LờI Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam, đều thực hiện chính sách kinh tế thị trờng mở cửa. Chính điều
này đã tạo cho quá trình quốc tế hoá giao lu thơng mại, giao lu vốn đầu t và hợp tác
kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời tác động trực tiếp vào nền kinh tế của mỗi n-
ớc. Từ đó, kinh tế đối ngoại dần dần đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế của đất nớc. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nó còn có những tác
động xấu đến nền kinh tế trong nớc. Chính vì vậy, vấn đề quản lý kinh tế đối ngoại
trở nên vô cùng quan trọng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển vững mạnh và hạn
chế đợc những ảnh hởng tiêu cực có thể xảy ra.
Để có thể đề ra các chính sách quản lý kinh tế đối ngoại, các chính sách phát
triển kinh tế có hiệu quả, các nhà hoạch định chính sách luôn quan tâm đặc biệt đến
những diễn biến trong các cân thanh toán quốc tế vì nó phản ánh toàn bộ hoạt động
kinh tế đối ngoại của một nớc với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, để lập đợc
một bảng cán cân thanh toán đầy đủ, chính xác và kịp thời là một việc khó khăn do
phạm vi thu nhập số liệu khá rộng. Mặc dù số liệu cán cân thanh toán đợc thu thập
bằng các phơng pháp và kỹ thuật mẫu đáng tin cậy, nhng do nguồn cung cấp thông
tin quá đa dạng nên số liệu thống kê cuối cùng chỉ là con số ớc tính về giá trị cán cân
thanh toán quốc tế thực. Đồng thời để có thể phân tích, đánh giá đợc những diễn biến
trong cán cân thanh toán và đa ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán có
hiệu quả cũng là một việc rất khó. Thêm vào đó, đối với Việt Nam, việc thiết lập cán
cân thanh toán quốc tế mới chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1990 cho nên vẫn còn
nhiều hạn chế trong việc phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán. Chính vì vậy,
yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự nghiên cứu một cách sâu sắc cả về lý luận và
thực tiễn trong việc thiết lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, từ
đó đa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh của nền kinh tế
Việt Nam.
Trên cơ sở những kiến thức lý luận đợc học tại Học viện Ngân hàng cũng nh
qua nghiên cứu tài liệu về cán cân thanh toán quốc tế, em xin mạnh dạn chọn đề tài:
Thặng d và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế - Các biện pháp điều chỉnh
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho khoá luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Phân tích cơ sở lý luận của việc xác định thặng d hay thâm hụt cán cân thanh
toán quốc tế và việc điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
- Phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh tại Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
- Trên cơ sở các phân tích trên đề ra các biện pháp điều chỉnh các cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam hiện nay.
3. Đối t ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
thiết lập cán cân thanh toán quốc tế, xác định thặng d hay thâm hụt cán cân thanh
toán quốc tế và các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
+ Về mặt lý thuyết: Phân tích cơ sở lý luận của việc xây dựng cán cân thanh toán
quốc tế, tình trạng thặng d hay thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và các cơ chế
điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
+ Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay. Từ đó đề ra các biện pháp điều chỉnh cán cân
thanh toán quốc tế thích hợp đảm bảo sự phát triển cân đối cả bên trong và bên ngoài
của nền kinh tế.
4. Ph ơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phơng pháp so sánh, tổng hợp và phân tích, kết hợp những kết
quả thống kê với vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khoá luận
bao gồm 3 chơng:
Chơng 1: Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc tế và điều chỉnh
Chơng 2: Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh tại Việt Nam
Chơng 3: Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Mặc dù em đã có nhiều cố gắng để đạt đợc kết quả nghiên cứu nh đã trình bày,
song do trình độ có hạn và thiếu kinh nghiệm thực tế nên khoá luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Do vậy, em rất mong đợc sự góp ý của các thầy cô và các bạn
để khoá luận đợc hoàn thiện và nâng cao hơn nữa. Em cũng xin cảm ơn giáo viên h-
ớng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng Hải và các thầy cô giáo trong khoa Tiền tệ Tín
dụng Quốc tế đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Chơng 1
Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc
tế và điều chỉnh
1.1.Cán cân thanh toán quốc tế
1.1.1.Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
Để phục vụ cho việc thiết lập, phân tích và điều chỉnh, theo quan điểm của Quĩ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), cán cân thanh toán quốc tế có thể đợc định nghĩa nh sau:
Cán cân thanh toán quốc tế là một bản thống kê đợc tổng hợp một cách có hệ
thống các giao dịch kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế giới trong
một khoảng thời gian nhất định. Các giao dịch, chủ yếu giữa ngời cu trú và ngời
không c trú, bao gồm các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và thu nhập; các giao dịch
về các tài sản và các khoản nợ tài chính đối với phần còn lại của thế giới; và các giao
dịch (nh quà tặng ) đợc xếp loại chuyển giao, mà đòi hỏi phải có các bút toán bù đắp
để cân bằng - theo ý nghĩa kế toán- các giao dịch một chiều. Bản thân một giao dịch
đợc nhìn nhận nh một luồng kinh tế phản ánh sự phát sinh, sự biến đổi, sự trao đổi,
sự chuyển giao, hay sự thanh toán các giá trị kinh tế và dẫn đến những thay đổi về
quyền sở hữu hàng hoá hay các tài sản tài chính, cung cấp các dịch vụ, hay cung cấp
lao động và vốn.
Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế của một nớc là bản ghi chép có hệ thống
tất cả các giao dịch kinh tế giữa những ngời c trú của nớc lập báo cáo và những ngời
c trú ở phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định (thờng là 1
năm).
Để nhất quán các nội dung phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế, IMF đã
quy định chỉ ghi chép vào cán cân thanh toán của mỗi quốc gia các giao dịch kinh tế
giữa ngời c trú với ngời không c trú của quốc gia đó. Mọi giao dịch kinh tế giữa
ngời c trú với nhau của cùng một quốc gia không đợc phản ánh trong cán cân thanh
toán quốc tế.
Khi thống kê cán cân thanh toán, việc phân biệt giữa ngời c trú và ngời không
c trú là rất cần thiết do mối quan hệ giữa hệ thống tài khoản quốc gia và cán cân
thanh toán. Nhìn chung, khái niệm ngời c trú và ngời không c trú đợc hiểu theo luật
định của từng quốc gia cụ thể và nó tơng đối thống nhất giữa các quốc gia. ở Việt
Nam, vấn đề này đợc quy định rõ trong Nghị định số 164/NĐ-CP ngày 16/11/1999.
Ngời c trú và ngời không c trú ở đây bao gồm các cá nhân, các hộ gia đình,
các công ty, các cơ quan đại diện cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế... Căn cứ để
phân biệt giữa ngời c trú và ngời không c trú chủ yếu dựa vào khoảng thời gian sinh
sống làm việc liên tục cần thiết phải có tại một quốc gia ( thờng là một năm trở lên).
