Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 115 trang )





















































BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH





NGUYỄN VĂN BÉ








GIẢI PHÁP VỀ VỐN ĐẦU TƯ
CHO PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Ở TỈNH CÀ MAU




CHUYÊN NGÀNH : KINH TEÁ TÀI CHÍNH – NGAÂN HAØNG
MÃ SỐ : 60.31.12






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG



NHỮNG TỪ VIẾT TẮT


Nuôi trồng thủy sản NTTS
Ngân hàng NH

Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐBSCL
Đồng Bằng Sông Hồng ĐBSH
Công nghiệp hóa CNH
Hiện đại hóa HĐH
Trung ương TW
Tổng sản phẩm trên địa bàn GDP
Công ty trách nhiện hữu hạn Cty TNHH
Tổ chức thương mại thế giới WTO
















MỤC LỤC


Trang

LỜI

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
5
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NTTS
5
1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản
5
1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản
6
1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
8
1.3. VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ VỐN TRONG PHÁT TRIỂN NTTS
21
1.3.1. Khái niệm về vốn
21
1.3.2. Vai trò của vốn trong phát triển NTTS
23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
30
CHƯƠNG
2
THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN VÀ
VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI
CỦA TỈNH CÀ MAU
32
2.1.1 Đặc điểm về tự nhiên

32
2.1.2. Đặc điểm về xã hội
36
2.1.3. Đặc điểm về Kinh tế - Tài chính và đời sống dân cư
40
2.2. THỰC TRẠNG NTTS Ở TỈNH CÀ MAU
47
2.2.1. Những thành quả đạt được
47
2.2.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra
60
2.3. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NTTS Ở TỈNH CÀ MAU
64
2.3.1. Những kết quả đạt được
64
2.3.2. Những tồn tại cần hoàn thiện
68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
72
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP VỀ VỐN CHO PHÁT TRIỂN
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU
73
3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU
73
3.1.1. Phát triển NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo tính
bền vững lâu dài, kết hợp kinh tế - xã hội và môi trường
73
3.1.2. Phát triển toàn diện và tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn
vốn phù hợp với các loại hình NTTS (kể cả cá, tôm và thủy sản khác)

74
3.1.3. Đầu tư phát triển NTTS phải đặt trong bối cảnh hội nhập
kinh tế thế giới và khu vực
75
3.1.4. Đầu tư và cho vay NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
và môi trường cao
76
3.1.5. Đổi mới cơ cấu đầu tư và cho vay NTTS theo hướng đồng
bộ từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng
khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, sản xuất thức ăn
thủy sản
77
3.1.6. Vốn phát triển NTTS của tỉnh cần hướng vào khai thác các
78
thế mạnh về đất đai, rừng ngập mặn, bãi bồi của từng vùng sinh thái,
đồng thời kết hợp giữa nuôi trồng với chế biến và xuất khẩu sản phẩm
tinh chế phù hợp với yêu cầu của thị trường
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
79
3.2.1. Những giải pháp về quy hoạch và tổ chức sản xuất
79
3.2.2. Giải pháp tạo vốn
81
3.2.3. Giải pháp sử dụng vốn
85
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HỔ TRỢ
90
3.3.1. Giải pháp về nguồn nhân lực
90
3.3.2. Giải pháp về thị trường tiêu thụ

91
3.3.3. Giải pháp về khoa học - công nghệ
91
3.3.4. Giải pháp về khuyến ngư
92
3.3.5. Giải pháp về khuyến khích các thành phần kinh tế
đầu tư vào phát triển NNTS
92
3.3.6. Giải pháp về môi trường
93
3.3.7. Giải pháp về giống
94
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
94
KẾT LUẬN CHUNG
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC











LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Cà Mau, thủy sản đã
được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong thời gian
qua, hiện nay và cũng như trong tương lai kinh tế thủy sản sẽ đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
Tiềm năng về phát triển kinh tế thủy sản của Cà Mau rất phong
phú: có bờ biển dài 254 km, bao bọc ba mặt từ Đông sang Tây; có ngư
trường rộng lớn khoảng 100.000 km
2
; có bãi biển rộng, bằng phẳng,
nước không sâu lại có các cửa sông là nơi trú ẩn cho nhiều loài tôm, cá,
… Ngư trường Cà Mau là 1 trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước,
có trữ lượng lớn và đa dạng nguồn hải sản có giá trị kinh tế cao như:
tôm, cua, mực, ghẹ, cá hồng, cá lạc, cá đường, cá ngừ, cá bớp, cá chai,
cá mú, … với 660 loài, 319 giống thuộc 138 họ, trong đó có 175 loài
thuộc 116 giống và 77 họ đã được định danh. Trữ lượng các loài hải sản
có thể khai thác ở ngư trường Cà Mau gồm: Vùng biển Đông có trữ
lượng các tầng nổi 520 nghìn tấn, có khả năng khai thác 210 nghìn
tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 800 nghìn tấn, có khả năng khai thác
400 nghìn tấn/năm. Vùng biển Tây có trữ lượng cá nổi 316 nghìn tấn,
có khả năng khai thác 126 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 470
nghìn tấn, có khả năng khai thác 235 nghìn tấn/năm.
Bên cạnh đó, việc nuôi trồng tại khu vực mặt nước ven biển cũng
rất thuận lợi, gồm các loại nhuyễn thể và các loại hai mảnh vỏ như:
nghêu, sò huyết, các loại tôm, cua, cá nước mặn có giá trị cao trong
tiêu dùng và xuất khẩu. NTTS ven biển, đặc biệt là nuôi tôm, đang phát
triển nhanh chóng và trở thành thế mạnh của tỉnh Cà Mau.
Vùng biển Cà Mau còn có nhiều đảo, cụm đảo ven bờ như: cụm
đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, một số bãi cát ven biển
Đông của huyện Ngọc Hiển như: bãi Khai Long, bãi Giá Lồng Đèn, …

