Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.87 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng
hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao,
nhà nước cần có những công cụ riêng của mình. Một trong những công cụ đắc lực giúp
Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân
sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ
thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh
hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên
bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước hiện nay còn
nhiều bất cập, chưa đúng cách, đúng lúc, cấp vốn đầu tư chưa hiệu quả, sự yếu kém
trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra một vấn đề rất đáng quan tâm khi xem xét
về ngân sách Nhà nước. Thực tế đó cho thấy chúng ta cần phải có cái nhìn sâu hơn về
ngân sách Nhà nước và tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước vì ảnh hưởng của thâm
hụt ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế - xã hội là hết sức to lớn.
Vậy thế nào là thâm hụt ngân sách Nhà nước?nguyên nhân nào dẫn đến thâm
hụt? ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách Nhà nước đến tình hình kinh tế - xã hội là như
thế nào? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện
nay như thế nào? Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn
định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay không? Tất cả
những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu, các
nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và các biện pháp xử lí
tình hình bội chi ngân sách Nhà nước. Trong phạm vi của một đề án môn học với đề
tài "Ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước" em xin đề cập đến một số
vấn đề như sau: khái quát hoá những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước và bội chi
ngân sách Nhà nước, chỉ ra thực trạng về sử dụng ngân sách Nhà nước, cân đối và bội
chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và những kiến nghị giải pháp xử lí bội chi
ngân sách Nhà nước.
Do sự hạn chế về thời gian và sự hiểu biết về đề tài còn chưa sâu sắc, đề an của
em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo
hướng dẫn để em có thể hoàn thiện đề tài này
CHƯƠNG 1


NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Ngân sách nhà nước
1.1. Quan niệm về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng dự toán và thực hiện các khoản thu ,chi tài
chính của nhà nước trong khoảng thời gian thường là một năm (năm tài chính bắt đầu
từ ngày 1/1 đến ngày 31/12 của năm đó).
Ngân sách nhà nước do Quốc hội xem xét và quyết định thông qua tình hình
thực hiện ngân sách năm trước,nhiệm vụ thu chi của ngân sách nhà nước năm nay,tình
hình bội chi ngân sách nhà nước,các giải pháp bù đắp bội chi ngân sách,các khoản nợ
nhà nước đến hạn.
Về mặt hình thức thì ngân sách nhà nước là một bảng cân đối tổng hợp các
khoản thu và chi .Còn về mặt nội dung kinh tế thì ngân sách nhà nước phản ánh các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các
nguồn tiền tệ khác nhằm hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập chung lớn nhất của nhà
nước,thực hiện chức năng nhà nước.
Hàm ngân sách đơn giản có dạng sau:
B = -G + tY
Trong đó: B là cán cân ngân sách
G là chi tiêu ngân sách
tY là thu ngân sách
1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Để hiểu thế nào là ngân sách Nhà nước thì có rất nhiều quan niệm khác nhau,
hiện nay có hai quan niệm phổ biến về ngân sách Nhà nước. Quan niệm thứ nhất cho
rằng: ngân sách Nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của Nhà nước trong một
khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Quan niệm thứ hai cho rằng: ngân sách
Nhà nước là quỹ tiền tệ của Nhà nước. Các quan niệm trên về ngân sách Nhà nước đã
kootj tả được mặt cụ thể, mặt vật chất của ngân sách Nhà nước, nhưng lại chưa thể hiện
được nội dung kinh tế xã hội của ngân sách Nhà nước. Tròn thực tế, nhìn bề ngoài hoạt
động ngân sách Nhà nước là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó
2

