọn những mô hình nào phù hợp và hiệu quả. Đó là những
câu hỏi hóc búa đặt ra cho những nhà lãnh đạo để có thể giúp công ty phát
triển lớn mạnh. Hơn nữa, lĩnh vực Logistics còn khá mới mẻ, việc phân tích
những tác động của TMĐT đến hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực
này là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ mục đích đó và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH
tiếp vận VINAFCO (Vinafco Logistics)- một trong những công ty Logistics
hàng đầu ở Việt Nam, em xin chọn đề tài :“ Ứng dụng TMĐT vào hoạt động
kinh doanh của công ty TNHH tiếp vận VINAFCO ”. Trong khuôn khổ đề
tài, em xin trình bày ba phần lớn như sau:
Phần I: Sự cần thiết của việc ứng dụng TMĐT vào quá trình quản lý
và phân phối sản phẩm.
Phần II: Khái quát về công ty TNHH VINAFCO LOGISTICS và khả
năng ứng dụng TMĐT vào hoạt động quản lý và phân phối sản phẩm của
công ty.
Phần III: Xây dựng dự án phát triển TMĐT vào quá trình quản lý và
phân phối sản phẩm ở Vinafco Logistics
Qua đề tài, em hi vọng có thể đem lại một số thông tin hữu ích cho các
doanh nghiệp Logistics. Do thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, chắc
chắn đề tài không tránh khỏi một số thiếu sót, em mong thầy cô và bạn đọc
góp ý, để em có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa. Cuối cùng, em xin chân thành
cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Đình Thọ và các anh chị trong
công ty Vinafco Logistics đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 06 năm 2006.
2
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ỨNG DỤNG TMĐT
VÀO QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ VÀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM
I/ Vai trò của việc ứng dụng thương mại điện tử vào quá trình quản lý và

phân phối sản phẩm
1 .Ứng dụng TMĐT vào việc khai thác chuỗi cung cấp
1.1 Logistics - Chuỗi cung cấp và quản lý chuỗi cung cấp
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về logistics. Theo Ủy ban
quản trị Logistics:"quản trị logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và
kiểm soát một cách có hiệu lực, hiệu quả hoạt động vận chuyển, lưu trữ hàng
hoá, dịch vụ và những thông tin có liên quan từ điểm đầu đến điểm tiêu thụ
cuối cùng với mục đích thoả mãn nhu cầu khách hàng"(Douglas M lambert,
Fundamental of Logistics, p.3,Mc Graw-Hill, 1998). Điều đó có nghĩa là
logistics bao gồm mọi dịch vụ kinh doanh liên quan đến vận tải (đường biển,
đường hàng không…), lưu kho, bến bãi, sắp xếp hàng hoá sẵn sàng cho quá
trình vận chuyển, ghi kí mã hiệu, nhãn hiệu và phân phối đi các nơi theo yêu
cầu của người uỷ thác.
Từ cuối thế kỉ 20, logistics được mở rộng thêm các mặt hoạt động và
lợi ích khác. Khái niệm mở rộng đó được gọi là quản trị dây chuyền cung ứng
hay quản lý chuỗi cung cấp (supply chain management). Chuỗi cung cấp là
quy trình phối hợp, tổ chức và kiểm soát sự chu chuyển nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm và các thông tin từ nhà cung cấp đầu tiên qua các
khâu trung gian đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm thoả mãn nhu cầu của
họ. Chuỗi cung cấp không phải là một chức năng (trong khi cung ứng xét đơn
lẻ ở một tổ chức là một chức năng). Chuỗi cung cấp là một chuỗi xuyên suốt
từ đầu vào đến đầu ra. Đây là qui trình phối hợp, tổ chức và kiểm soát dòng
lưu chuyển vật tư, sản phẩm giữa nhiều tổ chức, do đó đảm bảo sự thông suốt
của dòng chảy là rất quan trọng. Chuỗi cung cấp gồm nhiều mắt xích bao gồm
3
nhà cung cấp của những nhà cung cấp, nhà cung cấp của khách hàng, khách
hàng của khách hàng…
Cùng với sự phát triển của sản xuất, của công nghệ thông tin, chuỗi
cung cấp ngày càng phức tạp. Vai trò của công nghệ thông tin trong quản lý
chuỗi cung cấp ngày càng lớn. ESCAP định nghĩa: quản lý chuỗi cung cấp

(supply chain management) là tổng hợp những hoạt động của những tổ chức
trong chuỗi cung cấp và phản hồi trở lại thông tin cần thiết, kịp thời bằng cách
sử dụng mạng lưới thông tin và truyền thông kĩ thuật số. Còn theo định nghĩa
từ hội thảo quản lý chuỗi cung cấp thì: Quản lý chuỗi cung cấp là sự hội nhập
của quá trình kinh doanh từ người sử dụng cuối cùng đến nhà cung cấp
nguyên vật liệu, thông qua việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ và thông tin đem
thêm giá trị cho khách hàng (Giáo trình thương mại điện tử_ chủ biên TS
Trần Hoè). Nó bao gồm nhiều hoạt động: mua hàng, phân phối và kiểm soát
nguyên vật liệu, phân phối nguyên vật liệu…
Chức năng của quản lý chuỗi cung cấp hàng hoá là lập kế hoạch, tổ
chức, phối hợp tất cả các hoạt động trong chuỗi cung cấp hàng hoá. Việc tổ
chức hiệu quả các hoạt động chuỗi cung cấp hàng hoá đem lại sự thành công
lớn cho các doanh nghiệp thực hiện TMĐT và sự thành công này phụ thuộc
vào hệ thống hỗ trợ thông tin. Với một hệ thống đồ sộ các hoạt động, nếu
không có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, thì con người khó có thể quản
lý toàn bộ chu trình và tối ưu hoá từng khâu trong chu trình ấy.
Mục đích của quản lý chuỗi cung cấp là giảm rủi ro trong quá trình
cung cấp hàng hoá cho khách hàng, những rủi ro ảnh hưởng tới mức độ tồn
kho, vòng đời sản phẩm, quá trình thực hiện dịch vụ khách hàng. Tất cả
những điều này đem lại những đóng góp lớn lao về lợi nhuận và lợi thế cạnh
tranh. Hơn nữa, nếu một mắt xích trong chuỗi cung cấp hoạt động không tốt
thì cả dây chuyền sẽ bị ngưng trệ. Vì vậy, quản lý chuỗi cung cấp là công việc
quan trọng của nhà quản trị kinh doanh, đảm bảo quá trình kinh doanh diễn ra
liên tục và ổn định.
4
1.2 Ứng dụng TMĐT vào khai thác chuỗi cung cấp
Sự xuất hiện của TMĐT giúp cho quá trình tìm kiếm nhà cung cấp ở
các địa phương, các quốc gia khác nhau dễ dàng hơn nhiều (ví dụ đấu thầu
điện tử). Và việc tìm kiếm khách hàng cũng dễ dàng hơn với chi phí thấp hơn.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với chuỗi cung cấp toàn cầu. Chuỗi cung cấp