và ven bờ biển là hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Đây là những
điểm lý tưởng để tàu thuyền trú ẩn khi có bão, gió lớn hoặc biển động.
Những cụm đảo nầy cũng có thể phát triển thành những trung tâm hậu
cần nghề cá của tỉnh và khu vực.
Ngoài ra, Cà Mau còn có hệ thống kinh rạch chằng chịt dài trên
7.000 km và diện tích mặt nước lớn, thuận lợi cho đánh bắt và NTTS.
Cà Mau còn có nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn, màu mỡ, diện tích
chưa sử dụng còn nhiều. Trong tổng quỹ đất tự nhiên 5.329 km
2
, có
khoảng 1.000 km
2
là đất rừng, đại bộ phận diện tích còn lại đều có thể
sản xuất và NTTS. Nếu so sánh diện tích nuôi tôm và diện tích tự nhiên
của Cà Mau với các tỉnh khác trong khu vực Đồng ĐBSCL sẽ thấy được
tiềm năng đặc biệt to lớn của ngành thủy sản Cà Mau. Đồng chí Nông
Đức Mạnh có lần về thăm Cà Mau đã khẳng định: "Cà Mau có thế mạnh
là nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, cộng thêm lợi thế là tỉnh có diện
tích nuôi tôm, ngư trường đánh bắt thủy sản vào bậc nhất cả nước. Cà
Mau xứng đáng được TW đầu tư trọng điểm nuôi trồng, đánh bắt và chế
biến thủy sản".
Song song với những thuận lợi cũng như những kết quả đạt được,
kinh tế thủy sản Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại như: chưa khai
thác tốt tiềm năng vùng biển, hải đảo, ven biển và bên trong nội đồng;
sản lượng khai thác lớn nhưng giá trị thấp; việc áp dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ mới vào nuôi trồng, đánh bắt, chế biến còn hạn chế;
sản xuất thủy sản còn mang nặng tính tự phát, tôm bị dịch bệnh trên
diện rộng và kéo dài nhưng chưa có khả năng khắc phục được; năng
suất, sản lượng và giá trị không cao, kim ngạch xuất khẩu chưa tương
xứng với tiềm năng của tỉnh,... Những khó khăn, tồn tại đó có nhiều

nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là vốn đầu tư cho ngành
thủy sản đã qua chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành
thủy sản. Do vốn đầu tư còn hạn chế nên định hướng cơ cấu vốn đầu tư
trên từng lĩnh vực chưa chuyển biến nhanh theo hướng tích cực và có
hiệu quả cao. Từ những vấn đề nêu trên cần tìm ra giải pháp về vốn đầu
tư nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển của ngành thủy sản trong thời
gian tới, giúp cho ngành thủy sản phát huy các tiềm năng lợi thế của
mình để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, góp phần quan trọng vào việc
hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là vốn đầu tư cho
phát triển NTTS, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn là “Giải
pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau”.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
- Làm rõ tiềm năng, lợi thế và thực trạng về NTTS ở tỉnh Cà Mau.
- Vạch rõ vai trò của vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn
nhân dân) đối với việc phát triển NTTS.
- Đánh giá thực trạng vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn
nhân dân) cho việc phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau.
- Đề xuất các giải pháp về vốn để thúc đẩy phát triển NTTS trong
thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Đối tượng nghiên cứu: là vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước,
vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân đối với sự phát triển thủy
sản ở tỉnh Cà Mau.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu vốn đầu tư của Ngân
sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh
vực NTTS. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp để tăng cường, phát huy hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và
vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh vực NTTS trên phạm vi toàn tỉnh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng

thời, sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, thống kê, phân tích,
tổng hợp, đồ thị, dự báo ... kết hợp với nghiên cứu chọn lọc những kiến
thức lý luận đã được đúc kết rút ra từ thực tiễn về tình hình triển khai
thực hiện vốn đầu tư đối với sự phát triển NTTS. Luận văn cũng sử
dụng các tài liệu, số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Thủy sản, sở Thủy
sản, sở Kế họach - Đầu tư, Cục thống kê, Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh và một số đơn vị liên quan về số liệu thống kê, các báo cáo quy
hoạch, báo cáo tổng kết, báo cáo tham luận về vốn đầu tư, về hoạt động
của ngành thủy sản, ...
5. Tình hình nghiên cứu:
Những giải pháp về vốn cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau là
vấn đề chưa được nêu ra trong các công trình nghiên cứu trước đây ở
tỉnh Cà Mau. Trong phần nghiên cứu nầy chúng tôi tập trung đề cập đến
các vấn đề cơ bản của hoạt động NTTS, nhất là vấn đề vốn đầu tư cho
phát triển NTTS trong thời qua và đề xuất các giải pháp cho thời gian
tới.
6. Những đóng góp mới:
- Hệ thống lại lý luận về vốn đầu tư cho phát triển NTTS.
- Đánh giá toàn diện thực trạng NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở
tỉnh Cà Mau.
- Đề xuất các giải pháp về vốn để phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau
trong những năm tới theo hướng CNH - HĐH.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3
chương:
CHƯƠNG 1: Tổng quan về NTTS và vốn để phát triển NTTS.
CHƯƠNG 2: Thực trạng về phát triển NTTS và vốn đầu tư cho
NTTS ở tỉnh Cà Mau.
CHƯƠNG 3: Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển NTTS ở

tỉnh Cà Mau .

X W


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản.
NTTS là hoạt động sản xuất dựa trên cơ sở kết hợp giữa tài nguyên
thiên nhiên sẵn có (mặt nước biển, nước sông ngòi, ao hồ, ruộng trũng,
sông cụt, đầm phá, khí hậu..) với hệ sinh vật sống dưới nước (chủ yếu
là cá, tôm, và thủy sản khác..) có sự tham gia trực tiếp của con người.
Hoạt động này ở Việt Nam bao gồm nuôi, trồng các loại thủy sản nước
ngọt, nước lợ và nước mặn. Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu hiện
nay là: tôm sú, tôm càng xanh, cá biển (cá song, cá hồng, cá cam, cá
vược, cá bớp, cá chẽm, cá măng…), cá nước ngọt (cá tra, cá ba sa, cá
chép, cá mè, rô phi, trê phi, trắm cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, cá
quả, sặc rằn, cá lóc…) các hình thức nuôi chủ yếu là:
- Nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp và bán công nghiệp,
quảng canh, quảng canh cải tiến.
- Nuôi cá biển trong lồng bè trên mặt nước biển, sông, đầm phá,
ven biển, sông cụt, chủ yếu là cá chẽm, cá mú, cá tra, cá ba sa, cá bống
tượng, cá trôi, cá cá chép, cá mè, ba ba, lươn, ếch...
- Nuôi tôm càng xanh.
- Nuôi nhuyễn thể: ngao, nghêu, sò huyết, ốc..
- Nuôi thủy sản ao hồ, đìa, hầm.
- Nuôi thủy sản trên ruộng trũng, ruộng lúa.

