Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN-NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN CHÍNH TẢ CHO HS LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.84 KB, 11 trang )

1
ĐỀ TÀI:
GIÚP HỌC SINH LỚP 5 SỬA MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ
VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN CHÍNH TẢ
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Chính tả hiểu một cách đơn giản là cách viết chữ được coi là chuẩn. Nói một
cách cụ thể chính tả là hệ thống các quy định về việc viết chữ của một thứ tiếng,
được xem là chuẩn mực. Như vậy, tiếng Anh có chính tả của tiếng Anh , tiếng
Pháp có chính tả của tiếng Pháp và Tiếng Việt có chính tả của Tiếng Việt. Mỗi
thứ tiếng có quy định riêng về chính tả.
Đối với người Việt Nam ta có tiếng nói chung là Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt
là môn học cơ sở nền tảng giúp các em rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong quá
trình sống và học tập đó là nghe – nói – đọc – viết. Trong đó chính tả là một
phân môn của Tiếng Việt góp phần quan trọng để học môn Tiếng Việt nói riêng
và tất cả các môn học khác nói chung ở Tiểu học, cũng như ở các cấp học khác
cao hơn. Học tốt môn Chính tả, các em sẽ đọc đúng, viết đúng từ, câu. Từ đó các
em sẽ hiểu đúng văn bản cũng như để người khác hiểu đúng văn bản do các em
trình bày. Phân môn chính tả nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung là môn học
cơ sở để các em học tốt các môn học khác.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng viết sai chính tả đã ở mức báo động nó không
chỉ diễn ra ở một vùng, một miền nào, không chỉ diễn ra ở các trường tiểu học
mà nó còn diễn ra ở tất cả các nơi như: trong các văn bản Tiếng Việt, trong các
trường đại học và thậm chí trong cả các văn bản pháp luật… theo một nghiên
cứu và đánh giá gần nhất của Viện Công nghệ Thông tin - ĐH Quốc gia Hà
Nội và Công ty VieGrid công bố hôm 28/7 cho thấy, tỷ lệ lỗi chính tả trong văn
bản Tiếng Việt đã ở mức báo động, vượt quá cao so với tiêu chuẩn cụ thể là gấp
8 lần so với chuẩn( chuẩn là 1%).
2
Hiện nay, tại trường tiểu học tôi giảng dạy hiện tượng học sinh viết sai chính
tả diễn ra tương đối phổ biến ở khắp các khối lớp từ 1 đến 5. Khối 5 do tôi giảng


dạy, tuy là khối cuối cấp, học sinh đã được học cơ bản về các quy tắc chính tả
nhưng hiện tượng học sinh viết sai chính tả là rất nhiều. Điều đó đã gây ảnh
hưởng rất lớn đến việc học tập và kết quả của các em.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc sửa lỗi chính tả cho học sinh khối 5
– khối cuối cấp của tiểu học là một việc làm vô cùng quan trọng giúp học sinh
có một nền tảng, cơ sở ban đầu vững chắc cho việc học lên các cấp học cao hơn,
giúp các em nắm vững các quy tắc, quy ước chính tả một cách chính xác. Từ đó
các em tránh được các lỗi về chính tả giúp các em hiểu tốt một văn bản và trình
bày được đúng nhất một văn bản theo ý mình để người đọc hiểu đúng văn bản
do mình trình bày.
Tuy kinh nghiệm bản thân còn ít, nhưng qua tìm hiểu tôi cũng xin mạnh dạn
đưa ra một số biện pháp nhằm sửa lỗi chính tả giúp nâng cao chất lượng môn
chính tả cho học sinh khối 5. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu
- Điều tra và khảo sát việc viết chính tả của học sinh khối 5 trường tiểu học
Nguyễn Bá Ngọc để phát hiện những lỗi chính tả học sinh hay mắc phải. Từ
đó đưa ra các giải pháp phù hợp để sửa lỗi cho các em nhằm nâng cao chất
lượng môn chính tả.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Học sinh khối 5 trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc
- Phạm vi nghiên cứu: Các lỗi chính tả học sinh lớp 5 thường mắc phải
4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra bằng phiếu trắc nghiệm và các bài chính tả, vở chính tả, các loại vởi
khác của giáo viên và học sinh.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
3
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết chữ viết Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nghĩa là “