Về nguyên tắc, tổ chức hoặc ngời nớc ngoài sinh sống và làm việc ở nớc sở tại
từ một năm trở lên đợc coi là ngời c trú của nớc đó. Ngợc lại, tổ chức hoặc ngời của
nớc sở tại sinh sống và làm việc ở nớc ngoài từ một năm trở lên đợc coi là ngời
không c trú ở nớc đó. Tuy nhiên cũng có những trờng hợp đặc biệt nh các công dân
của nớc khác đến học tập, du lịch, chữa bệnh và thăm viếng không kể thời gian dài,
ngắn bao nhiêu, đều đợc coi là ngời không c trú (chỉ tạm trú). Ngợc lại, các công dân
đi học tập, du lịch, chữa bệnh và thăm viếng ở nớc ngoài không kể thời gian dài,
ngắn vẫn đợc coi là ngời c trú. Đối với các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự, lực lợng vũ trang của nớc sở tại hoạt động ở nớc ngoài cũng vậy, vẫn đợc coi là
ngời c trú của nớc đó mà không phụ thuộc vào thời gian sinh sống và làm việc tại nớc
ngoài.
Đối với các công ty đa quốc gia có chi nhánh ở nhiều nớc sẽ là ngời c trú đồng
thời tại nhiều quốc gia. Tuy vậy, để tránh trùng lặp thì chi nhánh đặt ở nớc nào đợc
coi là ngời c trú của nớc đó.
Còn đối với các tổ chức quốc tế nh Liên Hợp Quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB)... thì không đợc coi là những ngời c trú của quốc
gia nơi mà chúng đóng trụ sở. Tức là các tổ chức này đợc xem nh là ngời không c trú
đối với mọi quốc gia. Do đó, các giao dịch kinh tế của chúng với ngời c trú của nớc
sở tại đợc ghi chép vào cán cân thanh toán của nớc đó.
Vậy, giao dịch kinh tế giữa ngời c trú và ngời không c trú bao gồm các giao
dịch sau: các giao dịch về hàng hoá và dịch vụ; thu nhập của ngời lao động; đầu t
trực tiếp; đầu t chứng khoán nh tín phiếu, trái phiếu và cổ phiếu; quan hệ tín dụng;
các hình thức đầu t và các giao dịch khác làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản
nợ giữa ngời c trú và ngời không c trú; các khoản chuyển giao một chiều.
1.1.2. Nội dung cán cân thanh toán quốc tế
Trớc đây, mỗi quốc gia biên lập cán cân thanh toán quốc tế theo cách riêng
của mình. Mỗi chính phủ thờng có cơ quan riêng nhằm thực hiện công việc thống kê
liên quan đến cán cân thanh toán. Do không có mẫu và phơng pháp thống nhất để
thống kê cán cân thanh toán cho nên mỗi quốc gia có phơng pháp đo lờng và trình
bầy cán cân thanh toán khác nhau. Chính vì vậy, để có thể so sánh tình hình cán cân
thanh toán giữa các quốc gia với nhau, hiện nay IMF đã công bố một mẫu cán cân
thanh toán quốc tế thống nhất cho tất cả các nớc thành viên. Theo IMF, cán cân
thanh toán quốc tế bao gồm những khoản mục chủ yếu sau:
1.1.2.1.Cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai còn đợc gọi là tài khoản vãng lai, là một trong những bộ phận
chính hình thành bảng cán cân thanh toán của một nớc. Cán cân này phản ánh toàn
bộ các giao dịch kinh tế giữa ngời c trú và ngời không c trú về hàng hoá, dịch vụ, thu
nhập và chuyển giao vãng lai một chiều. Do vậy, cán cân vãng lai đợc chia thành bốn
hạng mục chi tiết là: hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều.
Hạng mục hàng hoá
Hạng mục hàng hoá hạch toán các khoản thu, chi về xuất nhập khẩu hàng hoá
trong kỳ. Chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu hàng hoá và các khoản chi để
nhập khẩu hàng hoá đợc gọi là cán cân thơng mại hay xuất khẩu hàng hoá ròng.
Thông thờng, đây là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân
vãng lai. Hàng hoá ở đây bao gồm: hàng hoá thông thờng; hàng hoá gia công, chế
biến; hàng nhiên liệu và hàng mua tại cảng; hàng sửa chữa; hàng viện trợ; vàng phi
tiền tệ, các kim loại quý và đá quý; hàng quân sự. Giá trị kim ngạch ghi vào cán cân
thơng mại đợc đánh giá theo giá FOB nếu là hàng xuất khẩu và theo giá CIF nếu là
hàng nhập khẩu. Tỷ giá sử dụng là tỷ giá tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.
Hạng mục dịch vụ
Hạng mục dịch vụ hạch toán các khoản thu, chi về xuất nhập khẩu các loại
hình dịch vụ. Chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu dịch vụ và các khoản chi
để nhập khẩu dịch vụ đợc gọi là cán cân dịch vụ hay xuất khẩu dịch vụ ròng. Theo
IMF, hạng mục dịch vụ có thể phân loại chi tiết nh sau:
+ Dịch vụ vận tải (hàng hải, hàng không...) bao bồm: cớc phí thuê các phơng
tiện chuyên chở có kèm đội lái, cớc phí chuyên chở, cớc phí thuê kho chứa, bến bãi,
bảo hiểm...
+ Dịch vụ du lịch bao gồm: chi phí đi lại; chi phí thuê khách sạn, nhà nghỉ; chi
phí ăn uống, mua sắm và các loại chi phí du lịch khác.
+ Dịch vụ bảo hiểm
+ Dịch vụ bu chính, viễn thông, thông tin và tin học.
+ Các dịch vụ Tài chính- Ngân hàng
+ Các dịch vụ xây dựng
+ Các dịch vụ khác giữa ngời c trú và ngời không c trú nh các giao dịch của
các đại sứ quán, các nhà t vấn, các cơ quan quân sự và quốc phòng; các giao dịch với
các cơ quan khác nh: phái đoàn viện trợ, các phái đoàn du lịch chính phủ, thông tin
và các văn phòng thúc đẩy thơng mại; các chi phí bản quyền và giấy phép kinh
doanh; các dịch vụ phục vụ cá nhân.
Tuỳ theo điều kiện của từng quốc gia mà có thể cán cân thơng mại hoặc cán
cân dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng doanh số của cán cân vãng lai. Nhng
trong những năm gần đây, doanh số xuất nhập khẩu các loại hình dịch vụ tăng lên
nhanh chóng so với doanh số xuất nhập khẩu hàng hoá. Các loại hình dịch vụ có tốc
độ tăng trởng nhanh bao gồm: du lịch, vận tải biển, bu chính viễn thông, tài chính
ngân hàng.
Hạng mục thu nhập
Hạng mục thu nhập bao gồm:
+ Thu nhập của ngời lao động là các khoản thu từ lao động gồm các khoản
tiền lơng, tiền thởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hoặc là bằng hàng hoá do
ngời không c trú trả cho ngời c trú.
+ Thu nhập đầu t là các khoản thu từ vốn gồm: các khoản lợi nhuận từ đầu t
trực tiếp; các khoản lãi từ đầu t vào giấy tờ có giá; thu nhập đầu t khác nh các khoản
lãi đến hạn phải trả của các khoản vay (ngắn hạn, dài hạn) giữa ngời c trú và ngời
không c trú.
Trong thống kê cán cân thanh toán, thu nhập từ việc cung cấp các tài sản phi tài
chính, phi sản xuất nh bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu thơng mại... đợc đa vào
hạng mục dịch vụ, không đa vào phần thu nhập đầu t.
Hạng mục chuyển giao vãng lai một chiều
Hạng mục chuyển giao vãng lai một chiều ghi chép các khoản chuyển giao
không hoàn lại cho mục đích tiêu dùng do ngời không c trú chuyển cho ngời c trú và
ngợc lại. Bao gồm:
+ Các khoản viện trợ, quà tặng, quà biếu nh: quà tặng về thực phẩm, quần áo,
thuốc men và hàng hoá tiêu dùng khác của các chính phủ với mục đích cứu trợ; các
khoản viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (tổ chức chữ thập đỏ quốc tế) bằng tiền
hoặc bằng hàng trợ giúp dới hình thức kỹ thuật...