toàn cầu dài hơn, phức tạp hơn, liên lạc gặp nhiều khó khăn và mất nhiều chi
phí, bởi thông tin trao đổi có thể đòi hỏi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau,
thông tin trao đổi nhiều chiều, cập nhật liên tục. Vì thế, TMĐT là phương tiện
tối ưu nhất hỗ trợ cho quản lý chuỗi cung cấp hàng hoá toàn cầu.
Công nghệ thông tin hỗ trợ chuỗi cung cấp hàng hoá toàn cầu không
chỉ thông qua hệ thống EDI (truyền dữ liệu điện tử), các phương tiện giao tiếp
mà còn cung cấp các chuyên gia trực tuyến để kịp thời ứng phó với những
khó khăn bất ngờ. Công nghệ thông tin đồng thời là phương tiện giúp tìm ra
các đối tác kinh doanh phù hợp cũng như là quảng bá về doanh nghiệp,
thương hiệu.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, có sự trợ giúp của TMĐT sẽ giúp
doanh nghiệp tìm kiếm dễ dàng nguyên vật liệu giá rẻ, sản phẩm rẻ và nguồn
lao động rẻ, giúp họ tiếp cận, học hỏi công nghệ sản xuất cao hơn, đem lại
những cơ hội hợp tác kinh doanh hiệu quả. TMĐT mở đường cho doanh
nghiệp tiếp xúc với toàn thế giới đem lại cơ hội kinh doanh toàn cầu.
TMĐT giúp cho quản lý chuỗi cung cấp hiệu quả hơn. Điều này giúp
doanh nghiệp chủ động ứng phó đối với những diễn biến thay đổi của thị
trường. TMĐT tác động trong từng khâu của chuỗi cung cấp và nó tích hợp
tạo nên sự tối ưu cho cả quá trình.
Từ những sự phân tích trên cho ta thấy: TMĐT đã, đang, và sẽ được
ứng dụng rộng rãi trong tất cả các khâu của chuỗi cung cấp. Điều đó cũng có
nghĩa là TMĐT được ứng dụng trong logistics và quản trị logistics, bởi quản
lý chuỗi cung cấp là khái niệm mở rộng của logistics. Ngày nay, với sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin đang mở ra thời cơ và thách thức
5
mới. Không riêng gì lĩnh vực logistics mà các lĩnh vực kinh doanh khác cần
phải nắm bắt được cơ hội này và tận dụng TMĐT sao cho tối ưu nhất.
2. Ứng dụng TMĐT vào quản lý và phân phối sản phẩm
Quản lý và phân phối sản phẩm là một số hoạt động trong chuỗi hoạt
động logistics. Nó cũng được coi là những mắt xích trong chuỗi cung cấp

hàng hoá. Cũng như các hoạt động khác, quản lý và phân phối sản phẩm cũng
chịu sự tác động của TMĐT và việc ứng dụng TMĐT tạo ra những ưu việt
cho mỗi hoạt động.
2.1 Ứng dụng trong hoạt động quản lý
Trước đây, rất nhiều hoạt động của chuỗi cung cấp hàng hoá được quản
lý bằng tay, những phương pháp quản lý không hiệu quả. Vì vậy, ngay từ
những ngày đầu sử dụng máy tính vào kinh doanh, máy tính đã được tập trung
vào tự động hoá trong chuỗi cung cấp. Chúng hỗ trợ trong nhiều phân khúc
ngắn trong chuỗi cung cấp hàng hoá. Đối với hoạt động quản lý sản phẩm, đã
xuất hiện nhiều chương trình phần mềm giúp quản lý tồn kho đến từng danh
mục sản phẩm, các thông tin chi tiết về sản phẩm làm cho quá trình cung cấp
hàng hoá luôn chủ động. Với sự trợ giúp của các phần mềm này đã cắt giảm
một lượng lớn nhân viên quản lý kho và cắt giảm các chi phí khác, hơn nữa
chính xác và nhanh hơn rất nhiều. Tuy nhiên, nếu TMĐT chỉ giúp quản lý
hàng tồn kho thôi thì chưa đủ, bởi lịch trình sản xuất liên quan đến quản lý
tồn kho và kế hoạch mua sắm. Đến đầu năm 1960, mô hình kế hoạch hoá
nguyên liệu (MRP) được phát minh ra. Phần mềm này có ứng dụng trong
nhiều trường hợp và giúp quản lý chuỗi cung cấp dễ dàng hơn.
Rất nhiều hoạt động trong logistics cũng như quản lý chuỗi cung cấp
liên quan mật thiết với nhau. Do đó, nhiều phần mềm ra đời phản ánh mối
tương quan giữa các hoạt động (như kế hoạch sản xuất liên quan tới dự trữ
nguyên vật liệu, quản lý hàng tồn kho…) và các phần mềm này giúp xác định
lượng tối ưu cho mỗi bộ phận, hay mục tiêu mà mỗi hoạt động cần đạt đến.
Điều này làm giảm bớt các chi phí vô ích- cái mà con người khó thực hiện
6
nếu dựa vào tính toán thủ công. Có thể nói: TMĐT là giải pháp mang tính đột
phá trong quản trị logistics hay quản trị chuỗi cung cấp.
2.2 Ứng dụng trong phân phối sản phẩm
Quá trình phân phối là chỉ sự di chuyển hàng hoá của một tổ chức
(người sản xuất, kinh doanh…); nó bao gồm sự vận chuyển hàng hoá bằng