được biểu hiện một cách đa dạng và phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh
vực văn hóa, chính trị xã hôi, kinh tế… nó tác động đến mọi chủ thể kinh tế xã hội.
Tuy vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung sau:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với
quyền lực của Nhà nước và phuc vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước,
được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. Đây cũng chính là điểm khác biệt gũa
ngân sách Nhà nước với các khoản tìa chính khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính
chất pháp lý, còn chi ngân sách Nhà nước mang tính chất cấp phát “ không hoàn trả
trực tiếp”. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội Nhà
nước đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể
nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà nước với tư cách là một chủ thể.
Các hoạt động thu chi NSNN đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó là các luật thuế, cế
độ thu chi…do Nhà nước ban hành, đồng thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của
các cơ quan Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước nó luôn luôn chứa đựng nhựng lợi ích về mặt kinh tế, chính
trị, ngoại giao, xã hội…Nhưng lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng phải được
đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác.
Thứ hai, ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt vơi Nhà nước chưa đụng những lợi
ích chung và công, hoạt động thu chi của ngân sách Nhà nước là thể hiện qua các mặt
kinh tế - xã hội của Nhà nướcNgân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước được chia ra làm nhiều quỹ nhỏ, mỗi một quỹ nhỏ có những tác dụng riêng rồi
sau đó mới được chia dung cho những mục đích.
Thứ ba, cũng như các quỹ tiền tệ khác ngân sách Nhà nước cũng có đặc điểm
riêng của một quỹ tiền tệ, nó là quỹ tiền tệ tập chung của Nhà nước được chia ra thành
nhiều quỹ nhỏ. Mỗi quỹ có tác dụng riêng rồi sau đó mới được chia dung cho những
mục đích.
Thứ tư, hoạt động thu cho ngân sách Nhà nước được thể hiện theo nguyên tắc
không hoàn trả lại trực tiêp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rútruts ngắn
khoản thời gian giữa người giàu và người nghèo nhằm công bằng cho xã hội. ví dụ: xây
dựng đường xá, an ninh quốc phòng…” người chịu thuế sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa

3
này nhưng hoàn trả một cách trực tiếp. Bên cạnh đó ngân sách còn chi cho các quỹ
chính sách, trợ cấp thiên tai
1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trò của ngân
sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định.
Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối
với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng
phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
1.3.1. Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích
thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi
vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho
cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ
sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực,
viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh
đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp
căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách
cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo
tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn.
Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân
sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế
sản xuất kinh doanh

4
1.3.2. Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc
biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng
thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống
mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
1.3.3. Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường
hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính
chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập
khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và
chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung ương với chính
sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu
của chính phủ.
1.4. Thu ngân sách nhà nước
1.4.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra các khoản
thu (các khoản thuế khóa) do mọi công dân đóng góp để hình thành nên quỹ tiền tệ của
mình. Thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để
tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của nhà nước.
Ở Việt Nam, Đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản
tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về
mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu
NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị
ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật NSNN hiện
hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;

- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
5
- Các khoản viện trợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu mang tính chất hoàn trả
như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật NSNN (Nghị
định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC
ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu NSNN các khoản viện trợ không
hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không
được tính vào thu NSNN.
1.4.2. Đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều
được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế;
biểu hiển ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v
Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là
chủ yếu.
1.4.3. Nội dung thu ngân sách nhà nước
- Thuế : là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao
dịch, tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập,
hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá,
nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi họ
hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ
phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí
đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ
hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân
và pháp nhân.

- Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Các khoản thu này bao gồm:
+ Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp
thuộc sở hữu nhà nước
6
+ Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của nhà nước;
+ Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp
Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự nghiệp
có thu của nhà nước.
- Thu từ bán hoặc cho thêu tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước :
Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất
phân phối lại, vừa có tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ
bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu nhà
nước.
- Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản
Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà
nước và được pháp luật quy định.
1.4.4. Yếu tố ảnh hưởng thu ngân sách nhà nước
- Thu nhập GDP bình quân đầu người
- Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế
- Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên
- Tổ chức bộ máy thu ngân sách
1.4.5. Nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách
Các nguyên tắc định hướng :
- Nguyên thu thuế theo lợi ích
- Nguyên tắc thu theo khả năng.
Các nguyên tắc thực hiện thực tế:
- Nguyên tắc ổn định và lâu dài

- Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng
- Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn
- Nguyên tắc đơn giản.
1.4.6. Các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước
Một là, trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia
tăng thu cho ngân sách, nhà nước cần phải dành kinh phí thỏa đáng cho để nuôi dưỡng,
7
tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản,
tài nguyên vì mục đích trước mắt.
Hai là, chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn cho doanh nghiệp và dân cư.
Ba là, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước phải được đặt
trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân.
Bốn là, dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan
trọng trong những lĩnh vực then chốt, nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.
Năm là, nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết kiệm
tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.
1.5. Chi ngân sách nhà nước
1.5.1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước
nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được
tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi
ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà
phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của
nhà nước.
Quá trình của chi ngân sách nhà nước:
- Quá trình phân phối: là quá trình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước để
hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng;
- Quá trình sử dụng: là trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách

nhà nước mà không phải trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử
dụng.
1.5.2. Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ.
Chi ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước.
Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xet hiệu quả trên tầm vĩ mô.
Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp.
8
Các khoản chi của ngân sách nhà nước gắn chặt với sự vận động của các phạm
trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, v.v (các
phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ).
1.5.3. Nội dung của chi ngân sách nhà nước
1.5.3.1.Theo chức năng nhiệm vụ, chi ngân sách nhà nước gồm:
Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng
cơ bản, khấu hao tài sản xã hội
Chi bảo đảm xã hội, bao gồm:
-Giáo dục
-Y tế
- Công tác dân số
- Khoa học và công nghệ
- Văn hóa
- Thông tin đại chúng
- Thể thao
- Lương hưu và trợ cấp xã hội
- Các khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế
- Quản lý hành chính
- An ninh, quốc phòng
- Các khoản chi khác
- Dự trữ tài chính