- Trồng rong biển, các đối tượng chủ yếu là rong câu chỉ vàng,
rong mơ, rong kỳ lân, rong cước và rong sụn.
*Chủ thể nuôi: các tổ chức (DN, HTX, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá
nhân.
Như vây, hoạt động NTTS rất đa dạng cả về phương thức nuôi, đối
tượng nuôi, mặt nước nuôi trên cơ sở tận dụng các loại diện tích đất,
mặt nước bỏ hoang, mặt nước biển, nước sông suối, dòng chảy, hồ thủy
lợi, thủy điện... hoặc diện tích đất có mặt nước đang sử dụng kém hiệu
quả trong nông nghiệp, lâm nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản.
NTTS có các đặc điểm như sau:
- NTTS là một ngành phát triển trên phạm vi cả nước và có đối
tượng phức tạp so với các ngành sản xuất khác. Tính chất rộng khắp
của ngành thủy sản thể hiện nghề NTTS phát triển ở khắp các vùng
trong nước từ đồng bằng, trung du, miền núi cho đến các vùng ven
biển, ở đâu có diện tích mặt nước là ở đó có thể phát triển nghề NTTS.
Song, mỗi vùng có điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết khác nhau nên
có sự khác nhau về đối tượng sản xuất, về quy trình kỹ thuật, về mùa vụ
sản xuất ... Do đó, trong công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của
ngành thủy sản cần lưu ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, chính sách giá cả, vốn đầu tư
cho phù hợp đối với từng khu vực, từng vùng lãnh thổ.
- Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước vừa là tư liệu sản xuất
chủ yếu vừa là tư liệu sản xuất đặt biệt không thể thay thế được. Nếu
không có đất đai, diện tích mặt nước thì không thể tiến hành NTTS
được. Đất đai không những là tư liệu sản xuất mà còn là tư liệu sản
xuất đặc biệt, khác với các tư liệu sản xuất khác. Do diện tích đất đai,
mặt nước có giới hạn, vị trí của chúng cố định, sức sản xuất của chúng
thì không giới hạn và nếu biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, diện
tích mặt nước không những không bị hao mòn đi mà còn tốt hơn (tức độ

phì nhiêu, độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước ngày một tăng);
mặt khác đất đai, diện tích mặt nước là tư liệu sản xuất không đồng
nhất về mặt chất lượng do cấu tạo thổ nhưỡng, địa hình, vị trí dẫn đến
độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước giữa các vùng thường là
khác nhau. Chính vì vậy, khi sử dụng đất đai, diện tích mặt nước phải
hết sức tiết kiệm, phải quản lý chặt chẽ đất đai diện tích mặt nước trên
cả 3 mặt: pháp chế, kinh tế và kỹ thuật.
- NTTS có tính thời vụ cao. Trong NTTS ngoài sự tác động trực
tiếp của con người, các đối tượng nuôi còn chịu sự tác động của môi
trường tự nhiên. Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ là quy luật sinh
trưởng và phát triển của các đối tượng nuôi trồng, những biểu hiện chủ
yếu của tính thời vụ trong NTTS là:
 Đối với mỗi đối tượng nuôi trồng, các giai đoạn sinh trưởng,
phát triển diễn ra trong các khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản
xuất nên đòi hỏi thời gian, hình thức và mức độ tác động trực tiếp của
con người tới chúng cũng khác nhau. Có thời gian đòi hỏi lao động
căng thẳng, có thời gian ít căng thẳng.
 Cùng một đối tượng NTTS nhưng ở những vùng có điều kiện
khí hậu, thời tiết khác nhau thường có mùa vụ sản xuất khác nhau.
 Các đối tượng NTTS khác nhau có mùa vụ sản xuất khác nhau.
Tính thời vụ trong NTTS có xu hướng dẫn tới tính thời vụ trong
việc sử dụng các yếu tố sản xuất nhất là sức lao động, công cụ lao động
và đất đai, diện tích mặt nước. Do điều kiện lao động thủ công, điều
kiện tự nhiên, thời tiết diễn biến bất thường, tính thời vụ trong NTTS
càng gây nên nhiều vấn đề phức tạp trong tổ chức quản lý sản xuất và
kinh doanh. Mặt khác, tính thời vụ trong NTTS còn ảnh hưởng và đòi
hỏi ngành thủy sản phải có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt việc thu
hoạch, tiêu thụ sản phẩm (bao gồm cả xác định giá bán theo mùa cho
phù hợp).
- Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là những cơ thể sống.

Chúng sinh trưởng, phát sinh, phát triển và phát dục theo các quy luật
sinh học. Do đó, trong quá trình sản xuất chúng luôn luôn đòi hỏi sự tác
động thích hợp của con người và tự nhiên để sinh trưởng và phát triển.
Vì thế, có hàng loạt các vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết để đạt năng
suất các đối tượng NTTS cao như: nâng cao chất lượng con giống, quản
lý chất lượng môi trường và xây dựng các quy trình sản xuất tiên tiến
cho năng suất cao.
- Một số sản phẩm thủy sản sản xuất ra được giữ lại làm giống để
tham gia vào quá trình tái sản xuất vụ sau. Trong NTTS một số sản
phẩm như: đàn cá thịt, tôm thịt được tuyển chọn làm cá bố mẹ hoặc tôm
bố mẹ để cho đẻ trong quy trình sản xuất tiếp theo. Do đó, trong quá
trình NTTS phải quan tâm đến việc sản xuất, nhân ra các loại giống tốt.
Đồng thời, ngành thủy sản phải quan tâm xây dựng một hệ thống giống
quốc gia, hệ thống giống cho từng vùng, từng khu vực.
Ngoài những đặc điểm trên, NTTS Việt Nam còn có những đặc
điểm riêng. Đó là:
 Ngành NTTS Việt Nam có từ lâu đời, song hiện tại vẫn trong
tình trạng của một nền sản xuất nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn là
thủ công.
Cơ cấu ngành thủy sản đang chuyển dịch theo yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Do đó, ngành NTTS phải
thấy hết những tồn tại khó khăn của nền sản suất nhỏ, đó là: cơ sở vật
chất kỹ thuật còn thấp, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và quản lý
của cán bộ, nông dân ở nhiều nơi, nhất là các vùng dân tộc, vùng sâu,
vùng xa còn quá yếu kém, tâm lý người sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu,
... để quản lý sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Phải nhận thức đúng tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở
hữu trong ngành NTTS, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và
thực hiện tốt những quy định của Nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế

trong NTTS.
 Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước phân bố không đều
giữa các vùng cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý NTTS. Đặc điểm
này đòi hỏi ngành NTTS phải có kế hoạch khai thác, sử dụng đầy đủ
các loại đất đai diện tích mặt nước hiện có; mặt khác phải tiến hành cân
đối lao động, bồi dưỡng và nâng cao trình độ lao động, đặc biệt ở các
vùng sâu, vùng xa.
 Nghề NTTS Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới
ẩm có pha trộn ít khí hậu vùng ôn đới.
Tài nguyên khí hậu, một mặt tạo ra nhiều thuận lợi cho ngành
NTTS: có thể nuôi trồng được nhiều đối tượng có nguồn gốc từ vùng
nhiệt đới và những đối tượng có nguồn gốc từ các vùng ôn đới, đồng
thời có thể nuôi được nhiều vụ trong một năm; mặt khác, khí hậu nước
ta cũng gây ra những khó khăn phức tạp cho ngành NTTS như: bão lụt,
gió mùa Đông Bắc, sương muối, các vùng ven biển sóng gió thủy triều,
sóng thần, ... Do đó, ngành thủy sản cần có những phương án đề phòng
để chinh phục và cải tạo thiên nhiên, đảm bảo năng suất sản lượng cao
và ổn định.
1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
Sự phát triển của hoạt động NTTS đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong cơ cấu kinh tế nói chung và nông, lâm nghiệp, thủy sản nói
riêng ở nước ta. Trong điều kiện nguồn lợi thủy sản ven bờ bị cạn kiệt,
khai thác thủy sản xa bờ có nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, chi phí
lớn, phương tiện hiện đại đầu tư lớn thì NTTS là hướng phát triển ổn
định và lâu dài đối với các nước có biển cũng như không có biển. Vai
trò của hoạt động NTTS đối với phát triển kinh tế - xã hội thể hiện trên
nhiều mặt: thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động nông thôn, nhất là vùng ven biển; tạo nguồn nguyên liệu quý
giá cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu; tạo việc làm tăng thu nhập
cho dân cư nhất là vùng nông thôn ven biển; bảo vệ môi trường sinh

thái; góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy hải sản tự nhiên trên sông, biển.
Nhận thức được vai trò đó, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và
đánh giá cao vai trò của NTTS trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất
nước trong mọi giai đoạn. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa
và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta; vai trò của thủy sản
nói chung và NTTS nói riêng càng được coi trọng. Chính phủ đã xây
dựng Chương trình phát triển NTTS từ năm 2000-2010 theo Quyết định
số 224/1999/QĐ/TTg ngày 08/12/1999, trong đó xác định mục tiêu
"Phát triển NTTS nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm và tạo
nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng
sản lượng NTTS đạt 2 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD;
tạo việc làm mới cho 2 triệu người; góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội đất nước và an ninh ven biển". Ngày 23/06/2004 Chính
phủ ra Quyết định số 122/2004/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương
trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010. Tiếp đến ngày
01/06/2005, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số: 126/2005/QĐ-Tg về
một số chính sách khuyến khích phát triển NTTS trên đảo, hải đảo.
Để thực hiện các Chương trình đó đòi hỏi có nhiều yếu tố: đất đai,
mặt nước, lao động, vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường
tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong đó vốn là yếu tố có tính quyết
định. Điều đó xuất phát từ đặc điểm, nội dung, mục tiêu của hoạt động
NTTS ở bất kỳ nước nào cũng như ở Việt Nam.
Thực tế những năm gần đây đã chứng minh các chính sách, chương
trình trên đây đã thúc đẩy việc tận dụng diện tích đất, mặt nước bỏ
hoang hoặc sử dụng kém hiệu quả trước đây vào NTTS đã đem lại lợi
ích cho người nơng dân khá rõ nét. Năm 2006 diện tích NTTS đạt 984,4
nghìn ha, tăng 32,8 nghìn ha so với năm 2005, so với năm 2000 tăng
342,5 nghìn ha. Hai vùng chuyển đổi nhiều là ĐBSCL và ĐBSH với
hình thức chuyển diện tích đất trồng lúa ven biển năng suất thấp và
khơng ổn định sang ni tơm đạt hiệu quả cao hơn. Sản lượng thủy sản

ni trồng tăng từ 1.003,1 nghìn tấn năm 2003, lên 1.202,5 nghìn tấn
năm 2004, lên 1.478 nghìn tấn năm 2005 và 1.694,2 nghìn tấn năm
2006. Trong q trình phát triển, nhiều mơ hình ni thủy sản năng suất
cao, hiệu quả đã xuất hiện như ni tơm sú cơng nghiệp, ni cá lồng,
cá bè, cá ruộng,... Tuy còn khơng ít khó khăn và bất cập nhưng đánh
giá tổng qt, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất như trên về cơ bản là tích
cực, đúng hướng, có tác dụng nhiều mặt cả về kinh tế - xã hội và mơi
trường. Tác dụng của hoạt động NTTS những năm qua đã được thể hiện
rõ trên các mặt sau:
- Góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh bằng việc thu
hút ngoại lực thơng qua xuất khẩu thủy sản
. Nhờ NTTS tăng nhanh nên
sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng với tốc độ
nhanh theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Năm 1980 kim ngạch
xuất khẩu thủy sản cả nước mới đạt 11 triệu USD, và 20 năm sau, năm
2000 cũng chỉ đạt 1 tỷ USD. Vậy mà năm 2005 đã đạt 2,5 tỷ USD và
năm 2006 đạt trên 3 tỷ USD.
Nguồn ngoại tệ do xuất khẩu thủy sản đem lại đã và đang góp phần
tích cực vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, tăng ngân sách
quốc gia và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay,
nhiều mặt hàng thủy sản ni trồng của Việt Nam đã có mặt trên thị
trường các nước và khu vực, kể cả các thị trường khó tính như EU, Bắc
Mỹ, Nhật Bản.
- Tạo chỗ làm mới cho lao động nơng thơn, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đa ngành, đa sản phẩm, xóa dần
thế độc canh trong nơng nghiệp, nơng thơn. Theo Bộ Thủy sản, hiện
nay cả nước có trên 4 triệu lao động tham gia trực tiếp sản xuất và dịch
vụ trong 3 lĩnh vực chính: khai thác, ni trồng và chế biến thủy sản.
Trong số này có trên 50% là lao động NTTS và mỗi năm tăng thêm
khoảng 250 nghìn người. Sau bão Chăn Chu, do một số tàu thuyền mất