các loại phương tiện khác nhau từ địa điểm này sang địa điểm khác, từ nước
nọ sang nước kia, trong đó có sự phối hợp giữa các hoạt động và chức năng
khác nhau, nhằm đảm bảo chu chuyển hàng hoá liên tục từ giai đoạn tiền sản
xuất cho đến khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, quá trình phân
phối và hoạt động logistics có liên quan mật thiết với nhau. Nếu thiếu một kế
hoạch khoa học, sự quản lý chặt chẽ, sát sao thì toàn bộ quá trình chu chuyển
hàng hoá, dịch vụ phức tạp sẽ không thực hiện được một cách nhịp nhàng,
liên tục. Chính vì vậy, người ta đã ví toàn bộ quá trình phân phối là một "băng
tải" hàng hoá chuyển động không ngừng dưới sự tổ chức và giám sát của công
nghệ logistics. Logistics là một công nghệ quản lý, kiểm soát toàn bộ quá
trình phân phối, sản xuất, tiêu thụ một cách đồng bộ. Một công nghệ như vậy
theo sát và đẩy nhanh hoạt động nhờ các luồng thông tin. Đến lượt mình,
những luồng thông tin lại cho phép giám sát được vận động thực của hàng
hoá. Tổ chức dịch vụ logistics đối với toàn bộ quá trình phân phối từ khâu
cung ứng đến khâu tiêu thụ được thực hiện trên cơ sở nhu cầu thực tế.
Việc sử dụng hệ thống EDI với sự hỗ trợ của mạng lưới thông tin liên
lạc và công nghệ xử lý thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định
sự sống còn trong quản lý quá trình chu chuyển hàng hoá và chứng từ. Do đó,
mạng lưới thông tin phải được thiết kế khoa học có khả năng kết hợp chặt chẽ
giữa tính tập trung và phân tán. Theo cách này một số tổ chức hay một cá
nhân sẽ đóng vai trò trung tâm, đứng ra phối hợp các công đoạn: cung cấp
nguyên vật liệu-sản xuất- phân phối dựa trên các dữ liệu về nhu cầu hàng hoá,
dịch vụ, quy cách phẩm chất, năng lực sản xuất, lịch trình chuyên chở và
nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Sự phối hợp trên phải được tổ chức khoa
7
hoc, chặt chẽ và có khả năng đối phó với những sự kiện ngoài dự kiến. Và
như vậy, vị trí của logistics trong toàn bộ quá trình phân phối thực chất là sử
dụng công nghệ thông tin để tổ chức và quản lý quá trình lưu chuyển hàng
hoá qua nhiều công đoạn, chặng đường, phương tiện và địa điểm khác nhau.
Các hoạt động này phải tuân thủ đặc tính của dây chuyền: vận tải-lưu kho-

phân phối và hơn thế nữa chúng phải đáp ứng về tính kịp thời (JIT).
II/ Ứng dụng TMĐT vào quá trình quản lý và phân phối sản phẩm trong
thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp
1. Tổng quan tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT ở Việt Nam hiện nay
1.1 Tình hình ứng dụng CNTT
Xét thực tế khoảng 65% số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở Việt
Nam tập trung tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh là ba
thành phố chiếm hơn 90% dung lượng kết nối internet của toàn quốc.
Theo kết quả khảo sát của Bộ Thương Mại, thì có tới 82,9% số doanh
nghiệp được hỏi đã có kết nối internet và 25,32% đã thiết lập Website. Xét
thực tế các công ty được điều tra đều tập trung ở những thành phố lớn, nơi có
hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông phát triển hơn ở những địa phương
khác, có thể ước tính tỉ lệ kết nối internet của doanh nghiệp trên toàn quốc ở
mức 50%-60%. Với gần 160.000 doanh nghiệp hiện đăng kí kinh doanh tại
việt Nam, số lượng thuê bao internet của khối doanh nghiệp theo tỷ lệ tương
ứng vào khoảng 90.000- 100.000, chiếm trên dưới 5% tổng số thuê bao quy
đổi do VNNIC thống kê vào tháng 12/2004 (2.012.926 thuê bao cho mọi đối
tượng khách hàng).
Đây là một bước tiến lớn về trình độ tiếp cận CNTT của doanh nghiệp
trong năm 2003- 2004 so với năm 2002, khi chỉ 30% doanh nghiệp được kết
nối internet và không đến 10% doanh nghiệp có website riêng giới thiệu về
dịch vụ và các hoạt động của công ty mình.
8
Bảng 1: Hình thức truy cập website của các doanh nghiệp nói chung
Đơn vị tính : %
Hình thức Tỉ lệ
Đường truyền riêng 8.5
Quay số 20.1
ADSL 71.4
Nguồn: Báo cáo thương mại điện tử 2005

Hình 1: Biểu đồ thể hiện hình thức truy cập Website
Theo kết quả điều tra cho thấy: một trong những yếu tố đưa đến sự tăng
trưởng nhanh chóng về tỉ lệ kết nối internet trong năm 2003- 2005 là sự ra đời
của dịch vụ ADSL. 54% các doanh nghiệp có kết nối internet trong nhóm
doanh nghiệp điều tra tổng quan cho biết họ truy cập internet bằng ADSL, và
tỉ lệ này ở nhóm doanh nghiệp có website (là những doanh nghiệp đã đạt đến
trình độ ứng dụng CNTT nhất định) còn cao hơn nữa. Ngoài ra, việc giảm giá
12 loại cước viễn thông và internet từ ngày 1/4/2003 với mức giảm bình quân
từ 10% đến 40% cũng là yếu tố khích lệ các doanh nghiệp dành một phần chi
phí hoạt động thường niên để đầu tư cho việc kết nối viễn thông, một tiền đề
quan trọng để ứng dụng phát triển CNTT và TMĐT trong tương lai.
9
1.2 Tình hình ứng dụng TMĐT
Trong số 230 doanh nghiệp có web được khảo sát, thì những doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất hàng hoá chiếm tỷ lệ 20%, còn lại chủ yếu là doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ. Phân bổ ngành nghề của các doanh nghiệp sản
xuất cũng khá tập trung, với 2/3 số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dệt may và
thủ công mỹ nghệ, 1/3 trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản hoặc cỏ khí điện
máy. Con số này phản ánh một hiện tượng thực tế là các doanh nghiệp dịch
vụ, không kể quy mô, đang trở thành lực lượng năng động nhất triển khai ứng
dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình.
Bảng 2: Tỷ lệ Website phân theo nhóm ngành sản phẩm/dịch vụ
Đơn vị tính: %
Nhóm sản phẩm/dv Tỷ lệ
Website
Hàng hoá tổng hợp 5.65
Điện tử viễn thông 15.65
Tiêu dùng 11.74
Thủ công mỹ nghệ 12.61
Dệt may dày dép 16.09