- Trả nợ vay nước ngoài, lãi vay nước ngoài.
1.5.3.2. Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước đựoc chia ra:
Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua sắm
của các cơ quan Nhà nước;
Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản;
Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ
cấp xã hội, hưu trí.
9
1.5.4. Phân loại chi ngân sách nhà nước
1.5.4.1. Căn cứ vào mục đích, nội dung :
- Nhóm 1: Chi tích lũy của ngân sách nhà nước là những khoản chi làm tăng
cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế; là những khoản chi đầu
tư phát triển và các khoản tích lũy khác.
- Nhóm 2: Chi tiêu dùng của ngân sách nhà nước là các khoản chi không tạo
ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai; bao gồm chi cho hoạt động sự
nghiệp, quản lý hành chính, quốc phòng, an ninh
1.5.4.2.Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý.
- Nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của nhà nước.
- Nhóm chi đầu tư phát triển nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Nhóm chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản chi để nhà nước thực hiện
nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản
chi làm nghĩa vụ quốc tế.
- Nhóm chi dự trữ là những khoản chi ngân sách nhà nước để bổ sung quỹ dự
trữ nhà nước và quỹ dự trữ tài chính.
1.5.5. Yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước
- Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Khả năng tích lũy của nền kinh tế.

- Mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội
của nhà nước trong từng thời kỳ.
1.5.6. Nguyên tắc tổ chức chi ngân sách nhà nước
- Nguyên tắc thứ nhất: gắn chặt các khoản thu để bố trí các khoản chi.
- Nguyên tắc thứ hai: đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
- Nguyên tắc thứ ba: theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là
các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội.
- Nguyên tắc thứ tư: tập trung có trọng điểm.
10
- Nguyên tắc thứ năm: phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các
cấp theo quy định của luật;
- Nguyên tắc thứ sáu: phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá
hối đoái.
2. Thâm hụt ngân sách nhà nước
2.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước là tình trạng các khoản thu ngân sách nhỏ hơn các
khoản chi.Thâm hụt ngân sách được thể hiện bằng tỉ lệ phần trăm so với GDP(khi tính
người ta thường tách riêng các khoản thu mang tính hoán trả trực tiếp như viện trợ,vay
nợ ra khỏi số thu thường xuyên và coi đó là nguồn tài trợ cho thâm hụt ngân sách)
B = T - G
B < 0 :Thâm hụt ngân sách (B là hiệu số giữa thu và chi)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý ngân sách nhà nước là
đảm bảo sự cân đối giũa thu và chi.Tuy nhiên do khả năng nguồn thu bị hạn chế và
tăng chậm ,thời kỳ vừâ qua(1976 đến nay) các nhu cầu chi lại tăng nhanh nên ngân
sách nhà nước mới bội chi kinh niên.Thâm hụt ngân sách cũng là hiện tượng phổ biến
ở các quốc gia trên toàn thế giới
2.2. Nguyên nhân thâm hụt ngân sách nhà nước
2.2.1. Nhóm nguyên nhân khách quan:
Tác động của chu kỳ kinh doanh là nguyên nhân cơ bản nhất trong số các nguyên
nhân khách quan gây ra bội chi ngân sách nhà nước. Khủng hoảng làm cho thu nhập