mát và hư hỏng, giá xăng dầu tăng cao nên hoạt động khai thác chững
lại, số lao động dư thừa tăng, một số chuyển sang nuôi trồng, càng làm
tăng số lao động NTTS. Theo Tổng cục Thống kê, số lao động trực tiếp
tham gia các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản năm 2006 có
1.555,8 nghìn người (tăng 566,9 nghìn người so năm 2000), trong đó
trên 80% là lao động NTTS. Số lao động làm dịch vụ thủy sản và nông
nghiệp kiêm NTTS lên đến trên 3 triệu người. Ngay cả các vùng thuần
nông nội đồng không có biển, lao động NTTS nội địa cũng ngày càng
tăng, tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập cho hộ nông dân.
- Nâng cao thu nhập một cách đồng bộ và khá vững chắc cho hộ
nông thôn, nhất là hộ nông dân. Do thị trường và giá cả thủy sản tương
đối cao và ổn định nên hoạt động NTTS đã và đang góp phần tích cực
tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Những địa phương
NTTS phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, thu nhập của các
hộ nuôi thủy sản quy mô lớn tăng khá nhanh và ổn định. Năm 2006 cả
nước có 34.202 trang trại NTTS, trong đó riêng ĐBSCL có 25.147 trang
trại. Do sản xuất phát triển, thu nhập khá ổn định nên số lượng trang
trại tăng nhanh từ 5.031 trang trại năm 2001, thì đến năm 2006 đã tăng
lên 6,8 lần. Bình quân 1 trang trại NTTS có 5,15 lao động, 3,53 ha diện
tích đất mặt nước, 140 triệu đồng vốn đầu tư, 120 triệu đồng tổng thu,
40 triệu đồng thu nhập và 115 triệu đồng giá trị sản lượng hàng hóa,
cao gấp nhiều lần kinh tế hộ nông nghiệp thuần trên cùng địa bàn nông
thôn (2001). Tốc độ tăng thu nhập của trang trại NTTS bình quân hàng
năm trên 20 % so với tốc độ tăng từ 5 đến 6% trong khu vực nông
nghiệp.
- NTTS hợp lý góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Hoạt động
khai thác thủy sản ven bờ biển, trên sông theo phương thức khai thác
trắng bằng các công cụ lưới quét, cào và các hình thức khác đã làm cạn
kiệt nguồn thủy sản, đồng thời gây ô nhiễm môi trường nước, đất và
không khí. Do vậy, NTTS hợp lý đã góp phần khắc phục được tình

trạng đó. Trong phong trào phát triển NTTS ở các địa phương những
năm qua đã hình thành các mô hình tạo cân bằng sinh thái cây trồng vật
nuôi đạt hiệu quả cả về kinh tế và môi trường. Đó là mô hình VAC, mô
hình nuôi tôm sinh thái, mô hình tôm - lúa, lúa - cá ở ĐBSCL, nuôi tôm
công nghiệp, bán thâm canh. Tuy nhiên, hiện nay cũng đang tồn tại một
số hình thức NTTS tự phát, gây ô nhiễm môi trường sinh thái dẫn đến
tình trạng tôm chết hàng loạt và ô nhiễm môi trường đất, nguồn nước,
rừng ngập mặn. Đó là những mặt trái của chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ
đất lúa năng suất thấp sang NTTS ở một số địa phương cần khắc phục.
- NTTS tạo thêm các nhân tố mới thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn, cơ cấu GDP khu vực I.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn đã diễn ra trên phạm vi
cả nước, nhất là các vùng nông thôn ven đô thị, ven các khu công
nghiệp và các vùng có nhiều ngành nghề truyền thống, vùng sản xuất
nông sản hàng hóa tập trung.
Thực tế là sau khi có Nghị quyết 09 của Chính phủ, phong trào
chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang nuôi tôm ở các tỉnh ven
biển đã phát triển mạnh, nhất là vùng bán đảo Cà Mau và duyên hải
Nam Trung Bộ. Năm 2001, cả nước đã chuyển trên 174 nghìn ha đất lúa
vùng ven biển sản xuất bấp bênh, năng suất và hiệu quả thấp sang
NTTS, chủ yếu là nuôi tôm quảng canh có lợi hơn. Các vùng và địa
phương chuyển đổi nhiều và nhanh là vùng bán đảo Cà Mau (Cà Mau
chuyển trên 100 nghìn ha, Bạc Liêu chuyển 34 nghìn ha, Sóc Trăng
chuyển 25 nghìn ha...), Duyên hải Nam Trung bộ chuyển 9 nghìn ha.
Trong 2 năm 2002 và 2003 xu hướng trên vẫn tiếp tục: vụ lúa đông
xuân 2002 diện tích gieo cấy giảm 24,2 nghìn ha (-0,8%) so với vụ
đông xuân 2001, vụ đông xuân 2003, diện tích lúa tiếp tục giảm 10,2
nghìn ha (vùng ĐBSCL giảm 14,9 nghìn ha, vùng Đông Nam Bộ giảm
1.600 ha, vùng ĐBSH giảm 5.000 ha) so với cùng kỳ năm 2002, chủ

yếu chuyển sang nuôi tôm và cá. Năm 2003, xu hướng chuyển đất lúa
vùng ven biển năng suất thấp sang nuôi tôm, cá vẫn còn diễn ra sôi
động, nhất là vùng bán đảo Cà Mau, nhiều nhất là Kiên Giang (tăng
41%), Sóc Trăng (tăng 38%) Bến Tre, Tiền Giang... Phong trào chuyển
đất lúa năng suất thấp sang NTTS còn phát triển cả những vùng đất
trũng, nội đồng xa biển theo các hình thức và quy mô khác nhau: nuôi
cá ruộng, cá bè, cá lồng, chuyển từ ruộng 2, 3 vụ lúa trước đây sang 1
vụ cá, 1 vụ lúa có hiệu quả cao hơn... ; cả ở các tỉnh miền núi theo hình
thức nuôi cá ruộng như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang; vùng ven các
thành phố, thị xã cũng như vùng nông thôn thuần nông vùng ĐBSCL
cũng phát triển các hình thức NTTS đa dạng phục vụ tiêu dùng và xuất
khẩu như nuôi ba ba, ốc, cua lột. Tại một số nơi ở các tỉnh ĐBSCL
những năm gần đây có nhiều hộ nông dân tuy nghèo nhưng cũng mạnh
dạn bỏ vốn đầu tư nuôi cua lột, thu lãi 5-10 triệu đồng/vụ là bình
thường, trong đó có người đã trở thành ông chủ, bà chủ đầu tư hàng
chục ao nuôi cua lột xuất khẩu. Những kết quả đó đã góp phần tận dụng
đất đai, mặt nước và lao động nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực I nói chung và thủy sản nói riêng
những năm gần đây (xem biểu 1.1).