Sách, đĩa nhạc 3.91
Dịch vụ du lịch 10.00
Dịch vụ tài chính 6.96
Luật, tư vấn 9.57
Khác 38.26
Nguồn: Bộ Thương Mại
* Trên một số Web có thể kết hợp giới thiệu vài nhóm sản phẩm
dịch vụ, do đó con số cộng gộp sẽ lớn hơn 100%
10
Hình 2: Tỷ lệ Website phântheo nhóm ngành SP/DV
Có một điểm đáng lưu ý là trong số những website này, riêng các web
được thành lập từ năm 2003 trở lại đây đã chiếm tới 35,68%. Sự nở rộ về số
lượng website trong một thời gian ngắn cho thấy nhận thức và ứng dụng
TMĐT của doanh nghiệp đã có những bước cải tiến dài trong hai năm qua,
đồng thời là kết quả của việc cải thiện chất lượng dịch vụ internet và phát
triển các dịch vụ hỗ trợ TMĐT tại Việt Nam kể từ khi ADSL ra đời.
Tính năng TMĐT của trang Web
Tính năng TMĐT của các trang web doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
vẫn còn ở mức tương đối sơ khai. Kết quả điều tra 230 công ty đã xây dựng
web cho thấy, đa phần những web này mới chỉ dừng lại ở mức giới thiệu công
ty và các sản phẩm, dịch vụ (92,17%). Khoảng trên 40% Web đã tiến thêm
một bước là có cung cấp thông tin về giá cả sản phẩm và cho phép liên hệ đặt
hàng. Tuy nhiên, số web cho phép thanh toán trực tuyến (bằng thẻ tín dụng
11
hoặc chuyển khoản) chỉ chiếm hơn 10%, phần lớn trong số này là các siêu thị
trực tuyến và web dịch vụ (du lịch, ngân hàng, dịch vụ tin học và viễn thông)
Bảng 3: Tính năng TMĐT của các Website doanh nghiệp Việt Nam
Đơn vị tính:
%
Sản phẩm Giá cả Đặt hàng Thanh toán

trực tuyến
Dịch vụ
khách hàng
92.17% 47.83% 40.43% 10.47% 47.83%
Nguồn: Bộ Thương Mại
Đa số các doanh nghiệp khi xây dựng web đã có ý thức quảng bá trang
web của mình bằng nhiều hình thức. 52.61% các đơn vị được hỏi cho biết có
đăng ký web với một công cụ tìm kiếm như yahoo, Google hay danh bạ web
do một số tổ chức trong nước đứng ra tập hợp. Trên 50% doanh nghiệp có
quảng cáo web qua các phương tiện thông tin đại chúng và trao đổi link với
những trang web khác, tuy nhiên vẫn còn khoảng gần 20% doanh nghiệp chưa
áp dụng biện pháp nào để quảng bá Web.
Hiệu quả đầu tư TMĐT
Kết quả khảo sát nhóm doanh nghiệp có web, là những doanh nghiệp
đã bắt đầu triển khai ứng dụng TMĐT ở mức độ khác nhau, cho thấy tỷ trọng
đầu tư CNTT có sự phân tán khá lớn, với 38,1% đơn vị được hỏi cho biết
hàng năm dành dưới 5% tổng chi phí hoạt động cho ứng dụng CNTT; 39,3%
từ 5 đến 15% và 22,6% chi trên 15% cho lĩnh vực này.
Do ứng dụng CNTT đòi hỏi một số CSHT kỹ thuật nhất định với chi
phí tối thiểu được cố định không kể quy mô doanh nghiệp, đầu tư CNTT sẽ
chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp
vừa và nhỏ, xét tương quan vốn của loại hình doanh nghiệp này so với các
doanh nghiệp lớn. Kết quả điều tra cũng phần nào phản ánh được thực trạng
này. Khoảng 30% doanh nghiệp ở quy mô 50 nhân viên trở xuống cho biết
12
hàng năm chi trên 15% về những khoản mục cho CNTT, so với tỷ lệ 16% các
doanh nghiệp lớn (từ 100 nhân viên trở lên) đầu tư ở mức độ này.
Bảng 4: Tỉ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động thường niên
Đơn vị tính: %
Tỷ trọng

chi
Quy mô doanh nghiệp
Từ 30
nhân
viên trở
xuống
30-50
nhân
viên
50-100
nhân
viên
100-300
nhân
viên
Trên 300
nhân
viên
Tính
chung
Dưới 5% 30.36 33.33 50.00 37.50 45.24 38.10
Từ
5%-15%
42.86 33.33 25.00 46.88 38.10 39.29
Trên
15%
26.79 33.33 25.00 15.63 16.67 22.62
Mặc dù tỷ trọng đầu tư cho CNTT và TMĐT như vậy là tương đối cao,
nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư này mang lại vẫn được doanh nghiệp đánh
giá khá dè dặt. 58,9% các doanh nghiệp cho rằng ứng dụng TMĐT đóng góp

dưới 5% vào tổng doanh thu của đơn vị, và chỉ có 13,7% doanh nghiệp đánh
giá phần đóng góp này đạt trên 15%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với quy
mô vốn hạn chế, phải chịu sức ép chi phí lớn hơn khi triển khai ứng dụng
TMĐT nhưng lại thu được hiệu quả thấp hơn từ những ứng dụng này. Nhóm
doanh nghiệp nhỏ dưới 30 nhân viên tỏ ra bi quan hơn cả: có đến 63,8% đơn
vị được hỏi cho biết ứng dụng CNTT-TMĐT chỉ đóng góp dưới 5% vào việc
tạo doanh thu, so với 52,4% số doanh nghiệp với quy mô từ 100-300 nhân
viên.
13
Bảng 5: Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng
TMĐT trong doanh nghiệp
Đơn vị tính %
% doanh
thu do
% doanh thu từ ứng dụng TMĐT
30 nhân
viên trở
xuống
30-50
nhân
viên
50-100
nhân
viên
100-300
nhân
viên
Trên 300
nhân
viên

