Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

SKKN Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.76 KB, 53 trang )

PHÒNG GD&ĐT QUẬN ĐỐNG ĐA
TRƯỜNG THCS BẾ VĂN ĐÀN
Sáng kiến kinh nghiệm
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY PHÂN MÔN HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS
Giáo viên : PHẠM THỊ MINH KHUÊ
Tổ : Văn thể
Trường : THCS Bế Văn Đàn
Năm học 2011 – 2012
MỤC LỤC
Trang
I-ĐẶT VẤN ĐÊ: 2
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 5
5. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 5
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 6
1. THỰC TRẠNG DẠY PHÂN MÔN HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS
1.1.Tầm quan trọng đối với học sinh ở trường THCS:…………………….6
1.2. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học………………………………………….8
1.3 Đội ngũ giáo viên âm nhạc…………………………………………… 8
1.4 Khả năng tiếp thu ca hát của học sinh……………………………… 10
1.5 Phương pháp và kết quả dạy hát…………………………………… 11
1.5.1. Thực hiện chương trình dạy hát……………………………… 13
1.5.2. Sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy…………………………… 16
1.5.3. Phương pháp dạy hát………………………………………… 16
1.6.Quan điểm của các cấp lãnh đạo về phân môn Âm nhạc………… 20
1.6.1. Sở, Phòng giáo dục, Ban giám hiệu…………………………… 20


1.6.2. Ban giám hiệu…………………………………………………….20
1.6.3. Kết quả dạy hát trong những năm gần đây…………………… 21
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY PHÂN MÔN
HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS……………………………………………….23
2.1.Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý giáo viên âm nhạc………….23
2.2. Nâng cao chất lượng giáo viên giảng dạy âm nhạc………………… 24
2.3. Những phương pháp đổi mới trong dạy học (tác giả sáng tạo)…… 25
2.4. Giới thiệu giáo án mẫu……………………………………………… 32
III. KẾT LUẬN……………………………………………………………… 37
IV. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT………………………………………………… 38

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài:
Trong thời kỳ đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế- văn hoá- chính trị và xã
hội hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề Giáo dục con người phát
triển toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ.
Giáo dục đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của sản
xuất mà sản phẩm chính là nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự phát triển
kinh tế khoa học công nghệ, văn hoá…vv. Đại hội VIII của Đảng ta khẳng định:
“Phát triển giáo dục và khoa học là quốc sách hàng đầu nhằm xây dựng chiến lược
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước
phát triển nhanh chóng và bền vững, mau chóng sánh vai được với các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới” từ ý nghĩa và tầm quan trọng ấy mà đòi hỏi
ngành giáo dục phải đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo,
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo một cách toàn diện có hiệu quả cao, thiết thực.
Đặc biệt là hệ thống giáo dục phổ thông, một bậc học vô cùng quan trọng. Đây là
bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ ViệtNam. Một trong
những môn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho học sinh đó là môn âm nhạc. Âm nhạc là loại hình nghệ
thuật quan trọng, gắn bó với cuộc sống thường ngày của mỗi con người, phản ánh

cuộc sống bằng các hình tượng âm thanh cho con người từ lúc sinh ra cho đến hết
cuộc đời.
Bởi vậy những cá nhân tập thể và các cơ quan chức năng cần có những biện pháp,
trách nhiệm hướng dẫn cho tuổi trẻ thưởng thức âm nhạc, hiểu âm nhạc một cách
có hiệu quả cao nhất, thiết thực nhất.
Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường THCS là vô cùng quan trọng, bởi
đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức lối
sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh, khích lệ các em có khả năng phát triển
toàn diện để sau này trở thành những con người “Vừa hồng vừa chuyên” xây dựng
đất nước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của nước ta
Là một giáo viên dạy tại trường THCS, trực tiếp giảng dạy bộ môn âm nhạc thông
qua các phân môn: Dạy hát, nghe nhạc, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức, chính
vì vậy phải có tinh thần trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn giỏi, có tâm hồn
và lối sống trong sáng lành mạnh, có tình thương yêu học sinh để hướng các em
vào học môn âm nhạc có hiệu quả cao nhất.
Với điều kiện hiện nay vừa là chủ quan vừa là khách quan, các phương tiện và cơ
sở vật chất dành cho giảng dạy âm nhạc còn gặp nhiều khó khăn. Cho nên nhìn
chung hiệu quả giáo dục môn âm nhạc, trong đó có phân môn học hát còn hạn chế.
Qua học tập và thực tiễn trong công tác giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS .
Tôi đã có những kết quả nghiên cứu để góp một phần nhỏ cho sự nghiệp chung và
có những bổ ích thiết thực cho bản thân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng
dạy phân môn học hát cho học sinh trường THCS nói chung và trường THCS nơi
tôi giảng dạy nói riêng nhằm góp phần tích cực cho ngành giáo dục đào tạo nơi có
nhiệm vụ cao cả là: “ Nâng cao trí tuệ, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước” đó chính là đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày một cao hơn của ngành
giáo dục đào tạo từ trung ương, tỉnh và huyện đã luôn luôn quan tâm, trực tiếp chỉ
đạo, hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy môn âm nhạc ở các cấp học phổ thông
đúng quy định, khoa học và thiết thực. Ở bậc học sinh THCS học đủ 13 môn,
riêng học sinh khối lớp 6 học 12 môn trong đó có cả môn âm nhạc. Ngoài nhiệm
vụ cung cấp kiến thức, phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đối