Biểu 1.1
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG NỘI BỘ
3 NGÀNH TRONG KHU VỰC I, THỜI KỲ 1996-2006.
(Tính theo giá trị sản xuất, giá hiện hành)
Đơn vị tính:%
1996 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nông, lâm,
thủy sản
100 100 100 100 100 100 100 100
Chia ra:


1. Nông nghiệp 80,67 79,06 76,41 76,90 73,52 76,78 75,90 70,62
1.1. Trồng trọt 62,85 61,86 59,52 58,98 55,11 61,51 59,00 51,90
1.2. Chăn nuôi 15,53 15,28 14,97 16,20 16,64 13,53 15,00 17,44
1.3. Dịch vụ 2,29 1,92 1,92 1,72 1,77 1,74 1,90 1,28
2. Lâm nghiệp 5,23 4,75 4,69 4,27 4,32 3,60 3,70 3,56
2.1.Trồng rừng 0,94 0,69 0,62 0,59 0,60 0,50 0,50 0,51
2.2.Khai thác 4,10 3,88 3,88 3,48 3,53 3,00 3,10 2,85
2.3. Dịch vụ 0,19 0,17 0,19 0,20 0,20 0,10 0,10 0,20
3. Thủy sản 14,00 16,00 18,90 18,83 22,15 19.70 22,40 25,82
3.1. Khai thác 9,50 9,00 9,89 8,15 9,60 8,73 9,80 8,81
3.2.Nuôi trồng 4,50 7,00 9,01 10,68 12,55 10,89 12,60 17,01
(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, trang 215- 312, NXB Thống kê)
Sự khởi sắc về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của các vùng,
các địa phương tuy có khác nhau nhưng đều có mục đích chung là giảm
số lượng và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ trọng
lao động phi nông nghiệp từ đó tăng năng suất lao động, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các hộ nông thôn. Đến nay,
cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp với tốc độ từ 1 đến 1,5%/năm. Nếu năm 1994, cơ cấu
kinh tế nông thôn cả nước 71% là nông nghiệp và 29% là công nghiệp
và dịch vụ thì đến năm 2001, 2 tỷ lệ tương ứng là 62% và 38%. Tỷ
trọng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống 70% và lao động phi
nông nghiệp tăng từ 20% lên 30% trong thời gian tương ứng.
Kết quả trên do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là tác
động tích cực của các chính sách kinh tế - tài chính ban hành trong
những năm qua đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
khu vực I. Một số chính sách tiêu biểu là: Nghị quyết 06-NQ/TW ngày
10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp
và nông thôn; Nghị quyết 09/NQ/CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nghị
quyết 03-NQ/CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.
Trên cơ sở các Nghị quyết đó, các Bộ ngành chức năng đã cụ thể hóa
bằng các thông tư và giải pháp để thực hiện, trong đó đáng chú ý là
Thông tư số 82/2000/TT/BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chính sách
tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại. Quyết định số
423/2000/QĐ-NHNN ngày 22/09/2000 của Ngân hàng Nhà nước về
chính sách tín dụng đối với kinh tế trang trại. Quyết định số
224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chương trình phát triển NTTS thời kỳ 2000 - 2010. Các chính
sách Kinh tế - Tài chính tác động trực tiếp đến quy mô và tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực I là: tăng mức đầu tư cho sản
xuất nông nghiệp, nhất là thủy lợi, khoa học công nghệ, hỗ trợ lãi suất
tín dụng đối với các dự án nông nghiệp, thủy sản khó thu hồi vốn
nhanh, mua tạm trữ xuất khẩu, nuôi thủy sản giống, cho phép các hộ
nông dân chuyển đất lúa vùng ven biển, lúa 1 vụ mùa năng suất bấp
bênh sang NTTS hoặc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi hơn.
Đổi mới chính sách thuế từ thuế nông nghiệp sang thuế sử dụng đất
nông nghiệp, mở rộng diện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đối
với toàn bộ các quỹ đất trong hạn điền... qua đó góp phần giảm mức
đóng góp của hộ nông dân và tăng sức mua ở nông thôn. Các chính sách
khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản kết hợp với
chính sách thị trường đã góp phần giải quyết đầu ra cho nông nghiệp và
thủy sản. Đặc biệt, chính sách đầu tư cho chương trình đánh bắt hải sản
xa bờ thực hiện từ năm 1997 đã giúp ngư dân vùng ven biển có điều
kiện đóng mới và cải hoán tàu thuyền và ngư cụ để phát triển mạnh
nghề khai thác hải sản xa bờ, tìm các ngư trường mới. Sự tăng nhanh tỷ
trọng ngành thủy sản trong cơ cấu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm
khu vực I những năm qua là kết quả tổng hợp của nhiều chính sách và
giải pháp kinh tế - tài chính từ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản xa bờ đến

chế biến và xuất khẩu thủy sản. Do vậy, nét nổi bật trong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong khu vực I những năm qua là sự gia tăng nhanh
chóng tỷ trọng ngành thủy sản dưới tác động tích cực của cơ chế, chính
sách và giải pháp kinh tế - tài chính, trong đó có các giải pháp vốn. Dù
chương trình đánh bắt thủy sản xa bờ còn nhiều bất cập, xu hướng
chuyển đất lúa sang NTTS còn tự phát nhưng kết quả và tiến bộ của
ngành này trong những năm đổi mới là điều cần khẳng định. Với kết
quả này, 2 ngành nông nghiệp và thủy sản đã hoàn thành vượt mức kế
hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế do Đại hội IX đề ra cho năm 2005.
- Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nội bộ ngành thủy sản.
Trong giai đọan từ 1999 - 2006 ngành thủy sản, chủ yếu là nuôi
trồng đã đạt được những kết quả và tiến bộ trong phát triển và chuyển
dịch cơ cấu sản xuất. Đây là thời kỳ có tính chất bước ngoặc đối với
ngành thủy sản Việt Nam.
Với phương châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến
xuất khẩu, trong đó trọng tâm là phát triển mạnh NTTS ở những vùng
có điều kiện và các vùng mới chuyển đổi đất lúa trước đây, ngành thủy
sản đã tăng chất lượng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên
môi trường. Thực hiện phương châm đó, một mặt Nhà nước khuyến
khích các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh
nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho
ngành thủy sản, nhất là thực hiện chương trình đánh bắt thủy hải sản xa
bờ và NTTS ven biển, trên sông, hồ. Những kết quả đạt được trong thời
kỳ này vượt xa các thời kỳ trước đó cả về quy mô, tốc độ phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế (xem biểu 1.2).
Biểu 1.2:
KẾT QUẢ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG NGÀNH THỦY SẢN NHỮNG NĂM 1996-2006.
Đơn vị tính: %