Tính
chung
Dưới 5% 63.83 53.85 58.82 52.38 57.69 58.87
Từ
5%-15%
21.28 15.38 29.41 42.86 30.77 27.42
Trên
15%
14.89 30.77 11.76 4.76 11.54 13.71
Nguồn: Bộ Thương Mại
Có thể thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là đối tượng cần hỗ trợ để
triển khai ứng dụng TMĐT một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có những
chính sách hợp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa tiếp thu được
những kỹ thuật tiên tiến của thế giới vừa không chịu sức ép quá lớn về chi phí
đồng thời thu được hiệu quả kinh tế thực sự đối với hoạt động đầu tư cho
TMĐT của doanh nghiệp.
Trong phần trên, chúng ta cùng xem xét tình hình ứng dụng CNTT-
TMĐT ở Việt Nam hiện nay. Qua đó phần nào cho ta đánh giá tổng quan về
xu hướng ứng dụng TMĐT trong nhiều lĩnh vực kinh tế hiện nay. Logistics là
một ngành dịch vụ và theo xu hướng chung nó cũng không thể không có
những ứng dụng CNTT-TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình để nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Phần tiếp theo ta cùng nghiên cứu xu hướng ứng
dụng CNTT-TMĐT trong lĩnh vực này.
2. Xu hướng ứng dụng TMĐT vào hoạt động Logistics nói chung hiện
nay
2.1. Xu hướng trên thế giới
14
Một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới. Bất kì một quốc gia hay ngành nghề nào, không phân biệt lớn hay nhỏ
muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực tham gia vào xu thế

này. Xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu của logistics-
logistics toàn cầu. Vì các tập đoàn, công ty đặt trụ sở và phục vụ cho nhiều thị
trường ở các nước khác nhau, nên phải thiết lập hệ thống logistics toàn cầu để
cung cấp sản phẩm dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Các hệ thống
logistics ở các khu vực, quốc gia khác nhau có thể không hoàn toàn giống
nhau nhưng tất cả hệ thống logistics đều có đặc điểm chung là sự kết hợp
khéo léo, khoa học, chuyên nghiệp chuỗi các hoạt động như marketing, sản
xuất, tài chính, vận tải, thu mua, dự trữ, phân phối …để đạt được mục đích
phục vụ khách hàng tối đa với chi phí tối thiểu.
Sử dụng nhà cung cấp dịch vụ logistics là một xu thế khá thịnh hành vì
họ không chỉ đơn thuần là người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức mà
còn là người tổ chức các dịch vụ khác như: quản lý kho hàng, bảo quản hàng
hoá trong kho, thực hiện các đơn đặt hàng, tạo thêm giá trị gia tăng cho hàng
hoá, phân phối cho các điểm tiêu thụ…Thậm chí họ có thể là những nhà tư
vấn đáng tin cậy có khả năng can thiệp vào những vấn đề sau:
- Hợp lý hoá dây chuyền vận tải, loại bỏ những công đoạn, những khâu
không hiệu quả.
- Thiết kế mạng lưới phân phối mới, mạng lưới phân phối ngược.
- Quản lý các trung tâm, các trạm đóng hàng hỗn hợp thu gom phụ
tùng…
- Đặc biệt nếu là doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nước ngoài
thì việc sử dụng nhà cung cấp logistics của nước sở tại đem lại nhiều khả
năng nắm bắt và chiếm lĩnh thị trường nhanh hơn.
Toàn cầu hóa nền kinh tế càng sâu rộng thì tính cạnh tranh ngày càng
gay gắt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lĩnh vực logistics cũng vậy,
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, thì ngày càng có nhiều
15
nhà cung cấp dịch vụ Logistics ra đời và cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn.
Để đáp ứng nhu cầu cung ứng nguyên vật liệu, phân phối sản phẩm người ta
luôn phải cân nhắc: tự làm hay mua dịch vụ? và mua của ai? Do đó bên cạnh

những hãng sản xuất có uy tín đã gặt hái thành công nhờ khai thác tốt hệ
thống logistics của chính mình như: Hawlett-packerd, Spokane Company,
Ladner Building Products, Procter& Gamble…thì tất cả các công ty vận tải và
giao nhận cũng nhanh chóng chớp thời cơ phát triển và trở thành những nhà
cung cấp dịch vụ logistics hàng đầu thế giới với hệ thống logistics toàn cầu
như: Maesk Logistics, NYK Logistics, APL Logistics…
Trước xu hướng sử dụng các nhà cung cấp dịch vụ logistics, thì cạnh
tranh trong lĩnh vực này ngày càng gay gắt hơn. Quy luật cạnh tranh sẽ đào
thải những công ty hoạt động kém hiệu quả. Tối ưu hoá, phục vụ khách hàng
tối đa với chi phí tối thiểu là phương châm hoạt động của những công ty kinh
doanh thành công. Trong những nhân tố đóng góp cho thành công của những
công ty logistics hàng đầu thế giới không thể không kể đến việc ứng dụng
TMĐT. Chính TMĐT đã tạo ra sự tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh và đem lại
thắng lợi cho những công ty biết vận dụng những thành quả của TMĐT cũng
như công nghệ thông tin. Chính nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin
mà logistics đã phát triển lên một nấc thang mới. Giờ đây chỉ cần ngồi trước
một máy tính kết nối internet, ta có thể biết được hàng của mình đang ở đâu
và trong tình trạng như thế nào?
TMĐT đang tạo ra những thời cơ và thách thức. Trong bối cảnh đó, các
nhà cung cấp dịch vụ logistics trên thế giới đang tích cực phát huy các điểm
mạnh, khắc phục các điểm yếu, tận dụng cơ hội và vượt qua được những
thách thức. Mỗi công ty logistics có những chiến lược phát triển riêng cho
mình nhưng tựu chung lại có những hướng phát triển sau: mở rộng phạm vi
nguồn cung ứng; đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá,
dịch vụ; phát triển các dịch vụ làm giá trị gia tăng; đẩy mạnh các hoạt động
16
marketing logistics…và đặc biệt phát triển mạnh TMĐT và coi đây là một bộ
phận quan trọng của logistics, và là chiến lược phát triển lâu dài của công ty.
2.2. Xu hướng tại Việt Nam
Trên thế giới logistics đã xuất hiện từ rất lâu và phát triển mạnh mẽ,