với đội ngũ giáo viên phổ thông nói chung giáo viên âm nhạc noí riêng có khả
năng đáp ứng được yêu cầu của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn cách mạng
mới đó là: Cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng về nghệ thuật âm nhạc và
trước hết là ca hát cho học sinh. Riêng ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy môn
âm nhạc, tôi vẫn thực hiện 3 phân môn: Học hát, Nhạc lý-tập đọc nhạc và âm nhạc
thường thức có hiệu quả cao được học sinh yêu thích âm nhạc, tập trung tiếp thu
bài giảng có hiệu quả tốt đẹp. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn âm nhạc ở
trường THCS một yêu cầu được đặt ra cho bản thân tự rèn luyện phấn đấu, đó là
làm thế nào để dạy tốt quả là không đơn giản. Bởi vậy tôi luôn cố gắng vươn lên để
học tập nghiệp vụ, lý luận về chuyên môn thật giỏi. Gắn lý luận với thực tiễn, bám
sát đường lối chủ trương của đảng nhà nước về đường lối văn hoá văn nghệ của
đảng, nắm vững yêu cầu và sự đòi hỏi của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn
hiện nay cũng như qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã chọn và nghiên cứu với tên đề
tài:
“Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học
hát tại trường THCS”
2 . Mục đích nghiên cứu:
Trong thời kỳ đổi mới và phát triển ca hát luôn là món ăn tinh thần cho con người
cũng như trong chương trình giáo dục ở các cấp học .Đối với các cấp tiểu học,
THCS thì đây là kiến thức ban đầu giúp cho học sinh học và biết ca hát theo một
quy định chung nhất. Nhưng qua thực tế việc giảng dạy phân môn này ở trường
THCS, tôi thấy còn rất nhiều khó khăn như:
Ngoài sự quan tâm của ngành giáo dục, sự giúp đỡ của các lãnh đạo và
giáo viên trong trường thì mong muốn của tôi là đội ngũ giáo viên âm nhạc phải
thật đồng bộ từ cấp mầm non, tiểu học và THCS. Vì nếu không có sự đồng bộ thì
việc truyền thụ kiến thức sẽ gặp khó khăn cho giáo viên dạy các lớp sau. Ví dụ:
giáo viên dạy mẫu giáo có khả năng gây sự say xưa yêu thích học hát, nghe âm
nhạc cho các em ngay buổi ban đầu và tiếp đó khi lên cấp tiểu học các em đã vốn
có cảm tình yêu thích học hát, nghe âm nhạc đây là cơ sở tốt cho giáo viên âm
nhạc truyền thụ những kiến thức mới cho ở cấp tiểu học cho các em. Học xong tiểu

học cũng như các môn học khác, các em đã có sẵn vốn kiến thức nói chung. Riêng
môn âm nhạc và học hát vốn là sở thích của các em khi ở độ tuổi ban đầu “Học mà
chơi, chơi mà học” ở các cấp mẫu giáo và ở các cấp đầu bậc tiểu học, lên cấp
THCS, các em đã có kiến thức và sự say mê cộng với sự nhiệt tình, tinh thần trách
nhiệm và đặc biệt là trình độ năng lực nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên âm
nhạc ở mức độ cao hơn sẽ tạo ra sự say mê ham thích, ưu ái môn học này. Đây là
động lực to lớn để thúc đẩy các môn học khác và các hoạt động xã hội của nhà
trường.
Các trang thiết bị về cơ sở vật chất như : Nhạc cụ, phòng chơi nhạc,
phòng hát cần được xây dựng thật phù hợp để môn học thật sự có chất lượng cao.
Bản thân người giáo viên âm nhạc phải năng động sáng tạo, tranh thủ được sự
nhiệt tình của lãnh đạo và giáo viên nhà trường, sự giúp đỡ của Đảng, chính quyền
xã, của phụ huynh học sinh để tuyên truyền, thuyết phục các tổ chức đoàn thể và
từng thành viên hiểu về tầm quan trọng của môn học âm nhạc.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thực tế ở các trường THCS hầu hết chỉ có một giáo viên dạy âm nhạc nên hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ ở trường khó có thể tổ chức dự giờ để mà các giáo
viên khác nhìn nhận đánh giá một cách chính xác được. Nếu đánh giá một cách chủ
quan thì bản thân giáo viên âm nhạc phải có khả năng khảo sát, đánh giá phân tích
trung thực và khách quan trong quá trình học hát và kết quả học hát của học sinh
thật khoa học. Theo quy định mỗi giáo viên trong trường phải thao giảng 2 tiết
trong năm học tới dự giờ có các thành viên trong nhà trường nhưng do chuyên môn
có khác nhau nên việc đánh giá kết luận khó có thể đạt mức chính xác được. Do
tính đặc thù của môn học nên khi tổ chức dự giờ để nhận xét đánh giá kết quả.
Ngành giáo dục cấp huyện cần bố trí xắp xếp thành cụm bố trí các giáo viên âm
nhạc đến lần lượt dự giờ ở từng trường vừa mang tính khách quan, vừa học hỏi
được với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong phương pháp giảng dạy môn âm
nhạc .
4. Lịch sử vấn đề:
Những năm gần đây đã có rất nhiều tập thể cá nhân gồm các nhà nghiên cứu quan