của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên (để giải quyết những khó khăn mới
về kinh tế và xã hội). Điều đó làm cho mức bội chi ngân sách nhà nước tăng lên. ở giai
đoạn kinh tế thịnh vượng, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng
tương ứng.
Điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước.
Những nguyên nhân khách quan khác có thể kể ra như thiên tai, địch hoạ v.v
Nếu gây tác hại lớn cho nền kinh tế thì chúng sẽ là những nguyên nhân làm giảm thu,
tăng chi và dẫn tới bội chi ngân sách nhà nước
11
2.2.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước là nguyên nhân cơ bản nhất
trong số các nguyên nhân chủ quan gây ra bội chi ngân sách nhà nước. Khi Nhà nước
thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi
ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà
nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt.
Những nguyên nhân chủ quan khác như sai lầm trong chính sách, trong công tác
quản lý kinh tế - tài chính v.v làm cho nền kinh tế trì trệ cũng có thể dẫn tới bội chi
ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn, ),
tổng hợp của bội chi do chu kỳ và bội chi do cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào cách
bù đắp bội chi.Mỗi cách bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô.
Nếu Nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước sẽ kéo theo lạm phát.
Nếu vay nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài.
Nếu giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng
hoảng tỷ giá.
Nếu vay quá nhiều trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội
chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng.
Hiện nay, Nhà nước ta kiên quyết không phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi

ngân sách nhà nước.
Vay nợ (trong nước, ngoài nước) được xem là giải pháp bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước một cách hữu hiệu. Kinh nghiệm mấy chục năm cải cách của Trung Quốc
cho hay tỷ lệ giữa nợ trong nước và nước ngoài nên ở mức 1,4 :1.Tuy vậy, mức độ nợ
phải nằm trong giới hạn hợp lý.
2.3. Phân loại thâm hụt ngân sách nhà nước
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ
cấu và thâm hụt chu kỳ.
12
2.3.1. Thâm hụt cơ cấu :
Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính
phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục,
quốc phòng,
2.3.2. Thâm hụt chu kỳ :
Là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi
mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy
thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi
ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như
sau:
- Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền
trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
- Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao
nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
- Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ
cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác
nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự
động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh

giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở
rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính
phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ
kinh tế
2.4. Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế
2.4.1. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư
Theo “thuyết tương đương” của Ricardo khi có tình trạng thâm hụt ngân sách thì
tiết kiệm của dân chúng tăng lên bằng mức thâm hụt.Vì thế sẽ không ảnh hưởng đến lãi
suất,không gây cản trở đầu tư.
13
Tuy nhiên qua thực tế ở nhiều nước khi ngân sách nhà nước thâm hụt ,chi tăng
,thu giảm,GNP sẽ tăng lên theo hệ số nhân,nhu cầu về tiền tăng theo.Với mức cung về
tiền cho trước,lãi suất sẽ tăng lên,bóp nghẹt một số đầu tư.Kết quả là một phần GNP
tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao,kéo theo tháo lui đầu tư với quy mô nhỏ nếu
trong ngắn hạn và quy mô lớn nếu trong dài hạn.Từ đó làm giảm sự tăng trưởng kinh tế
2.4.2. Thâm hụt ngân sách – một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát
Để thấy rõ điều này trước hết ta cần hiểu lạm phát là gì?
“Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.”
Khi ngân sách thâm hụt lớn,chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải,lượng
tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát.Khi giá cả đã tăng lên thì
sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp
tục tăng vọt.Mà tác hại của lạm phát là rất lớn như phân phối lại thu nhập và của cải
một cách ngẫu nhiên,gây biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh
tế Như vậy, nghĩa là thâm hụt ngân sách nhà nước gián tiếp gây ra các tác động trên
làm tổn hại đến nền kinh tế .
Tuy nhiên,lạm phát cũng có tác động ngược đến thâm hụt ngân sách nhà
nước.Với tác động phân phối lại của cải một cách ngẫu nhiên thì lạm phát cũng làm dễ
dàng hơn cho chính phủ trong một chừng mực nhất định:
Thứ nhất,Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát.
Thứ hai,Chính phủ có thể được lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa

tăng ít hơn bản thân mức tăng của lạm phát.
Và như vậy mức thâm hụt ngân sách có thể giảm .
2.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu
dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận bội
chi để tài trọ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì chính
lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách nhà nước,
giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong quá khứ.
Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời thì phần lớn
ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn (tại thời điểm bội chi xảy
14
ra), và trong dài hạn nó không tai ra một nguồn thu tiềm năng cho ngân sách mà chính
nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
2.4.4. Ảnh hưởng tới cán cân thương mại
Hiệu số giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong khoản giao dịch còn gọi là cán cân
thương mại.Các hoạt động xuất và nhập khẩu hàng hoá không chỉ được đánh giá thông
qua số lượng mà còn được đánh giá thông qua tỷ lệ trao đổi.Tỷ lệ trao đổi ở đây là tỷ
số giữa giá hàng xuất khẩu của một nước và giá hàng nhập khẩu ccủa bản thân nước đó
.Như vậy ,nếu như giá xuất khẩu tăng lên một cách tương đối so với hàng nhập khẩu
thì cán cân thương mại sẽ được tăng cường theo hướng tích cực và ngược lại ( nếu như
khối lượng hàng không thay đổi .)
Như ta đã phân tích ở trên , tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm cho lãi suất thị
trường tăng.Lãi suất tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng,giá hàng hoá trong nước theo
đó cũng tăng làm giảm lượng hàng xuất khẩu.Trong khi tương ứng,hàng hoá của đất
nước khác sẽ rẻ tương đối so với nước đó,dẫn tới việc tăng lượng hàng nhập khẩu .Vì
vậy ,thâm hụt ngân sách sẽ gây ra tình trạng nhập siêu:Nhập vào lớn hơn xuất ra,việc
sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước bị hạn chế ,sản xuất gặp nhiều khó khăn,tác
động không ít tới sự tăng trưởng kinh tế.
Nước Mỹ từ những năm 80 khi R.RI GÂN lên làm tổng thống tình trạng thâm
hụt ngân sách trở nên trầm trọng,lần đầu tiên trong lịch sử vượt qua con số trên 100 tỷ

USD,ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và tình hình xuất nhập khẩu,ta có thể thấy rõ điều
đó qua bảng số liệu sau (tỷ USD )
Bảng 1 : Thâm hụt ngân sách Mỹ năm 1988
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu thâm hụt
NSNN
1988 530 642 155
Để xử lý tình trạng thâm hụt ngân sách có nhiều giải pháp khác nhau,nhưng biện
pháp nào ưu việt ,mang lại hiệu quả kinh tế cao thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
điều kiện kinh tế,tình hình thực tế mỗi nước.Từ đó mới đưa ra phương thức tài trợ thích
hợp, và như vậy chúng ta sẽ nghiên cứu
15
2.4.5. Ảnh hưởng đến thực hiện phúc lợi xã hội
Hàng năm, ngân sách Nhà nước dành ra một khoản chi rất lớn để thực hiện phúc
lợi xã hội như chi sự nghiệp giáo dục, chi sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp văn hóa, nghệ
thuật, chi sự nghiệp xã hội. Các khoản chi sự nghiệp giáo dục nhằm mục đích nâng cao
trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm góp phần thúc đầy tăng
trưởng kinh tế và cải thiện đời sống cho nhân dân. Chi sự nghiệp y tế khoản chi phục
vụ công tác phòng bệnh và chữa bệnh nhằm nâng cao mức sống cho mọi người dân
trong xã hội. Việc nâng cao chất lượng hoạt động khám, chữa bệnh và tăng cường
trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho một nền y học hiện đại đòi hỏi cần thêm nhiều
nguồn vốn nữa. Khoản chi cho các vấn đề xã hội nhằm bảo đảm đời sống của người lao
động khi gặp khó khăn, tai nạn, già yếu, những người không có khả năng lao động
đồng thời giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, hỗ trợ cho đồng bào khi xảy ra bão
lụt, thiên tai. Khoản chi này đặc biệt cần thiết ở Việt Nam khi nước ta thường xuyên
xảy ra thiên tai, bão lụt, mất mùa ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước trong thời gian dài, Nhà nước phải cắt giảm
các khoản chi tiêu của Chính phủ làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện phúc
lợi xã hội nhằm hỗ trợ và cải thiện đời sống cho người dân.
16
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước qua các giai đoạn
1.1 Giai đoạn 1986-1990
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém,
thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ
yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai đoạn từ năm 1986-1990,
trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu
đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến
hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập
chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN
càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước
mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát
trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những
năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì không có sự tăng lên tương
ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 - 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế
rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển
như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát
hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
17
Biểu đồ 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN
(1985 - 1990) (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống
Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành tiền để bù đắp
thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 tỷ đồng,
năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và năm 1990
là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước
ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%,

năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990
là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái
trong nước.
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu hụt
NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do lạm
phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và dịch vụ
thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân tích ở trên cho thấy, có nhiều
nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc
bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1.
18
1.2 Giai đoạn 1991-1995
Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển
biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu
lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy lùi, nhưng lạm
phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn
thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành
cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu
quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm
hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước
ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức
1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là
4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp,
thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là
yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát
1.3 Giai đoạn 1996-2000
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích
cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt
NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác
động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không
ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến

năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm
này, tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000
(năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000:
4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm
1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có
mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi
NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế
chuyển sang giai đoạn đi lên.
19
1.4 Giai đoạn 2001-2007
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ
tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt
18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và
thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi
NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân
khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ
ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP. (Xem đồ thị 2)
Biểu đồ 2: Bội chi NSNN so với GDPĐồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó
trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã
có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông
qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải
kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá
trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại
trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP
mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
20
Bảng 2 : Bội chi NSNN so với GDP
Năm Bội chi NSNN