1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cơ cấu giá trị SX
thủy sản

Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100
Khai thác thủy sản 64,6 55,7 47,7 42,7 39,9 40,5 39,8 34,1
NTTS 35,4 44,3 52,3 57,3 60,1 59,5 59,2 65,9
Cơ cấu Sản
Lượng Thủy sản

Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100
Khai thác thủy sản 76,6 73,6 70,8 68,1 64,9 61,8 57,4 54,2
NTTS 23,4 26,4 29,2 31,9 35,1 38,2 42,6 45,8
(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, trang 215 -315, NXB Thống kê)
Nét nổi bật trong kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành
thủy sản 6 năm 1999-2006 là tỷ trọng thủy sản đánh bắt giảm nhanh, tỷ
trọng thủy sản nuôi trồng tăng nhanh cả về giá trị sản xuất và sản lượng
thủy sản nhưng cả 2 lĩnh vực đều tăng trưởng với nhịp độ năm sau cao
hơn năm trước, với tốc độ khác nhau. Tốc độ tăng bình quân hàng năm
về giá trị sản xuất của khai thác thủy sản là 4%, trong khi đó của NTTS
là 28,7%. Tương tự như vậy với tốc độ tăng về sản lượng thủy sản là
4,75% và 18,9%. Nguyên nhân của những tiến bộ đó là do: trong những
năm đổi mới, nhất là trong thời gian gần đây, Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách và giải pháp kinh tế - tài chính để hỗ trợ tích cực các
hoạt động NTTS. Bắt đầu từ năm 2000 hoạt động NTTS đã có bước đột
phá rất quan trọng. So với năm 1999 diện tích NTTS năm 2000 tăng
22,1%, sản lượng NTTS tăng 22,6%. Nghề NTTS tiếp tục phát triển
mạnh theo hướng tăng sản, ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai
tạo giống đi đôi với công nghiệp hóa sản xuất thức ăn. Đối tượng NTTS
là các hộ nông thôn vùng ven biển, ven các hồ nước lớn, ven sông và

vùng ĐBSCL (cá ruộng, cá bè, cá lồng, cá hầm...). Do đó, tốc độ tăng
diện tích NTTS hàng năm 6-7% và sản lượng thủy sản tăng hàng năm
gần 20% là có cơ sở. Các hình thức nuôi cá lồng, bè phát triển mạnh
với quy mô lớn theo mô hình gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu
thủy sản.
Ngoài tôm, cá là chủ yếu, nhiều vùng còn mở rộng nuôi các loại
thủy sản khác có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu cao như nghêu (Trà
Vinh, Bến Tre), sò huyết (Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Duyên hải
miền Trung), ba ba, ếch... NTTS được Nhà nước tập trung đầu tư trong
thời kỳ này. Nghề NTTS tiếp tục phát triển theo chiều sâu, hầu như đã
chuyển hướng sang nuôi tăng sản, đối tượng nuôi có chọn lọc, hình
thức nuôi chuyển dần sang nuôi quảng canh cải tiến và thâm canh. Đặc
biệt các tỉnh ven biển và đồng bằng Nam Bộ phát triển mạnh, hướng
chuyển dần sang nuôi thủy sản nước lợ và nước mặn. Kết quả là sản
lượng thủy sản nuôi trồng tăng nhanh cả về tốc độ và chủng loại sản
phẩm.
Năm 2000 sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 589,6 nghìn tấn, tăng
22,6% so năm 1999; năm 2001 đạt 709,9 nghìn tấn, tăng 20% so năm
2000; năm 2002 đạt 844,8 nghìn tấn, tăng 19% so năm 2001; năm 2003
đạt 1003,1 nghìn tấn, tăng 18,7% so năm 2002; năm 2004 đạt 1202,5
nghìn tấn, tăng 19,9% so năm 2003 và năm 2005 đạt 1.478,0 nghìn tấn,
tăng 22,9% so năm 2004 và năm 2006 đạt 1694,2 nghìn tấn, tăng 14,6%
so năm 2005 và tăng gấp 2,39 lần so với năm 2001. Đó là những tốc độ
tăng trưởng cao, chưa từng có trong hoạt động NTTS từ trước đến nay,
vượt xa tốc độ khai thác thủy sản và tạo đà cho việc chuyển dịch cơ cấu
sản xuất trong ngành này theo hướng bền vững.
Từ khi chuyển thành ngành kinh tế cấp I (1993). Tính chung, từ
năm 1993 đến năm 2006 ngành thủy sản đã đạt được kết quả khả quan:
Tốc độ phát triển giá trị sản lượng thủy sản tăng 231,3%, tốc độ tăng
trưởng bình quân của cả thời kỳ là 9,7%. Sản lượng thủy sản khai thác

tăng 161,8%; sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 289,2% trong đó sản
lượng tôm tăng 438%. Giá trị thủy sản xuất khẩu gấp 11 lần so với năm
1990 làm cho thủy sản trở thành một trong những ngành mũi nhọn để
tăng kim ngạch xuất khẩu, mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước - đứng
vị trí thứ 4 sau ngành dầu khí, dệt may và giày dép. Những thành tựu đó
thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ 2000-2006 (xem biểu 1.3).
Biểu 1.3:
MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
CỦA THỦY SẢN TRONG THỜI KỲ 2000-2006
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
2004 2005 2006
Sản lượng thủy
sản (nghìn tấn)
2.250,5 2.434,7 2.647,4 2.859,2 3.142,5 3.465,9 3.695,9
SL đánh bắt
(nghìn tấn)
1.660,9 1.724,8 1802,6 1.856,1 1.940,0 1.987,9 2.001,7
SL nuôi trồng
(nghìn tấn)
589,6 709,9 844,8 1.003,1 1.202,5 1.478,0 1.694,2
Diện tích nuôi
trồng (nghìn ha)
641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 952,6 984,4
Thu nhập ngoại
tệ (triệu USD)
1.478,5 1.816,4 2.021,7 2.199,6 2.408,1 2.732,5 3.358,1
(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, trang 306-435, NXB Thống kê).
Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng
chuyển một phần đất lúa ven biển năng suất và hiệu quả thấp sang
NTTS theo Quyết định 09 của Chính phủ, từ năm 2001-2006 sản xuất