tâm tìm hiểu đến các vấn đề cơ bản : “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn học
âm nhạc nói chung và phân môn hát nói riêng” trên thực tế đã mang lại kết quả
rất đáng phấn khởi.
5. Đối tượng nghiên cứu:
Tôi chọn lựa đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 6 Trường THCS . Từ đối
tượng chính là học sinh lớp 6 có thể giúp tôi đi sâu nghiên cứu thêm về các đối
tượng khác, để môn học hát trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong
đời sống nhân dân. Đặc biệt là giới trẻ để sớm đưa ra những giải pháp nâng cao
chất lượng dạy phân môn học hát tại trường.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Thực hiện theo đường lối của Đảng và nhà nước cũng như của nghành Giáo Dục:
“Công tác giáo dục phải từng bước xã hội hoá” môn học Âm nhạc và phân môn
Học hát có tầm quan trọng như đã trình bày trên, nên phạm vi nghiên cứu của tôi là
giáo viên và học sinh trường THCS .
7. Những phương pháp nghiên cứu chính:
Qua một quá trình được học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, cộng với thực tiễn
trong quá trình công tác. Các phương pháp giúp cho tôi tập trung vào nghiên cứu
chính . Đó là:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Phần 1:
THỰC TRẠNG DẠY PHÂN MÔN HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS
1.1.Tầm quan trọng đối với học sinh ở trường THCS:
Âm nhạc có một vị trí quan trọng trong đời sống con người, đối với mỗi người hoạt
động ca hát là nguồn nuôi dưỡng tinh thần. Các giai điệu trầm bổng, sự phong phú
của tiết tấu ở các thể loại bài hát sẽ đưa chúng ta vào thế giới một cách tươi đẹp,
hấp dẫn và lý thú. Ca hát luôn luôn giúp chúng ta cảm nhận cuộc sống tươi đẹp

tràn đầy niềm vui, niềm hạnh phúc. Từ khi còn nằm trong bụng mẹ trẻ cũng có thể
cảm nhận được ca hát một cách thụ động, phản ứng với âm nhạc ngay lúc này.
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới đã chúng minh khi người mẹ
mang thai 4 tháng rưỡi trở đi, nếu cho thai nhi nghe một cách gián tiếp các thể loại
âm nhạc sẽ giúp cho trí tuệ thai nhi phát triển ngay từ lúc còn trong bào thai. Rồi
khi lọt lòng, trẻ đã từng bước tiếp xúc với những câu hát ru trìu mến, nhẹ nhàng
đầy tình cảm.
Biết bao nhiêu tâm sự, bao điều dạy dỗ người mẹ gửi gắm cho con mình qua những
khúc hát ru. Lời ru cũng chính là tâm hồn của người mẹ, là giai điệu của quê
hương, là nguồn nuôi dưỡng tình cảm và nhân cách cho trẻ em sau này. Rồi cùng
với năm tháng khi trẻ lớn dần lên lại được tiếp xúc với những bài đồng dao. Những
bài hát này với nét nhạc vui tươi, dí dỏm, hồn nhiên gắn bó với trẻ trong những trò
chơi ngây thơ, hồn nhiên…như: Tập tầm vông, rồng rắn lên mây, thả đỉa ba ba, lộn
cầu vồng…
Từ lúc trẻ thụ động nghe âm nhạc cho đến khi chủ động. Tìm đến với câu hát vần
điệu, kèm theo những trò chơi, tất cả đều giúp cho trẻ lớn lên là đặt nền tảng âm
nhạc đầu tiên cho trẻ, đồng thời nó là yếu tố tác động đến tình cảm và nhân cách
cho trẻ sau này.
Đến tuổi thanh niên khi những rung động của tình yêu thì ca hát được thể hiện
bằng những câu hát giao duyên, huê tình, đến khi qua đời con người vẫn gắn bó
với âm nhạc.
Từng bài hát câu hát đều phản ánh một cách hình tượng những khái niệm sâu sắc
về cuộc sống, thiên nhiên, cảnh vật, con người và các mối quan hệ, tư tưởng , tình
cảm. Hoạt động ca hát không chỉ là phương tiện thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của
người hát, mà còn khơi dậy ở người nghe những xúc động tương ứng những hiểu
biết nhất định đem lại khoái cảm thẩm mỹ. Sức diễn cảm của giọng hát, cùng với
những phong cách, cử chỉ, nét mặt phù hợp sẽ thu hút được học sinh. Nó khơi dậy
ở học sinh những cảm xúc chân thực với cái đẹp, cái thiện.
Giáo dục và giảng dạy âm nhạc cho học sinh phổ thông có tác dụng lớn lao vào đời
sống tinh thần của các em, nhằm góp phần cùng các môn học khác để thực hiện

thắng lợi mục tiêu của ngành giáo dục đào tạo đề ra. Thấy rõ tầm quan trọng của ca
hát đối với học sinh, nên đòi hỏi những yêu cầu của việc dạy hát ở trường THCS
cần có những đổi mới.
Ca hát có vị trí quan trọng, là nhu cầu trong đời sống của con người. Hoạt động ca
hát ảnh hưởng đến con người bằng tác động của giai điệu và lời ca. Âm nhạc có lời
(âm nhạc cho giọng hát) có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến tư tưởng tình cảm
của con người ca hát đặc biệt gắn bó, gần gũi với lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là
trẻ nhỏ đây là cơ sở tốt cho chương trình giáo dục âm nhạc và học hát từ độ tuổi
mẫu giáo trở lên.
Ca hát là một hoạt động giáo dục nhẹ nhàng và hấp dẫn mang lại hiệu quả xã hội
cao. Những nội dung phong phú, bổ sung vốn sống cho các em, cung cấp thêm từ
ngữ và làm rung động các cảm xúc thẩm mỹ cho các em. Hoạt động ca hát cũng là
người bạn đồng hành của trẻ trong mọi hoạt động về mặt sinh lý như: Học sinh thở
sâu hơn rất có lợi cho hệ hô hấp và tuần hoàn, dây thanh đới được rung động tinh
tế giúp giọng nói của các em thêm truyền cảm, thính giác phát triển, thần kinh
hưng phấn, sức khoẻ tăng cường. Riêng dạy học hát cho học sinh lớp 6 giáo viên
cần phải có kỹ năng hát cơ bản, hát chuẩn xác và diễn cảm để thu hút sự chú ý của
học sinh giúp các em hát đúng hát hoà giọng, biết thể hiện tình cảm, sác thái của
bài hát, hiểu nội dung của tác phẩm và cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng của
âm nhạc qua giai điệu và lời ca của từng bài hát.
1.2. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học:
Tập trung mọi khả năng hiện có, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng làm.
Nhiệm vụ nâng cao chất lượng phòng học và trang thiết bị cần thiểt trong nhà
trường điều này đã được nhà trường và chính quyền địa phương quan tâm nhưng
cũng chỉ ở mức độ nhất định.
1.3 Đội ngũ giáo viên âm nhạc:
Thời đại mà chúng ta sống hiện nay là thời đại của công nghệ. Công nghệ thông tin
đang phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống của con người.
Từng quốc gia đã và đang nhanh chóng nắm bắt thành tựu của khoa học công nghệ
để phục vụ cho sự phát triển nước nhà.