nhưng ở Việt Nam còn khá mới mẻ, các công ty mới chỉ kinh doanh một khâu
nào đó của dịch vụ này, rất ít công ty cung cấp được toàn bộ dịch vụ trọn gói.
Theo thống kê ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 800 công ty giao nhận
chính thức đang hoạt động (thực tế trên 1000 công ty tham gia vào lĩnh vực
này), trong đó khoảng 18% là công ty Nhà nước; 70% là công ty TNHH,
doanh nghiệp tư nhân, 10% doanh nghiệp tư nhân chưa có giấy phép và 2%
công ty Logistics do nước ngoài đầu tư vốn. Đa số các công ty đều có qui mô
vừa và nhỏ. Chỉ có một vài công ty lớn như: Vietrans, Viconship,
Vinatrans Bên cạnh hoạt động truyền thống là giao nhận, xuất nhập khẩu
hàng hoá, các doanh nghiệp này đang tích cực hoàn thành hệ thống Logistics
của đơn vị mình và thực hiện các dịch vụ Logistics.
Một số công ty liên doanh nước ngoài kinh doanh Logistics có tiềm lực
lớn về tài chính, công nghệ và kinh nghiệm đã có những ứng dụng CNTT-
TMĐT ưu việt như Maersk, VICT…còn lại các công ty giao nhận ở Việt Nam
chủ yếu ứng dụng TMĐT còn rất sơ khai. Tuy nhiên, được sự hỗ trợ của Nhà
nước và các ban ngành, TMĐT đang được coi là chiến lược phát triển lâu dài
cho các công ty ở Việt Nam hiện nay, cho nên TMĐT sẽ dần được ứng dụng
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều công ty vừa và nhỏ, trong đó
có cả những công ty logistics. Đây chính là điểm thuận lợi cho các công ty
logistics ngày càng có những ứng dụng mới cải tiến hệ thống thông tin, đem
lại nhiều lợi ích thiết thực cho công ty cũng như các bạn hàng.
TMĐT đang trở thành xu hướng chung cho nhiều doanh nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân. Và các doanh nghiệp logistics cũng đang hoà theo nhịp
của xu thế đó. Thành công của những công ty logistics hàng đầu thế giới đã
chứng minh TMĐT là một nhân tố đóng góp không nhỏ vào thành công đó.
17
Nhận thức được xu thế này và làm thế nào để có những ứng dụng phù hợp với
tiềm lực công ty đang là bài toán đặt ra cho các doanh nghiệp logistics Việt
Nam.
3. Những bước cải tiến hệ thống thông tin trong hoạt động quản lý và

phân phối của các công ty Logistics trên thế giới và ở Việt Nam
3.1 Hệ thống thông tin của Maersk Logistics Việt Nam
Cũng như tất cả các văn phòng khác của Maersk Logistics trên thế giới,
các nhân viên của Maersk Logistics Việt Nam đều sử dụng rất thành thạo hệ
thống thông tin toàn cầu (Global Systems) để trao đổi thông tin giữa các văn
phòng trong tập đoàn, trao đổi thông tin với khách hàng, phát hành B/L và các
loại chứng từ khác, cập nhật và lưu trữ thông tin về hàng hoá, phân tích và
tổng hợp các số liệu để lập báo cáo thống kê kịp thời và đặc biệt cung cấp cho
khách hàng những thông tin về tình trạng hàng hoá của họ ở mọi lúc, mọi nơi.
Hiện nay Maersk Logistics Việt Nam đang sử dụng hệ thống thông tin sau
đây:
• Maersk Communication System (MCS)
MCS là hệ thống trao đổi thông tin giữa các văn phòng Maersk Logistics
trên khắp thế giớ dưới dạng telex. MCS cũng được sử dụng để trao đổi Email
với khách hàng. MCS là hệ thống thông tin hữu hiệu với nhiều chức năng
giúp người sử dụng tiết kiệm thời gian và trao đổi thông tin nhanh chóng.
MCS được hầu hết các nhân viên của Maersk Logistics sử dụng trong công
việc hàng ngày.
• Operation & Documentation execution System (MODS)
MODS là một trong những hệ thống quan trọng nhất của Maersk
Logistics. Ban đầu MODS được thiết kế riêng cho vận chuyển đường biển và
cho quy trình SCM (Supply Chain Management).
MODS được sử dụng để quản lý đơn hàng của khách hàng. Hệ thống
này có đặc điểm chính như:
18
+ Với những khách hàng đặc biệt, MODS được cài đặt để nhận biết
ngay được số đơn đặt hàng (Purchase Order-PO) vừa được cập nhật là đúng
hay sai, giúp nhân viên cập nhật số liệu có thể ngay lập tức liên hệ với khách
hàng, để kiểm tra lại và sửa lại cho đúng;
+ Trong trường hợp. nhiều khách hàng cung cấp trước cho Maersk