+ Các khoản chuyển giao khác bằng tiền hoặc hiện vật nh chuyển tiền của ng-
ời lao động ở nớc ngoài gừi về cho gia đình, tiền lơng trả cho c dân nớc ngoài...
Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều này phản ánh sự phân phối lại thu
nhập giữa ngời c trú và ngời không c trú.
1.1.2.2. Cán cân vốn và tài chính (loại trừ dự trữ quốc tế)
Cán cân vốn và tài chính còn gọi là tài khoản vốn và tài chính. Cán cân này
ghi chép các dòng vốn ra và vào của một quốc gia, tức là nó phản ánh sự chuyển dịch
t bản (vốn) của một nớc với các nớc khác. Các luồng vốn chuyển dịch bao gồm:
+ Luồng vốn ngắn hạn: là những luồng vốn giao dịch kéo dài dới 12 tháng. Nó
gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là tín dụng thơng mại ngắn hạn, tín dụng
ngắn hạn của ngân hàng, các hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn
hạn, kinh doanh ngoại hối... Ngày nay, luồng vốn ngắn hạn có ảnh hởng đáng kể đến
cán cân thanh toán quốc tế nói chung của một quốc gia do các luồng vốn đầu cơ tăng
lên nhanh chóng trong môi trờng tự do hoá tài chính.
+ Luồng vốn dài hạn: là những luồng vốn giao dịch kéo dài trên 12 tháng gồm
các khoản mua, bán tài sản cố định ở nớc ngoài (nhà xởng, hầm mỏ, đất đai...), mua
bán các giấy tờ có giá dài hạn; các khoản đi vay và cho vay dài hạn...
+ Chuyển giao vốn một chiều: gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cho
mục đích đầu t; các khoản nợ đợc xoá giữa ngời c trú và không c trú; các loại tài sản
bằng tiền, hiện vật của ngời c trú di c mang ra nớc ngoài và của ngời không c trú di
c mang vào trong nớc lập báo cáo.
Cán cân vốn và tài chính đợc chia thành cán cân vốn và cán cân tài chính. Cán
cân vốn bao gồm hai hạng mục: chuyển giao vốn và các giao dịch về tài sản phi tài
chính, phi sản xuất. Căn cứ theo chức năng, cán cân tài chính đợc chia thành các
phần sau đây: đầu t trực tiếp nớc ngoài, đầu t vào giấy tờ có giá (nh cổ phiếu, trái
phiếu dài hạn, trái phiếu ngắn hạn, các công cụ thị trờng tiền tệ và các công cụ tài
chính phái sinh) và đầu t khác (gồm những khoản vay nợ dài hạn - trung hạn - ngắn
hạn, tín dụng thơng mại, các khoản tiền gửi và các tài sản có, tài sản nợ khác.
Thông thờng, để thuận tiện trong việc theo dõi tình trạng của cán cân thanh
toán quốc tế, ngời ta tổng hợp cán cân vãng lai với cán cân vốn và tài chính vào một
cán cân chung đợc gọi là cán cân tổng thể. Kết quả của cán cân tổng thể này thể hiện
tình trạng kinh tế đối ngoại của một quốc gia trong một thời kỳ (hoặc tại một thời
điểm) nhất định.
1.1.2.3. Khoản mục dự trữ chính thức
Khoản mục dự trữ chính thức còn đợc gọi là tài khoản dự trữ chính thức, bao
gồm: vàng tiền tệ, ngoại hối, quyền rút vốn đặc biệt, dự trữ tại IMF và tài sản có nớc
ngoài khác. Khoản mục này phản ánh những thay đổi về các tài sản dự trữ chính thức
của một quốc gia. Các tài sản dự trữ chính thức là các tài sản tài chính nớc ngoài nằm
trong tay các cơ quan quản lý tiền tệ trong nớc (Ngân hàng Trung ơng - NHTƯ) để
tài trợ và điều hoà sự mất cân đối trong cán cân thanh toán. Tức là NHTƯ thờng dự
trữ một khoản ngoại hối nhất định nhằm điều chỉnh tỷ giá khi tỷ giá có nguy cơ biến
đổi ngoài mong muốn. Khi số d tài khoản vãng lai và tài khoản vốn là âm thì NHTƯ
phải rút từ quỹ dự trữ ngoại hối, vay NHTƯ nớc ngoài hoặc IMF để bù đắp (ghi dấu
dơng trong cán cân thanh toán). Và ngợc lại, khi số d tài khoản vãng lai và tài khoản
vốn là dơng thì NHTƯ có nguồn để tăng dự trữ ngoại hối, trả nợ nớc ngoài hoặc trả
nợ IMF (ghi dấu âm trong cán cân thanh toán).
Tóm lại, giá trị của tài khoản dự trữ chính thức đúng bằng với kết quả của cán
cân tổng thể nhng ngợc dấu. Thực tế đây là một dạng cân đối tài khoản kế toán để
tổng các hạng mục trong cán cân thanh toán quốc tế phải bằng không. Nhìn vào hạng
mục này, có thể thấy ngay dự trữ ngoại hối của một quốc gia đợc tăng thêm hay giảm
đi.
Ngoài các khoản mục nêu trên, trong cán cân thanh toán quốc tế còn có một
khoản mục nữa đợc gọi là lỗi và sai sót thống kê. Khoản mục này đợc đa vào cán cân
thanh toán để đảm bảo sự cân bằng kế toán đáp ứng nguyên tắc kế toán (tổng nợ
bằng tổng có). Số d của khoản mục này nếu có là do sự sai lệch về thống kê do nhầm
lẫn, bỏ sót hoặc không thu thập đợc số liệu trong các hạng mục của cán cân thanh
toán. Số d này sẽ bằng không nếu tất cả các khoản mục trong cán cân thanh toán
quốc tế đã đợc thống kê chính xác. Giá trị của khoản mục này nếu đợc ghi, chỉ là ớc
tính sự thay đổi về giá trị của t bản đầu t, tái đầu t, về giá cả khi hạch toán (giữa giá
CIF và giá FOB).
1.1.3. Nguyên tắc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan
trọng, nó phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nớc với phần còn lại
của thế giới. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác nh
bảng cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy,
khi thiết lập cán cân thanh toán quốc tế cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc hạch toán kép:
Theo quan điểm kế toán, cán cân thanh toán quốc tế luôn cân bằng. Bởi vì, một
giao dịch quốc tế đợc hạch toán trong cán cân thanh toán theo nguyên tắc ghi sổ kép
giống nh các hạch toán kế toán ở các công ty kinh doanh. Nghĩa là một khoản giao
dịch giữa ngời c trú và ngời không c trú đợc ghi hai lần trong cán cân thanh toán: một
ghi nợ và một ghi có (đối ứng) với giá trị nh nhau.
+ Ghi nợ: trong trờng hợp phải chi trả cho nớc ngoài, nghĩa là những giao dịch
làm cho quỹ tiền tệ ở trong nớc (của chính phủ hoặc t nhân) giảm đi. Trong cán cân
thanh toán, những khoản này đợc mang dấu âm (-).
+ Ghi có: trong trờng hợp nhận đợc chi trả từ nớc ngoài, tức là những khoản giao
dịch mang về cho quốc gia một lợng ngoại tệ nhất định. Trong cán cân thanh toán,
những khoản này đợc mang dấu dơng (+).