Đảng và nhà nước ta luôn xác định đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu, đây
là biện pháp để theo kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Lúc nào
cũng vậy người giáo viên với vai trò là cầu nối là nhân tố giữ vị trí trung tâm giúp
học sinh tiếp cận với nền tri thức tiên tiến.
Thực tế của môn âm nhạc nói chung, dạy phân môn học hát nói riêng thì còn có
nhiều người xung quanh nghĩ chưa đúng. Họ nghĩ rằng giáo viên chỉ cần biết qua
nhạc lý và biết hát là đủ. Chỉ cần dạy cho học sinh biết hát và hát đúng là được.
Nếu đứng bên ngoài thì số ít có suy nghĩ như vậy, còn thực tế thì khác. Trong một
tiết dạy hát nếu giáo viên chỉ đơn thuần dạy đúng bài hát cho học sinh thì giờ học
hát đấy chỉ dừng lại ở mức độ dạy bình thường. Ở đây ta phải thấy điều quan trọng
là qua bài hát đó có nội dung tư tưởng khơi dậy và tạo nên hưng phấn, sự hứng thú
sáng tạo và say mê nghệ thuật, sự chú ý thích thú tới nội dung cho các em, để làm
được việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có trình độ âm nhạc nhất định và có hiểu
biết về xã hội một cách sâu sắc. Giáo viên phải thường xuyên học tập chuyên môn
nghiệp vụ, học tập lý luận chính trị, tìm tòi các phương pháp hay nhất để áp dụng
vào bài giảng có hiệu qủa cao nhất.
Người giáo viên phải tăng cường nhiệm vụ tự học tập mọi lúc, mọi nơi, mọi cách
để mở rộng và cập nhập kiến thức, nhuần nhuyễn kỹ năng có vốn tích luỹ rộng để
xử lý linh hoạt mọi tình huống xảy ra trong giảng dạy. Trên thực tế người giáo viên
không chịu học hỏi, tư duy sáng tạo thì việc giảng dạy gặp nhiều khó khăn hạn chế
về chuyên môn, ví như: sử dụng nhạc cụ, giọng hát…Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình giảng dạy chính vì vậy mà việc học tập càng có ý nghĩa
với giáo viên.
Một vấn đề quan trọng nữa yêu cầu mỗi giáo viên phải luôn bám sát vào những
mục tiêu quan điểm, nhiệm vụ và hướng chỉ đạo của cấp trên. Vì thực tế trong
chương trình của học sinh lớp 6 nói riêng và các khối lớp nói chung, hàng năm vẫn
có sự thay đổi, nhằm cải tiến từng bước cho phù hợp với thực tế. Do vậy các giáo
viên chuyên trách phải chủ động nắm bắt kịp thời những chủ trương, nội dung chỉ
đạo, hay chỉnh lý, thay sách của bộ giáo dục và đào tạo. Nắm vững các hướng dẫn
cụ thể của cấp trên người giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch chương trình làm

việc đúng đắn có nội dung chất lượng thiết thực bổ ích.
Về tài liệu giảng dạy giáo viên cần có đầy đủ giáo trình, sách giáo khoa theo quy
định,tăngcường sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về
con người, tự nhiên, xã hội có liên quan đến bài giảng.
Tích cực tham gia với các trường để giao lưu dự giờ với các đồng nghiệp, học hỏi
trao đổi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn mang lại hiệu quả trong
giảng dạy.
Hành trang của người giáo viên là kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ, chuyên khoa âm
nhạc cùng với tấm lòng yêu ngành, yêu học sinh, yêu mái trường, yêu quê
hương…Người giáo viên luôn luôn học tập về cách sử dụng ngôn ngữ trong trình
bày diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ giản dị, chính xác và đúng chuẩn mực tiếng việt,
để bài giảng đi vào lòng học sinh một cách nhẹ nhàng, tình cảm mà chất lượng
hiệu quả cao.
Nhưng thực tế qua khảo sát tôi thấy: Phần nhiều các bài soạn của giáo viên giống
với các sách hướng dẫn, đôi khi giáo viên còn soạn một lúc nhiều bài, thậm chí sử
dụng giáo án của những năm trước để giảng dạy cho năm sau…Đây là những thiếu
sót chủ yếu ở một số ít giáo viên. Việc này cần được nghiêm túc sửa chữa để trong
việc soạn giáo án cảm thụ âm nhạc của giáo viên phải có sự sáng tạo, tập trung
nghiên cứu đồng bộ tới giai điệu, tiết tấu, hoà âm cho đến lời ca. Làm cho học sinh
có cảm hứng, say sưa, tập trung chú ý vào bài hát mà không hề có một tí rụt rè,
lúng túng.
1.4 Khả năng tiếp thu ca hát của học sinh:
Trường THCS có môn học âm nhạc từ năm học 2001 – 2002. Giáo viên âm nhạc
tuy chỉ có một mình nhưng với lòng nhiệt huyết yêu nghề, yêu học sinh, yêu
trường lớp nên luôn được lãnh đạo, đồng nghiệp và học sinh yêu mến. Mặt khác
học sinh của trường nói chung đặc biệt là học sinh lớp 6 vừa chuyển cấp nói riêng
rất chăm ngoan, đa số các em là con em của nông dân nông nghiệp.
Song hạn chế lớn nhất của các em là thói quen thụ động trong quá trình học tập giờ
học âm nhạc cụ thể là phân môn học hát, các em chưa chủ động tìm hiểu bài, mà
chỉ trông chờ giáo viên lên lớp hát và hát theo. Đối với các ký hiệu âm nhạc ghi