Logistics số đơn đặt hàng cùng chi tiết của từng đơn hàng, trong đó nêu rõ
thời hạn sớm nhất và thời hạn trễ nhất nhà cung cấp phải giao hàng cho khách
hàng; MODS sẽ cập nhật và lưu trữ số liệu của tất cả các PO được cung cấp
trước từ khách hàng. Công việc này có tên gọi là PO Upload. Sau này khi một
PO được xuất đi, nhân viên cập nhật dễ dàng truy xuất các số liệu sẵn có, đảm
bảo tính chính xác, nhanh chóng. Cũng nhờ MODS, công ty có thể biết rõ nhà
cung cấp có cung cấp đủ hàng theo yêu cầu hay chưa? Giao hàng mấy lần?
vào những thời điểm nào?
+ MODS được cài đặt chương trình đặt biệt là Shipping Window để
quản lý thời hạn giao hàng. Nếu sau thời hạn chậm nhất phải giao hàng của
một PO nào đó mà hệ thống chưa cập nhật số liệu của PO đó, thì hệ thống sẽ
tự động gửi một thông báo giao hàng trễ cho khách hàng. Việc này giúp giảm
một lượng thời gian đáng kể trong việc truyền tin và nhận lệnh từ khách hàng.
Khi MODS được mở rộng cho vận tải của hàng không thì khoảng thời gian
tiết kiệm được là rất ý nghĩa.
Hệ thống MODS có nhiều chương trình nhỏ để phục vụ cho quá trình
làm hàng thử như:
1. Nhận yêu cầu xếp hàng (Shipping Order);
2. Nhận hàng vào kho (Cargo Receiving);
3. Hàng được xếp lên chuyến bay/tàu (Container
Stuffing)
4. Vận đơn (B/L)
5. Tính cước phí;
6. Chứng từ được gửi đi (Shipping Advice)
19
Và nhiều chương trình khác đảm bảo theo dõi được lô hàng trong suốt
quá trình vận chuyển từ khi Maersk Logistics nhận được yêu cầu của người
gửi hàng cho đến khi hàng được giao đến tay người nhận. Nhờ những chương
trình nêu trên mà các nhân viên Maersk Logistics sử dụng MODS để cập nhật
mọi thông tin về hàng hoá qua các khâu:

- Nhận thông báo xếp hàng;
- Nhận hàng vào kho;
- Nhận hàng tại bãi container;
- Tính toán cước phí;
- Phát hành chứng từ;
- Gửi hướng dẫn chi tiết B/L choc các hãng tàu có liên quan
Đặt biệt hệ thống này giúp Maersk Logistics quản lý chi tiết các đơn
đặt hàng của khách hàng, số lượng, mã hàng, ngày giao hàng so với hợp
đồng…
• Online Boooking & Documentation System for Shipper (M*Power
Shipper)
Đây là công cụ chính được Maersk Logistics sử dụng trong chiến lược
phát triển TMĐT của mình. Hệ thống này cho phép các khách hàng của công
ty gửi những yêu cầu xếp hàng/ đặt chỗ (Booking note) qua mạng. Internet rất
nhanh chóng và tiện lợi. Hình thức đặt chỗ này sẽ thay thế dần cho việc gửi
yêu cầu xếp hàng/đặt chỗ theo phương pháp truyền thống: qua fax hay điện
thoại. Hình thức này giúp cho cả hai phía khách hàng và Maersk Logistics
trong giao dịch hàng ngày. Khách hàng có thể gửi Booking note qua internet
mọi lúc, mọi nơi và cũng nhận được xác nhận của Maersk Logistics qua
internet rất nhanh chóng. Maersk Logistics cũng dễ dàng có được các
Boooking note với đầy đủ thông tin và xác nhận các booking note kịp thời.
Maersk Logistics Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho hoạt động
TMĐT của mình trong tương lai gần. TMĐT là xu thế tất yếu của thời đại.
Một khi cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở Việt Nam tốt hơn, cơ sở pháp lý
20
về TMĐT được hình thành và phát triển, thanh toán điện tử và bảo mật đạt đủ
một trình độ thích hợp, chắc chắn Maersk Logistics Việt Nam sẽ là một trong
những người đi tiên phong trong lĩnh vực mới mẻ này ở nước ta.
• Client Visibility Tool (M*Power):
Hệ thống Startrack được thiết kế để đáp ứng nhu cầu kiểm tra tình trạng

hàng hoá của mình thông qua hệ thống này. Khách hàng có thể tìm kiếm
thông tin trong hệ thống bằng cách nhập một trong các số liệu:
- Số đơn đặt hàng
- Số vận đơn
- Số container
- Ngày khởi hành…
Khách hàng cũng có thể có được số liệu thống kê qua hệ thống này.
• E*Label system
E*Label System chính là công cụ quản lý mã hàng. Hệ thống này dùng
để internet nhãn hiệu hàng hoá, mã số mã nhãn hiệu (bar-code) của hàng hoá.
Thay vì gửi từng lô nhãn hiệu đến từng nhà cung cấp, từng nhà máy ở nhiều
nước khác nhau, khách hàng có thể yêu cầu khách hàng văn phòng Maersk
Logistics tại địa phương đó in nhãn hiệu cho mình và gửi đến họ thông qua hệ
thống này. Do đó, khách hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí vận chuyển
nhãn hiệu.
Tương tự, Maersk Logistics cũng có thể giúp các nhà cung cấp, các nhà
máy có lại được nhãn hiệu hàng hoá trong trường hợp chúng bị thất lạc hay
hư hại. Đồng thời bằng hệ thống này, Maersk Logistics có thể giúp khách
hàng kiểm soát được tình hình xếp hàng:
- Số lượng hàng của từng đơn hàng đã được giao vào kho
của Maersk Logistics.
- Ngày giao hàng.
21
- Tình trạng bao bì nhãn hiệu hàng hoá…của từng nhà máy,
từng nhà cung cấp, người gửi hàng do số liệu có được từ việc scan
nhãn hiệu hàng hoá và cập nhật những số liệu này vào hệ thống.
3.2 Hệ thống thông tin của FLDC
FLDC – First Logistics Development Company- Liên doanh phát triển
tiếp vận số 1.
FLDC là một công ty liên doanh với 4 đối tác:

- Công ty Neptune Oriental Line- NOL, Singapore
- Công ty thương mại Mitsui-Mitsui & Co. LDT, Nhật Bản
- Tổng công ty đường sông miền Nam_ SOWATCO
- Tổng công ty vận tải và thuê tàu- Vietfratch, Việt Nam.
Chức năng chính của FLDC là xây dựng và khai thác cảng container
chuyên dụng, với tên giao dịch là Vietnam International Container Terminal,
gọi tắt là VICT. VITC là một trong những công ty đi đầu trong việc ứng dụng
CNTT. Trong hoạt động kinh doanh của công ty, CNTT được sử dụng như
một công cụ hữu hiệu để điều hành hoạt động Logistics. Được coi là cảng
biển có hệ thống thông tin hiện đại nhất Việt Nam, VITC đã thiết kế mạng
lưới thông tin hiện đại MAPS với hệ điều hành IBM cài chương trình AS 400.
Hệ thống MAPS với máy chủ IBM, cài đặt chương trình AS 400, nối
với các bộ phận:
1. Phân bổ cầu bến
2. Bãi xếp/dỡ container
3. Cổng bãi
4. Quản lý container tại cổng bãi
5. Bộ phận làm báo cáo
6. Hệ thống xuất vận đơn
7. Dịch vụ thông tin
8. Kho hàng/trạm đựng hàng
22
Hệ thống MAPS cung cấp thông tin về tình trạng container, số
container, số niêm phong…Hệ thống này còn cho phép theo dõi tình hình dỡ
hàng, trọng lượng container, giúp đảm bảo tính ổn định và lịch trình của tàu…
Hệ thống MAPS của VITC có nhiều ưu điểm so với hệ thống thông tin
truyền thống như: chỉ cần một lần nhập dữ liệu, MAPS có thể cung cấp ngay
lập tức hoặc sau một thời gian rất ngắn những thông tin về vị trí container: đã
đến tay người nhận chưa hay còn đang ở trên tàu? Trên con tàu nào? hiện tàu
đang ở đâu? Tình trạng container ra sao? Như vậy, nhờ hệ thống thông tin giá

trị gia tăng được bổ sung vào sản phẩm/dịch vụ được cung cấp. Chỉ cần có
phần mềm tương thích là các bộ phận giao nhận container, kho bãi, trạm đóng
hàng, bộ phận xuất hoá đơn…có thể có đầy đủ các thông tin cần thiết để cung
cấp dịch vụ cho khách hàng, điều này cũng có nghĩa là các sản phẩm/dịch vụ
được cung cấp có tính hữu dụng về thời gian và địa điểm.
Thực tế cho thấy, hệ thống MAPS góp phần rút ngắn được ít nhất 50%
thời gian tàu chờ ra vào cảng, giúp quá trình giao nhận, phân phối hàng hoá
diễn ra nhanh chóng hơn, từ đó góp phần giảm chi phí. MAPS còn có khả
năng lập sơ đồ xếp container lên tàu tối ưu, đảm bảo an toàn và cân bằng
trọng tải…
Bên cạnh tính chính xác và tốc độ truyền tải thông tin nhanh, giao dịch
bằng thư điện tử còn giúp tiết kiệm chi phí. Qua Email và mạng internet
khách hàng có thể trình bày những thắc mắc, tham khảo ý kiến hoặc kiến nghị
với cảng VICT theo địa chỉ , hay nối mạng để tìm hiểu
thông tin trước khi giao dịch với cảng VICT trên website www.vict-vn.com.
Trong tương lai, để đáp ứng yêu cầu thực tế, hệ thống thông tin của
VICT tiếp tục được hoàn thiện theo hương hướng áp dụng TMĐT, xây dựng
trung tâm thông tin cảng theo mô hình sau:
23
Hình 3: Mô hình trung tâm thông tin cảng
Qua sự đánh giá tổng quan về chuỗi cung cấp, cũng như hoạt động quản
lý và phân phối sản phẩm, ta thấy TMĐT có thể được áp dụng để tạo ra sự ưu
việt đem lại nhiều giá trị lợi ích cho doanh nghiệp, khách hàng và xã hội.
Những thành tựu của công nghệ thông tin giúp người ta có thể trao đổi, xử lý
thông tin nhanh chóng, chính xác trên cơ sở đó kịp thời đưa ra những quyết
định đúng đắn. Thực tiễn áp dụng TMĐT trong các doanh nghiệp hiện nay
phần nào khẳng định: công nghệ thông tin thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh
sắc bén, giúp các công ty Logistics thành công và Logistics toàn cầu lớn
mạnh. Tuy nhiên, TMĐT vẫn còn là lĩnh vực rất tiềm năng mà nhiều doanh
nghiệp còn chưa khám phá hoặc mới chỉ ứng dụng được một phần rất nhỏ bé.

Hi vọng trong tương lai không xa nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng như
Vinafco Logistics ứng dụng thành công TMĐT trong hoạt động kinh doanh
của mình, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam năng động hơn, hiện đại hơn…
Trung
tâm
thông tin
cảng
Hãng tàu
vận tải
người
gửi/người
nhận
hải quan
Công ty
vận tải bộ
Công ty
giao nhận
Ngân hàng
24
CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TNHH VINAFCO
LOGISTICS VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TMĐT VÀO
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM
I/ Giới thiệu khái quát về công ty TNHH Vinafco Logistics
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Lịch sử hình thành:
Công ty TNHH tiếp vận Vinafco (VINAFCO LOGISTICS) tiền thân là
Xí nghiệp Ðại lý vận tải - Vật tư kỹ thuật (XNÐLVT-VTKT) của Công ty
dịch vụ vận tải Trung ương - thuộc Bộ Giao thông vận tải. Xí nghiệp được
thành lập vào ngày 15/11/1990 với nhiệm vụ: làm đại lý vận tải, liện hiệp vận
chuyển hàng hoá từ kho đến kho, tổ chức cung ứng vật tư kỹ thuật cho các tổ

chức kinh tế trong và ngoài ngành giao thông vận tải.
Ðến năm 2001, Công ty dịch vụ vận tải Trung ương chuyển đổi thành
Công ty cổ phần VINAFCO theo quyết định số 211/2001/QĐ/BGTVT của Bộ
giao thông vận tải.
Ngày 03/07/2003 Công ty TNHH tiếp vận VINAFCO (VINAFCO
logistics Co.,Lcd) đã được thành lập, theo quyết định số 118/HĐQT của
HĐQT Công ty cổ phần VINAFCO, hoạt động theo mô hình Công ty TNHH
một thành viên với chủ sở hữu duy nhất là Công ty cổ phần VINAFCO.
Trải qua 15 năm kinh nghiệm, Công ty TNHH tiếp vận VINAFCO đã
xây dựng và phát triển một hệ thống các đại diện; hệ thống trung tâm tiếp vận
đạt tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống các phương tiện vận tải hiện đại, đa dạng về
chủng loại, cùng với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nhiệt tình, giàu
kinh nghiệm. Trong những năm qua, Công ty TNHH tiếp vận VINAFCO luôn
khẳng định được uy tín và vị trí hàng đầu trong ngành hoạt động kinh doanh
tiếp vận (logistics) ở Việt Nam.
25

×