Tăng trưởng
GDP
2001 25.855 6.89
2002 25.597 7.08
2003 29.936 7.26
2004 34.703 7.7
2005 40.746 8.4
2006 48500 8.17
2007 56500 8.44
2008 66200 6.18
(Xem đồ thị 3)
Biểu đồ 3: Bội chi NSNN so với GDP
(Nguồn: Bộ tài chính, Tổng cục Thống kê và tác giả tính toán)
Thực tế trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi NSNN là khá
cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ
lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004:
8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
21
Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN
từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm
ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng
thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.
(Xem đồ thị 4)
Biểu đồ 4: Bội chi NSNN từ 1996 -2008 (Nguồn: Bộ Tài chính)
Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm chúng ta đang phải kích cầu
đầu tư. Nếu so sánh tổng chi NSNN so với GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN
đã chi một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối.
Như trên đã phân tích, bội chi NSNN tăng cao thể hiện chính sách tài khoá lỏng
lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá mức có thể
của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi NSNN bằng phát hành thêm tiền thì trực tiếp

tác động gây ra lạm phát, vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị
trường như giai đoạn từ năm 1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng
nguồn huy động từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị
trường trong nước. Điều này, có thể giải thích là do phần huy động từ vay nước ngoài
đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngoài về để
bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là
chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần
22
làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá
lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt
NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng
thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua
bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra
lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 5 cho
thấy, chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá
lớn trong chi tiêu của Chính phủ.
Biểu đồ 5: Chi NSNN so với GDP từ 2001 – 2007 (Nguồn: Bộ Tài chính)
Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu tiền
từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng
lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh
hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ
do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không
lớn bằng trực tiếp phát hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN.
Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực hiện một
chính sách tài khoá lỏng lẻo thể hiện tỷ lệ bội chi NSNN bằng khoảng 5% GDP hằng
23
năm, cộng với đó là phát hành trái phiếu, công trái giáo dục cho đầu tư. Hơn nữa,
chúng ta cũng đã có lúc phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, đầu tư cho một số công
trình lớn, phát hành tiền cho một số công việc… mà chưa thống kê hết. Đây chính là sự
tích tụ tiền tệ các năm trước đó góp một phần làm cho lượng tiền tệ trong lưu thông

tăng cao, thể hiện ở tốc độ tăng hệ số tạo tiền của nền kinh tế nước ta tăng trên 10%
hằng năm và tăng 79,2% năm 2007 so với năm 2001, trong khi cũng chỉ tiêu này các
nước chỉ tăng 1-3%/năm và tăng 10%-15% năm 2007 so với năm 2001.
1.5 Giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn 2005 – 2009, thâm hụt ngân sách Nhà nước ở nước ta đều tăng
qua các năm với tỷ lệ trung bình là 17.5%. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy
thâm hụt ngân sách Nhà nước trong 5 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó
khá nhiều (bình quân khoảng 5% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức thâm hụt
ngân sách Nhà nước so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở
mức 3,87% so với GDP. Năm 2008, thâm hụt ngân sách Nhà nước ở mức 66,2 ngàn tỷ
đồng. Theo dự toán, mức thâm hụt ngân sách năm 2009 là 87,3 ngàn tỷ đồng (4,82%
GDP). Dưới đây là biểu đồ thể hiện mức thâm hụt ngân sách Nhà nước trong 4 năm
2005 – 2008:
Biểu đồ 6 : Mức thâm hụt ngân sách trong 4 năm 2004- 2008
24
Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét thâm hụt ngân sách Nhà nước so với GDP thì chưa
thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây,
ngoài ngân sách Nhà nước được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư
các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính
phủ không cân đối vào ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo
dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một
lượng tiền lớn cân đối ngoài ngân sách Nhà nước. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối
ngân sách Nhà nước, thâm hụt ngân sách Nhà nước trong những năm qua không phải
chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
* Nguyên nhân:
Thứ nhất, gánh nặng chi tiêu của ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây
ngày càng gia tăng. Trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát thâm hụt
ngân sách Nhà nước từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng
tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ
cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Do vậy, gánh nặng thâm hụt cho

25

×