trên bài hát thì các em ít nhớ và tỏ ra lúng túng, năng lực cảm thụ âm nhạc của các
em học sinh còn rất hạn chế, thực tế cho thấy vì quá lệ thuộc vào các bài hát trong
sách giáo khoa, đây cũng là hạn chế vốn hiểu biết về phân môn học hát trong
chương trình, trong giờ học hát có nhiều em bước đầu còn e thẹn, rụt rè không chủ
động xây dựng bài. Riêng học sinh lớp 6 vừa ở tiểu học lên nên các em còn nhút
nhát bởi vậy giáo viên phải nhẹ nhàng bằng tình cảm và sự trừu mến của mình để
uốn nắn các em.
Kết quả điều tra:
Tên lớp Sĩ số
Thích Bình thường Không thích
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
6A 30 20 66,6 7 23 3 10
6B 25 18 72 5 20 2 8

Để điều tra một cách chính xác về mức độ yêu thích môn âm nhạc của học sinh
khối lớp 6 trường THCS bên cạnh việc phát phiếu thăm dò các em, tôi thường quan
sát thái độ biểu hiện cử chỉ của các em trong các giờ lên lớp. Nếu yêu thích môn
học các em sẽ chăm chú lắng nghe cô giảng ghi chép bài đầy đủ. Về nhà các em sẽ
tự giác học bài và làm bài tập chu đáo. Sau một thời gian quan sát và căn cứ vào
kết quả bài kiểm tra cho thấy :
Nhận xét: Kết quả trong quá trình khảo sát và điều tra thực tế về phân môn học hát
của học sinh khối lớp 6 trường THCS cho thấy: những năm đầu thật bỡ ngỡ cho
học sinh. Nhưng với sự nhiệt tình yêu quý học sinh, tôi người giáo viên âm nhạc đã
tận tình, gần gũi học sinh từng bước đưa các em vào làm quen và ham thích môn
học nên dần dần có chuyển biến rõ rệt. Một số em ham thích không những chú ý
học nhạc, học hát ở trường mà về nhà còn tiếp xúc với các phương tiện có ở thông
tin đại chúng như: đàn phím điện tử, đài, đĩa, băng, ti vi, internet…có chọn lọc phù
hợp với nội dung học tập của các em, điều này sẽ cho thấy hiện tại và tương lai
môn âm nhạc và phân môn học hát ở Nhà trường THCS là vô cùng quan trọng và
không thể thiếu được.

1.5 Phương pháp và kết quả dạy hát:
Phân môn học hát là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình âm
nhạc THCS, học hát rèn luyện một số kĩ năng mang tính phổ thông về ca hát được
vận dụng và các bài hát cụ thể trong chương trình. Học hát các bài hát cụ thể tách
rời việc rèn luyện một số kĩ năng hát chung mà phải đi chính kĩ năng chung và kĩ
năng cụ thể của bài hát đó đúng với yêu cầu.
Các kĩ năng hát cần rèn luyện cho học sinh gồm có:
*) Tư thế hát:
Trong quá trình học hát trước hết phải luyện tư thế hát, hát tập thể có thể tiến hành
ở tư thế đứng hoặc ngồi.
- Khi đứng hát: người thẳng, đầu không nghiêng, không so vai, hai tay buông dọc
theo thân thoải mái, toàn bộ thân thể dồn vào 2 chân đều nhau.
- Khi ngồi hát: đầu và thân người giống như khi đứng hát, hai tay đặt trên đầu gối,
lưng thẳng không tựa vào ghế, không vắt chân nọ lên chân kia.
- Tập tư thế hát đúng giúp cho việc hô hấp thuận lợi mà hô hấp là một việc rất quan
trọng trong quá trình ca hát.
*) Hơi thở:
Trong ca hát hơi thở là một trong những vấn đề hết sức quan tâm, cách thở đúng là
biết cách hít vào một lượng hơi vừa đủ để hát hết một câu hát (câu hát có thể dài
ngắn khác nhau). Khi tập hít hơi vào không nên hít nhiều quá, hơi sẽ bị căng phải
lên gân không điều tiết được hơi. Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh lấy hơi
bằng mũi, không hít bằng miệng. Lấy hơi bằng miệng cổ họng chóng bị khô, rát…
Khi hát các bài hát có nhịp độ chậm vừa phải, cần phải hướng dẫn cho các em lấy
hơi chậm hít bằng mũi, nên đánh dấu những chỗ lấy hơi trong bài hát để học sinh
có thể thực hiện đúng, biết cách lấy hơi, lấy hơi hợp lý mới có thể hát ngân dài ở
cuối câu hát.
*) Hát chính xác:
Trong ca hát việc hát chính xác có tầm quan trọng đặc biệt. Hát chính xác có nghĩa
là hát đúng giai điệu, tiết tấu của bản nhạc. Mức độ hát chính xác của từng học sinh
phụ thuộc vào khả năng nghe nhạc và khả năng của các cơ quan phát âm. Nếu học