Nhìn chung, những khoản ghi dấu âm (ghi nợ) thể hiện việc mua thực tế ngoại
tệ đợc thực hiện bởi những ngời c trú nhằm chi trả cho những nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ, tiền tệ và các tài sản khác từ nớc ngoài. Nó phản ánh luồng vốn ra của một
quốc gia. Tơng tự, những khoản ghi dấu dơng (ghi có) thể hiện việc bán thực tế
những ngoại tệ thu đợc của ngời c trú do xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và các tài sản
khác. Nó phản ánh luồng vốn vào của một quốc gia.
Nguyên tắc hạch toán trên cơ sở số phát sinh
Nguyên tắc này đảm bảo rằng các giao dịch quốc tế đợc hạch toán tại thời điểm
mà giá trị kinh tế đợc tạo ra, đợc chuyển giao và trao đổi. Bởi vì, khi hạch toán các
giao dịch quốc tế trong cán cân thanh toán, chúng ta sử dụng số đến hạn chứ không
phải số thực trả. Hơn nữa, nguyên tắc này còn tạo điều kiện thuận lợi trong việc phân
tích mối quan hệ qua lại giữa khu vực tài chính và các khu vực khác trong nền kinh
tế.
Nguyên tắc hạch toán trị giá toàn bộ và trị giá ròng
Các hạng mục của cán cân vãng lai đợc đánh giá trên cơ sở trị giá toàn bộ để phù
hợp với mối quan hệ giữa các giao dịch của cán cân vãng lai với hệ thống tài khoản
quốc gia.
Các hạng mục của cán cân vốn và tài chính không kể đầu t trực tiếp, đợc đánh giá
trên cơ sở trị giá ròng. Bởi vì, chúng ta không có số liệu trên cơ sở trị giá toàn bộ và
có những thay đổi của Bảng tổng kết tài sản đợc đa vào cán cân vốn và tài chính trên
cơ sở trị giá ròng.
Nguyên tắc định giá các giao dịch
Trị giá các giao dịch quốc tế ghi trong cán cân thanh toán đều đợc tính theo giá
thị trờng. Xét từ góc độ cán cân thanh toán, giá thị trờng là số tiền mà ngời mua sẵn
sàng bỏ ra để mua một loại hàng hoá nào đó từ ngời bán. Theo định nghĩa này, giá
thị trờng là giá của một giao dịch cụ thể trong các các điều kiện nhất định. Tuy
nhiên, đối với các hàng hoá xuất nhập khẩu thì trị giá giao dịch không bao gồm chí
phí vận tải, bảo hiểm. Các chi phí này đợc ghi chép trong hạng mục dịch vụ.
Các thời kỳ và thời gian ghi chép
Về nguyên tắc, thời kỳ để ghi chép các dòng giao dịch của cán cân thanh toán có
thể có độ dài bất kỳ. Còn về độ dài của khoảng thời gian ghi chép thì còn phụ thuộc
vào tần số thu thập số liệu. Cho nên, tuỳ thuộc vào từng quốc gia mà thời gian ghi
chép đợc tính theo năm hoặc theo quý. Nhng vẫn phải tuân theo quy tắc cả hai bên
trong giao dịch quốc tế đều ghi chép giao dịch này khi có sự thay đổi hợp pháp về
quyền sở hữu.
Đơn vị tiền tệ hạch toán và tỷ giá quy đổi
Đồng tiền đợc sử dụng để ghi chép hạch toán trong cán cân thanh toán quốc tế tuỳ
thuộc vào địa vị tiền tệ của từng quốc gia. Nhng để thuận tiện cho việc so sánh đối
chiếu giữa các nớc và cũng gần nh là thông lệ quốc tế, các nớc thờng sử dụng đồng
đô la Mỹ (USD). Tỷ giá quy đổi (tỷ giá trên thị trờng hiện hành thời gian hạch toán)
đợc sử dụng để chuyển đổi các số liệu trong các giao dịch sang số liệu tính toán.
1.2. Vấn đề thặng d và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế
1.2.1. Khái niệm về mất cân bằng cán cân thanh toán (thặng d và thâm hụt)
Xét từ góc độ hạch toán, cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia luôn
luôn đợc cân bằng vì nó đợc lập theo nguyên tắc bút toán kép. Tức là, trong cán cân
thanh toán, tổng các bút toán ghi có đúng bằng tổng các bút toán ghi nợ. Tuy nhiên,
cán cân thanh toán luôn cân bằng không có nghĩa là tất cả các cán cân thành phần
đều phải trong trạng thái cân bằng. Ví dụ, cán cân vãng lai có thể thâm hụt trong khi
cán cân vốn và tài chính thặng d. Vì vậy, khi xem xét khái niệm thặng d hay thâm
hụt cán cân thanh toán, các nhà kinh tế luôn phải phân biệt các giao dịch tự định và
các giao dịch điều chỉnh. Bởi vì, về nguyên tắc, các giao dịch đợc ghi trong cán cân
thanh toán đợc chia thành hai loại chính: các khoản giao dịch tự địnhvà các khoản
giao dịch tự điều chỉnh.
+ Giao dịch tự định là những giao dịch đợc thực hiện vì lợi ích bản thân chúng. Các
tài khoản giao dịch tự định ghi các giao dịch độc lập, không phụ thuộc vào trạng thái
cán cân thanh toán của nớc lập báo cáo. Các giao dịch trong cán cân vãng lai và cán
cân vốn do các hộ gia đình, các công ty, cơ quan chính phủ trung ơng và địa phơng
thực hiện đợc xếp vào các giao dịch tự định.
+ Giao dịch điều chỉnh là những giao dịch không đợc thực hiện vì lợi ích bản thân
nó. Hay nói cách khác, tất cả các giao dịch do cơ quan tiền tệ tiến hành nhằm cân
bằng cán cân thanh toán chính là các giao dịch điều chỉnh. Các tài khoản giao dịch
điều chỉnh ghi chép các giao dịch để bù đắp cho chênh lệch của các giao dịch tự
định.
Nh vậy, cán cân thanh toán thặng d khi tổng số các khoản thu tự định (những
khoản ghi có) lớn hơn tổng số các khoản chi tự định (những khoản ghi nợ). Tức là
khi đó số tổng số d của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn dơng. Và cán cân thanh
toán thâm hụt khi tổng số các khoản thu tự định nhỏ hơn tổng số các khoản chi tự
định. Tức là khi đó tổng số d của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn âm. Còn khi số
d của các giao dịch tự định bằng không có nghĩa là tổng số các khoản thu tự định
bằng tổng số các khoản chi tự định thì cán cân thanh toán cân bằng.
Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng, thặng d hay thâm hụt đều đợc
xác định bằng chênh lệch giữa tổng số những khoản thu tự định và tổng số những
khoản chi tự định.
+ Thu tự định = Chi tự định cán cân thanh toán cân bằng
+ Thu tự định > Chi tự định thặng d cán cân thanh toán
+ Thu tự định < Chi tự định thâm hụt cán cân thanh toán
Do cán cân thanh toán là một đồng nhất thức nên ta có:
Tổng các giao dịch tự định + Tổng các giao dịch điều chỉnh = 0
hay Tổng các giao dịch tự định = - Tổng các giao dịch điều chỉnh
Do đó, đo lờng sự mất cân bằng cán cân thanh toán cũng có thể xác định nh là
số âm của chênh lệch giữa các khoản thu và chi của giao dịch điều chỉnh.