thủy sản nói chung, NTTS nói riêng đã có bước phát triển và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hóa rõ nét hơn. Nét mới trong sản
xuất thủy sản 6 năm qua là cơ cấu sản phẩm đã có bước chuyển đổi tích
cực. Tỷ trọng sản lượng thủy sản nuôi trồng trong sản lượng thủy sản
tăng từ 29,20% năm 2001, lên 31,91% năm 2002, lên 35,08% năm
2003, lên 38,24% năm 2004, lên 43,64% năm 2005 và 45,84% năm
2006. Tỷ trọng sản lượng thủy sản đánh bắt giảm từ 70,80%, xuống
68,09%, xuống 64,92%; xuống 61,76%, xuống 57,36% và 54,16% trong
thời gian tương ứng. Tính đến năm 2006, cả nước có 988,4 nghìn ha
diện tích đất có mặt nước NTTS các loại, trong đó có 679,2 nghìn ha
mặt nước mặn, lợ và 505,2 nghìn ha mặt nước ngọt. Số hộ NTTS lên tới
2 triệu hộ, trong đó có 1,6 triệu hộ nuôi cá, gần 400 nghìn hộ nuôi tôm.
Số hộ NTTS phân theo loại nước như sau, trên 1,6 triệu hộ nuôi thủy
sản nước ngọt, gần 300 nghìn hộ nuôi thủy sản nước mặn và lợ. Số hộ
nuôi thủy sản trong ruộng nước theo hình thức xen canh lên đến trên
220 nghìn hộ. Số trang trại NTTS năm 2006 là 34.202 trang trại (năm
2005 có 35.648 trang trại), tăng gấp hơn 2 lần năm 2001 (17.016 trang
trại). Số lượng trang trại nhiều nhất là ĐBSCL có 25.147 trang trại,
Đông Nam Bộ có 1.338 trang trại; duyên hải Nam Trung Bộ có 2.323
trang trại, Bắc Trung Bộ có 1.233 trang trại, ĐBSH có 1.072 trang trại,
đông Bắc có 1.019 trang trại và ít nhất là Tây Bắc chỉ có 36 trang trại.
Kết quả đó cho thấy chủ trương đổi mới cơ cấu sản xuất trong
ngành thủy sản đã chuyển từ khai thác nguồn lợi sẵn có của thiên nhiên
sang NTTS trên cơ sở khai thác, sử dụng các tiềm năng và thế mạnh về
diện tích mặt nước và nguồn lao động hiện có, để phát triển sản xuất,
phù hợp với yêu cầu bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Hoạt động NTTS trong 6 năm qua, có nhiều khởi sắc đáng ghi
nhận: quy mô diện tích tiếp tục mở rộng, cơ cấu sản xuất chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng tôm, giảm tỷ trọng cá cả về diện tích và sản
lượng. Do vậy, cơ cấu sản phẩm cũng có bước chuyển từ thủy sản khác

và cá sang tôm (xem biểu 1.4).
Biểu 1.4:
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN THỜI KỲ 1999-2005.
Đơn vị tính: %
Cơ cấu diện tích NTTS Cơ cấu sản lượng NTTS

Tổng số Tôm
Cá và
TS khác
Tổng số Tôm
Cá và
TS khác
1999 100 47,70 52,30 100 11,95 88,05
2000 100 53,05 46,95 100 15,85 84,15
2001 100 63,12 36,88 100 21,82 78,18
2002 100 64,71 35,29 100 22,04 77,96
2003 100 66,90 33,10 100 23,72 76,28
2004 100 65,69 34,31 100 23,43 76,57
2005 100 55,97 44,03 100 22,14 77,86
2006 100 54,49 45,51 100 20,93 79,07
(Nguồn: Số tính toán theo Niên giám TK các năm tương ứng)
Tỷ trọng tôm tăng từ 47,70% về diện tích và 11,95% về sản lượng
thủy sản nuôi năm 1999 lên 55,49% và 20,93% năm 2006, về 2 chỉ tiêu
tương ứng. Đã đánh dấu bước phát triển và chuyển dịch cơ cấu NTTS
theo hướng hàng hóa gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong
thời gian đó, tỷ trọng cá nuôi và các loại thủy sản nuôi trồng khác có
giảm từ 52,30% xuống 45,51% về diện tích và 88,05% xuống 79,07%
về sản lượng nhưng lượng tuyệt đối vẫn tăng. Xu hướng này cho thấy
chủng loại thủy sản nuôi trồng ngày càng đa dạng (cá, tôm, sò huyết,

nghêu, ốc, trai các loại) chất lượng thủy sản nuôi trồng đã cao hơn vì
giá trị kinh tế của tôm cao hơn nhiều so với cá và các loại thủy sản
khác. Giữa tôm và cá, tỷ trọng tôm có xu hướng tăng nhanh hơn cá do
tốc độ tăng sản lượng tôm nuôi bình quân/năm đạt 18,5% trong khi đó
cá chỉ có 15,8%, do thị trường và giá cả tôm ổn định, nuôi tôm hiệu quả
cao hơn. Trong hoạt động nuôi tôm những năm 1999-2006, một nét mới
tiến bộ là phong trào nuôi tôm theo phương pháp công nghiệp và bán
thâm canh phát triển mạnh, nhất là ở các tỉnh phía Nam. Riêng 2 tỉnh
Bạc Liêu và Sóc Trăng năm 2006 có diện tích nuôi tôm công nghiệp và
bán thâm canh tăng gấp 3 lần năm 2002. Mô hình nuôi cá, tôm trên
ruộng phổ biến là theo công thức 1 vụ lúa, 1 vụ cá hoặc tôm. Phong
trào nuôi cá lồng bè tuy chi phí cao và có khó khăn do ảnh hưởng tiêu
cực của vụ kiện cá tra, cá ba sa ở Mỹ nhưng kết quả đạt được trong
những năm gần đây vẫn khả quan. Số lồng bè và sản lượng cá lồng bè
hàng năm vẫn tăng đều, nhất là ở tỉnh An Giang. Phong trào nuôi cá
ruộng phát triển mạnh không chỉ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà
còn ở các tỉnh khác với nhiều hình thức và quy mô khác nhau.
Sản xuất thủy sản nuôi trồng phát triển toàn diện, đa dạng hóa hình
thức và sản phẩm và tăng trưởng khá đã góp phần quan trọng đối với
xuất khẩu thủy sản trên cả 2 mặt: tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu
sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản những năm
gần đây tăng trung bình 10,7%/năm. Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất
khẩu cũng có bước chuyển dịch tích cực, trong đó rõ nét nhất là tỷ
trọng thủy sản nuôi trồng ngày càng tăng cả về số lượng và giá trị. Bên
cạnh các mặt hàng truyền thống như thủy sản đông lạnh, đã phát triển
nhiều mặt hàng xuất khẩu thủy sản chế biến chất lượng cao phù hợp với
yêu cầu thị trường. Mặt hàng tôm có xu hướng tăng cao và sản phẩm
xuất khẩu đa dạng nên những năm qua đã xuất khẩu sang các thị trường
khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu tôm

×