sinh tập trung chú ý, phân biệt được rõ độ cao thấp, nhanh chậm của âm thanh, ghi
nhớ được giai điệu, tiết tấu của bản nhạc thì khi giáo viên hát mẫu các em có thể
nhắc lại chính xác, nếu học sinh phải hát cao hơn hoặc thấp hơn giọng trung bình
của bản thân thì có thể ảnh hưởng ngay tới việc hát chính xác. Một trong những
điều kiện để giúp cho học sinh phát triển kĩ năng hát chính xác là việc lựa chọn
giọng bài hát cho phù hợp với âm vực giọng của các em.
*) Hát đồng đều:
Giáo viên cần dạy cho các em có kĩ năng hát đồng đều và hoà giọng, có thể vận
dụng một số biện pháp sau:
- Thu hút sự chú ý của toàn thể học sinh.
- Dẫn vào câu hát đầu tiên bằng động tác chỉ huy hay nghe dạo nhạc hoặc nghe
giáo viên hát một câu ngắn rồi theo hiệu lệnh đến bắt vào bài.
- Theo động tác tay chỉ huy của giáo viên, học sinh có thể hát nhanh, chậm, to,
nhỏ, nhấn, nảy hoặc hát liền hơi.
- Giúp học sinh cách phát âm, nhả chữ đúng cũng làm cho giọng hát của các em
đồng đều, hoà hợp.
*) Phát âm, nhả chữ, hát rõ lời:
Nhả chữ là sự cấu tạo rành rọt, chính xác về phương diện phát âm của từ. Khi hát
tập thể cũng như hát cá nhân rất cần quan tâm đến vấn đề này.
Hát rõ lời góp phần truyền cảm và thông tin chính xác nội dung ca từ của bài hát.
Những nguyên tắc phát âm lời ca trong ca khúc Việt Nam có liên quan chặt chẽ
đến sự vận động của 6 thanh điệu (thanh không dấu, thanh dấu sắc, thanh dấu
huyền, thanh dấu hỏi, thanh dấu ngã, thanh dấu nặng) trong ngữ âm tiếng Việt.
1.5.1. Thực hiện chương trình dạy hát:
Đối với những học sinh có năng khiếu ca hát, tai nghe và trí nhớ âm nhạc tốt thì
khi tiếp xúc với bài hát mới các em chỉ cần nghe qua một vài lần là thuộc và có thể
hát đúng giai điệu. Những trường hợp đó không nhiều trong mỗi lớp học trên dưới
40 học sinh. Việc dạy hát theo một trình tự quy định và trình tự là tất yếu không
thể bỏ qua bởi dạy hát là một quá trình rèn luyện tai nghe, nhạc cảm, xử lí hơi thở,
cách phát âm, nhả chữ cùng với những kĩ năng ca hát thông thường khác.

Quy trình dạy hát thường chia thành 3 bước:
Một là: Giới thiệu bài hát và hát mẫu.
Hai là: Dạy học bài hát
Ba là: Luyện tập củng cố biểu diễn bài hát
*) Giới thiệu bài hát và hát mẫu:
Dạy cho học sinh hát một bài hát mang tính chất giáo dục âm nhạc là một quá trình
gồm nhiều giai đoạn. Muốn các em hát hay, hát đúngvà có truyền cảm các em phải
được nghe, được xem bài hát trước khi học. Trước khi bắt đầu dạy hát, khâu đầu
tiên có ý nghĩa qua trọng là phải tạo được trong ý thức các em hình tượng đầy đủ
trọn vẹn bài hát các em học. Trong bước giới thiệu ngắn gọn về bài hát chú ý 2
phần:
- Giới thiệu bài hát sắp học cho học sinh nắm.
- Cho học sinh nghe toàn bộ bài hát
+) Giới thiệu bài hát
Bước vào học hát, giáo viên tóm tắt ngắn gọn chủ đề tư tưởng, nội dung đặc điểm
nghệ thuật, thể loại, xuất xứ và tác giả của bài hát…
- Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi để toát lên nội dung, tính chất của bài hát.
- Chọn lọc những ý cơ bản sinh động nói về hoàn cảnh ra đời của bài hát và ý đồ
của tác giả, và những gì tác giả muốn truyền tải cho người nghe qua bài hát.
- Kết hợp dùng các phương tiện trực quan như: xem ảnh diễn tả nội dung bài hát
hoặc xem ảnh tác giả (nếu có).
Các bước trên giáo viên phải vận dụng sáng tạo phù hợp với từng bài hát sao cho
dễ hiểu, có hiệu quả nhằm thu hút học sinh tập trung cao độ khi học hát, hát đúng
và hiểu rõ nội dung của bài hát để diễn tả nhiệt tình từng bước nâng cao nhận thức
cho học sinh khi học hát.
+) Phần cho học sinh nghe hát mẫu
Đây là việc quan trọng gắn lí luận với thực tiễn trong dạy hát của giáo viên cho học
sinh. người giáo viên phải hát đúng, diễn cảm, trình bày hấp dẫn…Lưu ý những
chỗ khó, phải nhắc bảo các em để các em có ấn tượng và cảm xúc đối với bài hát,
giúp các em cảm nhận về nội dung tính chất âm nhạc qua giai điệu, lời ca, sắc thái