Tuy nhiên, trong thực tế, để phân biệt đợc giao dịch tự định và giao dịch điều
chỉnh là hết sức khó khăn. Vấn đề là ở chỗ những giao dịch kinh tế nào đợc xếp vào
loại giao dịch tự định và những giao dịch kinh tế nào đợc xếp vào loại giao dịch điều
chỉnh. Bất đồng trong quan điểm về vấn đề này dẫn đến xác định trạng thái cán cân
thanh toán (thâm hụt hay thặng d) không đồng nhất. Khó khăn trong xác định tính tự
định hay tính điều chỉnh của giao dịch kinh tế xuất phát từ thực tế khó có thể xác
định chính xác động cơ của giao dịch. Ví dụ, nếu dòng vốn ngắn hạn đầu t vào thị tr-
ờng nội địa do lãi suất nội địa cao hơn lãi suất nớc ngoài thì khi đó dòng vốn ngắn
hạn thuộc loại tự định. Tuy nhiên, nếu dòng vốn ngắn hạn đó đợc vay để tài trợ cho
hoạt động nhập khẩu thì đợc xếp vào tài khoản điều chỉnh. Chính khó khăn này làm
nảy sinh các khái niệm khác nhau về mất cân bằng cán cân thanh toán. Nói chung,
để phản ánh trạng thái của cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia, ngời ta th-
ờng dùng cán cân tổng thể (tổng hợp cán cân vãng lai với cán cân vốn và tài chính).
Còn đối với các nớc đang phát triển thì ngời ta lại quan tâm nhiều hơn tới cán cân
vãng lai mà cụ thể là cán cân thơng mại.
1.2.2. Phân loại mất cân bằng cán cân thanh toán
Căn cứ vào bản chất, ngời ta chia mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
thành hai loại: mất cân bằng tạm thời và mất cân bằng cơ bản.
Về nguyên tắc, mất cân đối tạm thời thờng chỉ diễn ra trong một thời gian
ngắn, do các xáo trộn ngoại lai có tính chất thời vụ hay tính chu kỳ. Mất cân đối tạm
thời có khả năng và có thể đợc tài trợ bằng cách thay đổi dự trữ quốc tế. Chẳng hạn
nh trong trờng hợp thâm hụt cán cân thanh toán tạm thời quốc gia đó có thể rút ngoại
tệ từ quỹ dự trữ ngoại hối để bù đắp.
Mặt khác, mất cân bằng cơ bản lại mang tính thờng xuyên, nó có xu hớng kéo
dài, dai dẳng. Nguyên nhân chính dẫn đến mất cân đối cơ bản là do sự mất cân đối
sâu sắc trong nền kinh tế các nớc. Trong trờng hợp thâm hụt cơ bản, quốc gia đó có
thể thoả thuận với IMF phá giá đồng tiền với mục đích giải quyết thâm hụt và vay
ngoại tệ để tài trợ cho việc thực hiện chính sách đó. Trong trờng hợp phải đối phó với
thâm hụt cơ bản, một nớc có thể phá giá đồng tiền trong khoảng dới 10% mà IMF có
thể không phản đối. Nhng trong trờng hợp phá giá nhiều hơn 10% thì phải đợc sự
thống nhất của IMF. Chính vì vậy, đối với mất cân bằng cơ bản thì cần có một sự
điều chỉnh thật sự. Quá trình điều chỉnh các mất cân đối cơ bản của cán cân thanh
toán quốc tế đợc thực hiện thông qua cơ chế điều chỉnh nh thu nhập, tiền tệ và tỷ giá.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân biệt giữa mất cân đối tạm thời và mất cân
đối cơ bản là rất khó. Cho nên, các quốc gia cần thực hiện việc phân tích tình trạng
cán cân thanh toán quốc tế một cách sâu sắc nhằm đa ra đợc các biện pháp, cơ chế
điều chỉnh mất cân bằng cán cân thanh toán cho phù hợp với từng thời kỳ.
1.2.3. Mất cân bằng cán cân vãng lai - mục tiêu điều chỉnh của các nớc đang
phát triển.
Tình trạng cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu đợc trong
phân tích kinh tế vĩ mô đối với các nền kinh tế mở. Nó phản ánh đúng năng lực sản
xuất hay khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế. Đặc biệt, nó có khả năng ảnh h-
ởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế nh tỷ giá,
lạm phát, tăng trởng kinh tế nội địa và nớc ngoài. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia
đặc biệt là các nớc đang phát triển đều quan tâm đến việc phân tích cán cân vãng lai
để có thể đa ra các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Nh chúng ta đã biết, cán cân vãng lai đo lờng các giao dịch kinh tế của một n-
ớc với phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao một
chiều. Hay nói cách khác, nó là tổng chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ (X-M), cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nớc ngoài (NF) và chuyển
khoản ròng từ nớc ngoài (NTR). Nh vậy, cán cân vãng lai (CA) sẽ bằng: CA = X-M
+ NF + NTR
+ Cán cân vãng lai thặng d khi: X-M + NF + NTR > 0
+ Cán cân vãng lai thâm hụt khi: X-M + NF + NTR < 0
+ Cán cân vãng lai cân bằng khi: X-M + NF + NTR = 0
Nếu thặng d, có nghĩa là thu nhập của ngời c trú từ ngời không c trú lớn hơn so
với chi cho ngời không c trú. Hay nói cách khác, quốc gia này tăng thu nhập từ nớc
ngoài, từ đó tăng tích luỹ tài sản quốc tế ròng.
Nếu thâm hụt, có nghĩa là thu nhập của ngời c trú từ ngời không c trú thấp hơn
so với chi cho ngời không c trú. Hay nói cách khác, quốc gia này đang giảm thu nhập
từ nớc ngoài tức là giảm dần ngoại tệ hoặc tích luỹ thêm nghĩa vụ nợ nớc ngoài.
Tuy vậy, mặc dù cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của một
quốc gia đối với phần thế giới còn lại tăng lên nhng không phải bao giờ cũng xấu.
Đôi khi thiếu hụt tài khoản vãng lai còn thể hiện sự thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào
để phát triển sản xuất tăng xuất khẩu và tăng sản lợng. Không phải mọi sự thiếu hụt
cán cân vãng lai đều đa đến một cuộc khủng hoảng. Điều đó còn phụ thuộc vào khả
năng chịu đựng thiếu hụt của cán cân vãng lai trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế.
Để có thể đánh giá đợc khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai cuả một quốc gia thì
ta phải dựa vào khả năng thanh toán của quốc gia đó.