tình cảm của bài hát. Khi giáo viên trình bày lần đầu tiên bài hát chuẩn bị cho học
sinh nếu có chất lượng cao sẽ gây ngay ấn tượng mạnh mẽ, tác động nhiều mặt tạo
nên hưng phấn sự yêu thích và tự có nhu cầu say mê học bài hát đó.
*) Hát mẫu thể hiện các hình thức:
- Giáo viên trực tiếp trình bày bài hát, hát một cách nhiệt tình bằng giọng hát tốt,
đúng, giàu sức biểu cảm mới gây được sự ham thích của các em học sinh. Nếu giáo
viên dạy hát lại sử dụng nhạc cụ thì càng tăng thêm sự hấp dẫn và lí thú đối với các
em.
- Khi dạy cũng có thể cho các em nghe tách biệt phần nhạc, phần lời và phân tích
rõ cho các em hiểu để các em xác nhận được tính chất âm nhạc của bài hát như:
hùng hồn, trang nghiêm, sôi nổi hay nhẹ nhàng, tình cảm…Sau khi nghe nhạc, giáo
viên mới hát lời ca cho các em để các em tiếp thu một các trọn vẹn.
- Trong lúc dạy, giáo viên phát hiện có học sinh hát đúng bài hát đang dạy, thì
giáo viên sẽ lấy em đó hát trình bày cho cả lớp nghe, đó là một hình thức hay làm
cho khoảng cách giữa người dạy hát và người học hát gần nhau hơn. Đây cũng là
hình thức tốt để lôi cuốn nhiều học sinh yêu thích bộ môn Âm nhạc.
*) Trao đổi sau khi đã được nghe hát mẫu, giới thiệu bài hát:
Mục đích chính của việc trao đổi sau khi nghe hát là để các em nói lên những hiểu
biết của mình về bài hát, qua đó giáo viên phát hiện ra năng lực cảm thụ âm nhạc,
bài hát của từng em mà tập cho học sinh có khả năng phát biểu cảm xúc của mình,
nhận biết các phương tiện diễn tả âm nhạc như: giai điệu, tiết tấu, sắc thái…Để mô
tả tính chất của âm nhạc, nội dung bài hát. Qua đó giúp cho học sinh mở rộng thêm
hiểu biết khả năng nhận thức, đánh giá, nhận xét một tác phẩm âm nhạc từ chi tiết
đến khái quát.
*) Nghe hát lại:
Đây là công việc cần quan tâm để củng cố những gì các em đã nhận thức được là
rất bổ ích. Để cuộc trao đổi có chiều sâu, giáo viên nên cho các em nghe hoàn
chỉnh một bài hát lần nữa sau khi trao đổi.
1.5.2. Sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy:
Do nhiệm vụ dạy học âm nhạc ở trường THCS có những đặc trưng khác hẳn cách

dạy và học ở các trường đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp hoặc các câu lạc bộ và nhà
văn hoá nên người giáo viên phải thực hiện đầy đủ các quy định của ngành giáo
dục. Sử dụng triệt để hướng dẫn trong sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy của Bộ
GD&ĐT phục vụ cho mục tiêu giảng dạy. Sử dụng có hiệu quả tri thức của bản
thân đã được học ở các trường cao đẳng, đại học sư pham âm nhạc để vận dụng
vào bài giảng phù hợp với cấp học, bậc học. Âm nhạc trong trường THCS không
phải dành riêng dạy cho những em có năng khiếu mà phải dạy cho tất cả học sinh
nên phải căn cứ vào sách và tài liệu hướng dẫn để soạn giáo án cụ thể, chi tiết giúp
khi giảng dạy các em dễ hiểu, nghiêm cấm việc dạy chay không có giáo án hoặc bê
sao chép giáo án cũ để dạy. Việc soạn giáo án mới giúp cho giáo viên ôn lại kiến
thức một lần nữa gắn lời của bài giảng vào đúng những yêu cầu mới nhất mà trong
sách, tài liệu hướng dẫn đề ra. Quả thực, muốn giảng dạy môn Âm nhạc và phân
môn học hát tốt thì giáo viên phải đầu tư nghiên cứu, tham khảo đọc nhiều sách tài
liệu để soạn giáo án. Các tạp chí, tài liệu, sách, báo có liên quan tới bộ môn Âm
nhạc…
1.5.3. Phương pháp dạy hát:
Trong phương pháp dạy hát cho học sinh, bất cứ một người giáo viên nào cũng
phải nắm vững và tiến hành các bước trình tự trong dạy hát. Ta phải ghi nhận rằng:
âm nhạc vốn là môn nghệ thuật các em ham thích và hứng thú, có sức thu hút
mạnh đối với tuổi học sinh, nhưng việc giảng dạy truyền thụ như thế nào để các em
tiếp thu có hiệu quả cao nhất. Điều này người giáo viên cần phải có được kể từ khi
bước vào lớp. Đó là: cử chỉ, nét mặt vui tươi, tự nhiên, tâm hồn thoải mái…để đi
vào nội dung bài giảng. Trong nội dung bài giảng gắn kết hài hoà với sử dụng trực
quan sinh động để minh hoạ ý tứ của bài giảng nhằm thu hút học sinh dẫn dắt các
em tiếp thu bài hát mẫu đến đọc một câu nhạc có sắc thái. Khi lên lớp cũng như
vào giảng bài giáo viên phải chuẩn bị rất chu đáo, đây là sự tôn trọng học sinh. Bản
thân việc thể hiện phần âm nhạc là sinh động và hấp dẫn, do vậy giáo viên phải tận
dụng triệt để sức mạnh đó làm cho giờ học thêm sinh động tạo thành niềm say mê
của học sinh. Tất cả các kĩ năng ca hát, đọc nhạc, trình bày nhạc cụ minh hoạ đều
yêu cầu giáo viên phải thành thạo trước các em. Cũng cần tôn trọng quy luật chung