Khả năng thanh toán của một quốc gia là khả năng tạo ra thặng d cán cân
vãng lai trong tơng lai (không bao gồm các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả nợ hiện có
của quốc gia đó. Tức là, thâm hụt hiện tại cha hẳn đã là kết quả xấu nếu đảm bảo
thặng d trong tơng lai. Trên quan điểm này, cũng cần quan tâm tới cơ cấu hàng hoá
nhập khẩu trong cán cân thanh toán. Nếu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn trong
kim ngạch nhập khẩu thì đây có thể là một dấu hiệu không tốt. Nhng nếu máy móc,
thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn thì cơ cấu này có thể đảm bảo
thúc đẩy xuất khẩu trong tơng lai, tạo ra thặng d ngoại tệ bù dắp thâm hụt cán cân
vãng lai. Để đánh giá đợc khả năng thanh toán của một quốc gia (hay khả năng chịu
đựng của cán cân vãng lai), ngời ta thờng dùng các chỉ số kinh tế vĩ mô nh: tỷ lệ xuất
khẩu so với GDP, tỷ giá hối đoái thực tế, tiết kiệm và đầu t nội địa, cán cân ngân
sách... Nh vậy là đối với một nền kinh tế có cơ sở xuất khẩu lớn, tỷ giá hối đoái thực
tế sát với tỷ giá thực, tỷ lệ tiết kiệm và đầu t cao, không có thâm hụt ngân sách lớn
thì những mất cân bằng lớn của cán cân vãng lai ít có khả năng gây ra khủng hoảng
kinh tế nghiêm trọng. Còn nếu một quốc gia bị thâm hụt cán cân vãng lai trong tình
trạng lạm phát cao, tăng trởng thấp thì hậu quả của thâm hụt sẽ là vấn đề đáng lo
ngại hơn rất nhiều so với khi quốc gia đó đang trong tình trạng tăng trởng cao và lạm
phát thấp.
Ngoài ra, số d cán cân vãng lai là số d của tất cả các hạng mục trong cán cân
vãng lai (cán cân thơng mại, dịch vụ, thu nhập, chuyển giao vãng lai một chiều) và
bằng tổng tất cả các khoản mục tài trợ cho cân bằng tài khoản vãng lai. Xét trên ý
nghĩa kinh tế vĩ mô rộng hơn thì cán cân vãng lai phản ánh chênh lệch giữa tổng thu
nhập quốc dân khả dụng (GNDI) và tổng chi tiêu (hấp thụ) của nền kinh tế, hay
chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu t của một quốc gia. Điều này chứng tỏ rằng cán cân
vãng lai có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố khác trong nền kinh tế. Những mối
liên hệ này càng nhấn mạnh hơn tầm quan trọng của cán cân vãng lai với vai trò là
trung tâm kết nối nền kinh tế trong nớc với phần còn lại của thế giới. Chính vì vậy,
tình trạng thặng d hay thâm hụt cán cân vãng lai có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với việc phát triển kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia và là mục tiêu điều chỉnh của
các quốc gia đang phát triển trên thế giới.
1.3. Vấn đề điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế
1.3.1. Các cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế
1.3.1.1. Cơ chế điều chỉnh tỷ giá
Các quốc gia khác nhau áp dụng chế độ tỷ giá khác nhau tuỳ thuộc vào tình
trạng nền kinh tế của mỗi nớc và mức độ kiểm soát tỷ giá của chính phủ. Một quốc
gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi tức là quốc gia đó cho phép đồng tiền của nó tự do
tăng hay giảm trên thị trờng nhằm phản ứng lại những thay đổi trong cung cầu đồng
tiền. Ngợc lại, một quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá cố định tức là mọi tỷ giá hối đoái
đều do chính phủ đặt ra và điều chỉnh trong ngắn hạn. Hành động thay đổi tăng hay
giảm tỷ giá (tăng hay giảm giá trị đồng ngoại tệ) của chính phủ đợc gọi là phá giá
hay nâng giá đồng nội tệ. Sự thay đổi về giá của một đồng tiền dẫn đến làm thay đổi
giá trị trao đổi của đồng tiền đó.
Thực tế cho thấy, cán cân thanh toán quốc tế chịu chi phối bởi cơ chế điều
chỉnh tỷ giá. Mà việc áp dụng cơ chế điều chỉnh tỷ giá nh thế nào để có thể cải thiện
cán cân thanh toán của một quốc gia còn phụ thuộc vào chế độ tỷ giá của quốc gia
đó. Việc điều chỉnh tỷ giá tức là việc phá giá hay nâng giá đồng tiền có tác động
khác nhau đến cán cân thanh toán. Phá giá đồng tiền có xu hớng thúc đẩy cạnh tranh
quốc tế và góp phần làm giảm thâm hụt cán cân thanh toán của một nớc do nó giảm
đợc chi phí và giá cả. Nhng nó cũng có thể làm xấu đi cán cân thanh toán của một
quốc gia.
Có ba phơng pháp để xem xét trong điều kiện nào thì việc phá giá đồng tiền có
tác dụng cải thiện hay làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế, đó là: phơng pháp hệ
số co giãn (the elasticity approach), phơng pháp hấp thụ (the absorption approach) và
phơng pháp tiền tệ (the monetary approach).
Phân tích tác động của phá giá đồng tiền theo ph ơng pháp hệ số co giãn
Để xét sự thay đổi nhu cầu hàng hoá theo giá, ngời ta dựa vào hệ số co giãn nhu
cầu. Hệ số co giãn nhu cầu thể hiện sự đáp lại của ngời mua đối với những thay đổi
trong giá cả. Nó phản ánh phần trăm thay đổi trong số lợng nhu cầu phát sinh từ một
phần trăm thay đổi trong giá. Hệ số co giãn nhu cầu có thể đợc biểu thị nh sau: Hệ
số co giãn = (Q/Q)/(P/P)
(Trong đó, Q là số lợng nhu cầu (sản lợng),P là giá hàng hoá)
Phơng pháp hệ số co giãn đã nhấn mạnh những tác động của phá giá đến giá cả so
sánh và khẳng định rằng phá giá có tác động cải thiện cán cân thanh toán khi hệ số
co giãn cầu là cao. Cụ thể:
Cán cân thơng mại là một bộ phận của cán cân vãng lai, số d của nó đợc tính bằng
giá trị xuất khẩu trừ đi giá trị nhập khẩu. Việc phá giá đồng tiền đã ảnh hởng trực
tiếp đến các khoản thu xuất khẩu (tính bằng ngoại tệ) và các khoản chi nhập khẩu
(tính bằng nội tệ), tức là nó làm cho giá xuất khẩu giảm đi và giá nhập khẩu tăng lên.
Do đó, có thể dẫn đến số lợng xuất khẩu sẽ tăng lên và số lợng nhập khẩu sẽ giảm đi.
Tuy nhiên, điều này có xảy ra hay không còn tuỳ thuộc vào độ lớn của các hệ số co
giãn nhu cầu đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu của nớc phá giá khi giá thay đổi.
Hơn nữa, việc phá giá đồng tiền có cải thiện cán cân thơng mại hay không tuỳ thuộc
vào những khoản chi cho nhập khẩu tăng ít hơn hay nhiều hơn những khoản thu từ
nhập khẩu.
Để xác định hậu quả thực tế của phá giá đối với cán cân thơng mại ngời ta dựa
vào điều kiện Marshall-Lerner. Điều kiện này minh hoạ những tác động của phá giá
đồng tiền lên cán cân thơng mại của một quốc gia tuỳ theo sự thay đổi của hệ số co
giãn nhu cầu.
+ Nếu hệ số co giãn nhu cầu hàng nhập khẩu của nớc phá giá cộng với hệ số co
giãn nhu cầu của nớc ngoài về hàng xuất khẩu của nớc phá giá là lớn hơn 1 thì việc
phá giá sẽ cải thiện cán cân thơng mại.
+ Nếu tổng các hệ số co giãn nhu cầu đó nhỏ hơn 1 thì việc phá giá đồng tiền sẽ
làm xấu đi cán cân thơng mại.
+ Nếu tổng các hệ số co giãn nhu cấu đó bằng 1 thì cán cân thơng mại sẽ không
đợc cải thiện và cũng không xấu đi.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, hệ số co giãn nhu cầu thờng thấp hơn trong dài hạn.