của sự phát triển tâm lý trẻ em đó là tính không đồng đều của sự phát triển tâm lí
trẻ em ở mỗi cá thể, không nên đòi hỏi kết quả như nhau.
Dạy phân môn Học hát ở học sinh khối lớp 6 bước đầu là xây dựng cho các em
những kĩ năng học hát tối thiểu, tuy nhiên quan trọng hơn là thức tỉnh trong các em
những cảm xúc nội tâm, sự ham thích hào hứng say mê với môn học hát cũng như
các hoạt động bổ ích mà các em tham gia một cách tự giác và sáng tạo.
*) Trước khi dạy hát cần tiến hành luyện thanh mang tính chất khởi động giọng.
Dạy học sinh hát đúng cao độ, trường độ của bài hát. Biết thể hiện tình cảm kết
hợp với rèn luyện các kĩ năng ca hát là yêu câù đầu tiên của việc dạy hát. Tuỳ mức
độ khó dễ, dài ngắn, đơn giản hay phức tạp của bài hát giáo viên có thể lựa chọn
cách tiến hành dạy hát phù hợp nhất, để giúp học sinh hát trôi chảy, giọng được
mở. Khi vào học hát, giáo viên giúp cho các em biết cách luyện thanh là hát theo
một giai điệu với một số mẫu âm nhất định, bắt đầu từ âm khu thuận lợi nhất của
học sinh. Để làm được điều này giáo viên cần nắm được âm vực giọng của học
sinh lớp 6 từ 11-12 tuổi, học sinh có xu hướng hát bằng giọng ngực, âm thanh vẫn
trong sáng nhưng mạnh mẽ và dày dặn hơn. Âm vực của các em khá rộng, càng
lớn âm sắc giọng càng ổn định, âm vực giọng mở rộng dần.
Có thể nói, giọng trẻ em ở lớp 6 cho đến độ tuổi 14-15 là tương đối đều, các em hát
trôi chảy. Khi đã xác định được tầm cử giọng của học sinh thì giáo viên tiến hành
hướng dẫn cho các em luyện thanh.
Các bài tập thực hiện như sau:
+) Chuẩn bị tư thế đứng hát vững vàng, tự nhiên.
+) Hát với nhịp độ vừa phải, không vội vàng
+) Hát với âm lượng vừa phải, không cố gắng hát to quá.
+) Hát chụm để âm thanh phát ra có cộng hưởng, sáng, gọn, rền.
+) Hát giai điệu, câu luyện thanh theo tên nốt chính xác.
+) Tập bật môi, lưỡi khi hát các phụ âm và mở khẩu hình theo các nguyên âm khi
hát các từ: ma, mê, mi, mô, đô, rê.
+) Tập hít hơi bằng mũi một cách nhẹ nhàng, lấy vào đủ hơi dể hát trôi chảy từng
hai nhịp một.

*) Sau khi tiến hành luyện thanh, giáo viên phân câu hát thành từng đoạn ngắn để
các em đủ hơi và không mệt khi tập, giáo viên hát mẫu từng câu, sau đó cho các
em nhắc lại. Sau khi hát mẫu, mỗi câu chừng hai đến ba lần, giáo viên đàn lại giai
điệu để các em lắng nghe thêm một vài lần nữa trước khi tập hát tiếp theo. Dạy hát
từng câu theo lối móc xích cho đến hết bài rồi quay lại từ đầu là phương pháp
thường dùng, không cần dạy câu trước thuộc rồi mới dạy câu sau. Dạy hát từng câu
nhưng liên tiếp sẽ giúp học sinh nhận biết trọn vẹn bài hát. Việc gọt giũa, trau
chuốt nên dành đến khi luyện tập, củng cố.
Có thể dùng đàn kết hợp nhưng chỉ nên đàn giai điệu sau khi đã được nghe hát mẫu
và đệm theo khi các em đã thuộc bài. Hướng dẫn hát kết thúc bài là một yêu cầu
đáng quan tâm. Thông thường khi hát đến câu cuối cùng và tiếng cuối cùng của
bài, các em ngắt giọng ngay. Đó là thói quen cần khắc phục. Phải hát câu cuối
cùng của bài thật đầy đủ, chú trọng đến âm kết để câu kết thúc được khắc hoạ đậm
nét, rõ ràng, có tác dụng mạnh đến tình cảm và nhận thức của chính bản thân người
hát và người nghe.
Khi dạy hát, giáo viên không nên hát cùng học sinh. Lúc các em tái hiện các câu
hát mẫu là lúc giáo viên tạm nghỉ ngơi tích cực bằng cách lắng nghe để phát hiện
những chỗ các em hát sai, kịp thời chỉ ra và sửa chữa. Giáo viên cần luôn nhắc nhở
các em khi hát phải biết tự kiểm tra chính bản thân mình, lắng nghe và tự điều
chỉnh, việc này không phải em nào cũng làm được. Do đó, giáo viên phải biết sửa
sai.
*) Sau khi đã học hát, giáo viên dành thời gian củng cố, ôn luyện cho các em, vừa
làm cho các em thuộc bài hát, hát chính xác và nâng cao kĩ năng thể hiện tình cảm,
sắc thái của bài và một số yêu cầu khác. Phần củng cố ôn luyện có thể thực hiện
một vài công việc như sau:
- Hát đúng nhịp độ quy định của bài, những chỗ cần hát nhanh dần, chậm dần,
ngân tự do…
- Phát âm rõ các âm tiết, các từ trong lời ca.
- Lấy hơi và ngắt hơi đúng chỗ.
- Hát hoà giọng và hát đồng đều.

- Tập hát cùng với phần đệm của nhạc cụ có nhạc dạo.
- Tìm hiểu sâu hơn nội dung nghệ thuật của bài hát.
- Hát kết hợp vỗ tay hoặc gõ đệm theo âm hình tiết tấu. Mỗi bài hát được xây dựng
trên từng dạng âm hình tiết tấu khác nhau. Vì thế, tập gõ hoặc vỗ tay đệm theo có
tác củng cố cảm giác về nhịp phách, tiết tấu sẽ có ích khi vận dụng để học tập.
- Tập hát theo lối hát đối đáp (hát nối tiếp) hoặc hát có lĩnh xướng và lời ca.
- Hát kết hợp vận động, phụ hoạ (hoặc múa đơn giản).

×