Do đó, điều kiện Marshall-Lerner chỉ có thể đợc duy trì trong dài hạn. Từ đó, chúng
ta có thể kết luận rằng phá giá đồng tiền sẽ làm xấu đi cán cân thơng mại trong ngắn
hạn nhng trong dài hạn, cán cân thơng mại sẽ đợc cải thiện. Những tác động theo
thời gian của phá giá lên cán cân thơng mại đợc gọi là tác động đờng cong J. Đờng
cong J đợc biểu diễn nh sau:
Hình 1: Tác động đờng cong J
Đờng J
0
Cán cân thơng mại
(+)
Đồ thị này nói lên rằng khi phá giá đồng tiền, ngay lập tức làm cho giá trị nhập
khẩu tăng, trong khi đó giá trị xuất khẩu tăng không đủ bù đắp cho tăng nhập khẩu.
Do đó, cán cân thơng mại trở nên xấu hơn ngay sau khi đồng tiền giảm giá. Sau một
thời gian nhất định, khi nhu cầu nhập khẩu và xuất khẩu đều co giãn (giá trị nhập
khẩu giảm dần và giá trị xuất khẩu tăng dần), thì làm cho cán cân thơng mại dần dần
đợc cải thiện, cuối cùng là tăng lên. Có nhiều nguyên nhân giải thích về độ trễ thời
gian của sự thay đổi khối lợng xuất khẩu và nhập khẩu khi phá giá đồng tiền. Những
nguyên nhân đó có thể nảy sinh từ tiêu dùng, sản xuất hay điều kiện cạnh tranh.
Những phân tích của chúng ta trên đây về tác động của phá giá lên cán cân thơng
mại đều dựa vào giả thuyết rằng một sự thay đổi trong tỷ giá dẫn đến một sự thay đổi
tơng ứng trong giá hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Trong thực tế, tỷ lệ thay đổi t-
ơng ứng có thể thấp hơn, do đó làm giảm tác động của phá giá lên cán cân thơng
mại.
Phân tích tác động của phá giá đồng tiền theo ph ơng pháp hấp thụ
Phơng pháp hấp thụ cho rằng giá trị tổng sản phẩm nội địa (Y) bằng mức tổng
chi tiêu. Tức là: Y = C + I + G + (X - M)
Trong đó, C là tiêu dùng, I là đầu t, G là chi tiêu chính phủ và (X - M) là xuất
khẩu ròng.
Để hàm ý nh một sự hấp thụ của nền kinh tế, phơng pháp hấp thụ gọi (C
+ I + G) là A và gọi xuất khẩu ròng (X - M) là NX . Nh vậy:
Tổng sản phẩm trong nớc = Tổng hấp thụ + Xuất khẩu ròng
hay Y = A + NX hay NX = Y - A
Từ công thức trên ta có thể thấy rẵng, số d của cán cân thơng mại (NX) chính
bằng chênh lệch giữa tổng sản phẩm trong nớc (Y) và mức hấp thụ của nền kinh tế
(A). Theo phơng pháp hấp thụ, một sự phá giá đồng tiền chỉ có thể cải thiện cán cân
Thời gian
t
1
t
0
(-)
thơng mại khi sản lợng quốc gia tăng so với hấp thụ.Tức là khi xảy ra thâm hụt cán
cân thơng mại thì quốc gia đó phải tăng tổng sản lợng của nó hoặc giảm hấp thụ của
nó, hay thực hiện kết hợp cả hai.
Đối với một nền kinh tế đang xảy ra tình trạng thâm hụt cán cân thơng mại và
thất nghiệp tăng cao thì phá giá tiền tệ nh một công cụ hiệu quả để cải thiện tình hình
đó. Phá giá làm cho giá xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm xuống tạo điều kiện để
tăng sức cạnh tranh, từ đó tăng khối lợng xuất khẩu. Chính điều này đã tạo động cơ
khiến cho nền kinh tế hoạt động với năng suất tăng dần, tận dụng các nguồn tài
nguyên và nhân công nhàn rỗi vào sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Thêm vào đó, khi
giá hàng nhập khẩu tăng lên thì chi tiêu cho hàng nhập khẩu sẽ giảm bớt, dần dần sẽ
chuyển sang tiêu dùng hàng thay thế trong nớc sản xuất. Nh vậy, phá giá đồng tiền
đã khiến cho tổng sản lợng trong nớc tăng lên góp phần cải thiện cán cân thơng mại.
Nhng đối với một nền kinh tế đang hoạt động ở năng suất tối đa, đầy đủ việc làm và
nguồn tài nguyên đợc sử dụng triệt để thì phá giá tiền tệ lại không có hiệu quả. Khi
sản lợng quốc gia đã ở mức cố định thì nhu cầu xuất khẩu có tăng lên cũng không thể
sản xuất thêm đợc nữa. Chỉ còn một cách là giảm hấp thụ trong nớc để cải thiện cán
cân thơng mại. Nhng cách này rất khó thực hiện, nếu thực hiện đợc thì sẽ làm giảm
thâm hụt cán cân thơng mại nhng lại gây ra các thiệt hại khác.
Theo phơng pháp hệ số co giãn thì phá giá đồng tiền sẽ giúp cải thiện cán cân
thơng mại với điều kiện hệ số co giãn nhu cầu là cao. Nhng nh vậy là phơng pháp
này đã tách biệt thơng mại với phần còn lại của nền kinh tế. Còn phơng pháp hấp thụ
lại xem xét phá giá trong mối quan hệ với khả năng sản xuất và hành vi tiêu dùng
của nền kinh tế nội địa. Do đó, hai phơng pháp này cần phải đợc bổ sung cho nhau
nhằm phân tích sâu sắc hơn tác động của phá giá đồng tiền lên cán cân thơng mại.
Phân tích tác động của phá giá đồng tiền theo ph ơng pháp tiền tệ
Theo phơng pháp tiền tệ, những tác động của phá giá đồng tiền lên cán cân thanh
toán chỉ là tạm thời. Còn về dài hạn thì phá giá đơn thuần làm tăng mức giá cả trong
nội địa. Tức là phơng pháp này nhấn mạnh những tác động của phá giá đến sức mua
tiền tệ và tác động hệ quả đến mức chi tiêu trong nớc. Cụ thể:
Giả định một quốc gia đang ở trạng thái cân bằng trên thị trờng tiền tệ. Khi phá
giá đồng tiền sẽ làm tăng mức giá bằng đồng nội tệ của những hàng hoá có khả năng
nhập khẩu và xuất khẩu. Khi đó mức cầu tiền trong nớc sẽ tăng lên. Nếu nhu cầu này
vợt quá giới hạn giới hạn thì sẽ xuất hiện một luồng ngoại hối từ nớc ngoài vào.
Luồng ngoại hối này làm tăng dự trữ quốc tế của quốc gia đó và dẫn đến thặng d cán
cân thanh toán. Nhng tình trạng thặng d ngày chỉ tồn tại trong ngắn hạn. Mặt khác,
phá giá dẫn đến chi tiêu (hấp thụ) tăng lên, cuối cùng nó làm giảm thặng d. Dần dần,
khi thặng d biến mất thì thị trờng tiền tệ của quốc gia đó lại trở về trạng thái cân
bằng.
Qua việc phân tích ở trên ta thấy, phơng pháp hệ số co giãn và phơng pháp hấp
thụ chỉ xem xét tác động của phá giá đồng tiền lên cán cân thơng mại, bỏ qua những
di chuyển t bản. Còn phơng pháp tiền tệ thì phân tích tác động của phá giá lên cán
cân tổng thể (tổng hợp cán cân vãng lai và cán cân vốn-tài chính). Nhờ vậy, chúng ta
có thể phân tích tác động của phá giá lên cán cân thanh toán một cách toàn diện hơn.
1.3.1.2. Cơ chế điều chỉnh thu nhập
Cơ chế điều chỉnh thu nhập là cơ chế tác động chủ yếu làm ổn định cán cân
thanh toán quốc tế. Lý thuyết Keyness về xác định thu nhập quốc dân đã phân tích
rất rõ về cơ chế này. Theo Lý thuyết Keyness, đối với một quốc gia đang áp dụng chế
độ tỷ giá cố định thì những thay đổi của thu nhập quốc dân sẽ có tác động điều chỉnh
mất cân bằng cán cân thanh toán. Tức là một quốc gia d thừa cán cân thơng mại sẽ
điều chỉnh bằng cách tăng thu nhập, khi đó nhập khẩu sẽ tăng theo và làm giảm dần
thặng d. Khi thặng d biến mất thì cán cân thơng mại của quốc gia này sẽ trở lại thế
cân bằng. Ngợc lại, một quốc gia thiếu hụt cán cân thơng mại sẽ điều chỉnh bằng
cách giảm thu nhập, dẫn đến nhập khẩu giảm và làm giảm dần thâm hụt. Cuối cùng,
cán cân thơng mại của quốc gia đó cũng tự động thiết lập lại thế cân bằng.
Tổng thu nhập quốc dân (hay tổng sản phẩm quốc dân - GDP) trong nền kinh
tế mở có kết cấu khác GDP trong nền kinh tế đóng. Trong nền kinh tế mở, tổng thu
nhập quốc dân (Y) bao gồm: tiêu dùng quốc gia (gồm chi tiêu t nhân và chi tiêu
chính phủ - kí hiệu là C); đầu t quốc gia (I); chênh lệch giữa doanh thu xuất khẩu (X)
và chi tiêu cho nhập khẩu (M), đợc kí hiệu là (X - M). Thu nhập quốc dân cân bằng
xuất hiện khi tổng cầu (D = C + I + X - M) bằng tổng sản lợng (Y). Vậy đồng nhất
thức trong nền kinh tế mở có thể viết nh sau:
Y = C + I + ( X- M) (1)
Trong đó:
+ Tiêu dùng quốc gia phụ thuộc vào thu nhập quốc dân, tức là thu nhập tăng thì tiêu
dùng tăng và ngợc lại, thu nhập giảm thì tiêu dùng giảm, cho nên: C = C(Y). Ta có
thể viết hàm tiêu dùng dới dạng sau: C(Y) = C + MPC x Y
(MPC là xu hớng tiêu dùng biên tức là phần tiêu dùng tăng thêm khi thu nhập tăng
thêm một đơn vị, cho nên: MPC = C/Y)
+ Đầu t quốc gia không phụ thuộc vào thu nhập quốc dân, cho nên: I =
+ Doanh thu xuất khẩu không phụ thuộc thu nhập quốc dân trong nớc cho nên X =
X
+ Chi tiêu nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập quốc dân, tức là khi thu nhập tăng thì
nhập khẩu tăng và ngợc lại, thu nhập giảm thì nhập khẩu giảm, cho nên: M =
M(Y). Hàm nhập khẩu có dạng sau: M(Y) = M + MPM xY
(MPM là xu hớng nhập khẩu biên tức là phần nhập khẩu tăng thêm khi thu nhập tăng
thêm một đơn vị, cho nên: MPM = M/Y)
Đồng nhất thức (1) có thể viết lại nh sau:
Y = C(Y) + + X - M(Y) (2)
suy ra Y - C(Y) - = X - M(Y) (2)
Mà chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu (Y - C(Y)) thể hiện phần tiết kiệm quốc gia,
kí hiệu là S. Tiết kiệm quốc gia phụ thuộc vào thu nhập quốc dân, tức là thu nhập
tăng thi tiết kiệm tăng và ngợc lại, thu nhập giảm thì tiết kiệm giảm, cho nên: S =
S(Y). Hàm tiết kiệm có dạng: S(Y) = - C + MPS x Y
(MPS là xu hớng tiết kiệm biên, tức là phần tiết kiệm tăng thêm khi thu nhập tăng
một đơn vị, cho nên: MPS = S/Y)
Nh vậy, phơng trình (2) đợc viết lại nh sau:
S(Y) - = X - M(Y) (3)
suy ra S(Y) + M(Y) = + X (4)
Phơng trình (3) thể hiện mối quan hệ giữa chênh lệch tiết kiệm - đầu t với cán
cân thơng mại ( hay cán cân vãng lai). Công dụng của phơng trình này là chỉ ra một
cách trực tiếp d thừa hay thiếu hụt cán cân thơng mại. Cán cân thơng mại thặng d khi
tiết kiệm lớn hơn đầu t. Ngợc lại, cán cân thơng mại thâm hụt khi đầu t lớn hơn tiết
kiệm. Còn phơng trình (4) thì thể hiện bơm vào ngoại sinh ( + X) và rò rỉ nội sinh (S
+ M).
Đồ thị dới đây sẽ minh hoạ cụ thể việc xác định thu nhập quốc dân trong nền
kinh tế nhỏ và mở cửa.
Hình 2: Cân bằng thu nhập quốc dân trong nền kinh tế nhỏ và mở cửa
S(Y)+M(Y)
I+XX
Y
0
S+M, I+X
Yo
(a)
S-I, X-M
0
S(Y)-I
Yo
Y
E
Trong cả hai đồ thị, mức thu nhập quốc dân cân bằng đều bằng Yo.
+ Xét đồ thị (a):
Đờng ( + X) nằm ngang là đờng xuất khẩu và đầu t.
Đờng S(Y) + M(Y) dốc lên là đờng nhập khẩu và tiết kiệm (tổng hợp hàm cầu
nhập khẩu M(Y) và hàm tiết kiệm S(Y)). Độ dốc của đờng này bằng tổng xu hớng
tiết kiệm biên (MPS) và xu hớng nhập khẩu biên (MPM).
Điểm E là điểm cân bằng thu nhập quốc dân tại Yo.
+ Xét đồ thị (b):
Lấy xuất khẩu ngoại sinh X trừ hàm nhập khẩu M(Y), thu đợc đờng X -
M(Y) đi xuống.
Lấy hàm tiết kiệm S(Y) trừ đi đầu t ngoại sinh (), thu đợc đờng (S(Y) - ) dốc
lên.
Điểm H là điểm cân bằng thu nhập quốc dân tại Yo.
Đoạn HYo thể hiện thiếu hụt cán cân thanh toán.
Để phân tích ảnh hởng của tiêu dùng và đầu t quốc gia vào tổng thu nhập quốc
dân, lý thuyết Keyness đã đề cập đến số nhân trong nền kinh tế mở. Bất kỳ sự biến
động nào trong tổng cầu D = C(Y) + + X - M(Y) cũng làm cho thu nhập quốc dân
thay đổi. Cụ thể, sự thay đổi trong thu nhập (Y) phải là bội số của sự thay đổi trong
tổng cầu (D). Số nhân ngoại thơng hay số nhân trong nền kinh tế mở đợc tính bằng
tỷ lệ: Y/D. Thu nhập quốc dân cân bằng khi bơm vào ngoại sinh ( + X) tơng ứng
X-M(Y)
H
(b)