nói sao – viết vậy” điều đó đòi hỏi muốn viết đúng chính tả thì trước hết phải
đọc đúng. Trên thực tế ở mỗi vùng miền lại có chất giọng khác nhau dẫn đến
cách phát âm cũng khác nhau. Mặt khác Tiếng Việt lại lấy cách phát âm của
khu vực Hà Nội làm cách phát âm chuẩn. Vì vậy ở những vùng có nhiều
phương ngữ thì việc phải cố gắng “ nhại” lại cách phát âm chuẩn đã dẫn đến
những khó khăn trong việc phát âm đúng do đó dẫn đến việc viết sai chính tả.
Chữ việt không chỉ lả chữ viết ghi âm mà chữ viết còn phải tuân thủ một
số quy tắc, quy ước nhất định như quy tắc truyền thống, quy tắc khu biệt…
những quy tắc này có những đặc điểm riêng của nó mà không đồng nhất với
nguyên tắc ngữ âm. Do đó đã gây ra những khó khăn cho người viết khi phải
ghi nhớ những quy tắc này. Vì vậy đã dẫn đến việc viết sai các quy tắc chính
tả.
Không những vậy trong Tiếng Việt lại tồn tại một dạng phát âm gần đúng
với ngữ âm chuẩn nhưng nghĩa của nó lại không đúng nhưng vẫn được chấp
nhận trong giao tiếp thậm chí còn được chấp nhận trong các văn bản Tiếng
Việt
Ví dụ : xói mòn viết là sói mòn
Lãng mạn viết là lãn mạn…
Hoặc có cùng một cách phát âm nhưng lại có đến hai hoặc ba cách ghi
như: âm [ c] có đến hai cách ghi là c, k ; âm [ g] có hai cách ghi là g và gh …
Do đó việc giảng dạy ở vùng có nhiều phương ngữ cần củng cố cho học
sinh nắm vững các quy tắc chính tả, ngoài ra còn phải giúp nắm vững nghĩa của
tiếng, từ, câu…có như vậy mới nâng cao được chất lượng môn chính tả ở tiểu
học.
2. Cơ sở thực tiễn
4
Học sinh ở tiểu học việc nhận thức của các em chủ yếu dựa vào trực
quan là chủ yếu. Dó đó các em thấy sao - viết vậy, nghe sao - viết vậy mà
thường ít khi dùng tư duy để phân biệt.
Đặc biệt tại khu vực Đắc Lắc học sinh thuộc nhiều vùng, nhiều dân tộc

khác nhau lại cùng học chung một lớp, một trường. Các thầy cô giáo cũng ở
nhiều địa phương khác nhau. Vì vậy, hiện tượng sử dụng các phương ngữ
trong cùng một môi trường học tập diễn ra hằng ngày. Việc cô phát âm trò
nghe không hiểu ( hoặc không rõ) và ngược lại thường xuyên diễn ra.
Mặt khác vốn từ của học sinh tiểu học còn rất hạn chế nên việc hiểu nghĩa
của tất cả các từ trong cả một bài chính tả là rất khó. Không những vậy việc
quan tâm và ý thức viết đúng chính tả của cả giáo viên, phụ huynh và học
sinh còn yếu nên hiện tượng viết sai chính tả thường xuyên được bỏ qua dẫn
đến việc học sinh mập mờ trong suy nghĩ của học sinh là “mình viết như vậy
hình như là đúng”
3. Các giải pháp
a. ĐIỀU TRA
Để phát hiện các lỗi chính tả học sinh hay mắc phải tôi đã tiến hành điều
tra bằng cách trực tiếp kiểm tra vở chính tả, vở tập làm văn, vở ghi chung và
một bài chính tả cụ thể do tôi soạn ra và đọc cho học sinh viết. Kết quả cụ thể
như sau
Lớp
Số
HS
Các lỗi học sinh thường mắc phải
Âm đầu Vần Thanh
5C 25 4 6 6
5A 24 6 8 9
5B 23 7 7 9
b. THỐNG KÊ LỖI CÁC LỖI CỤ THỂ HỌC SINH HAY MẮC PHẢI
Âm đầu
+ Vùng Bình Định: thường ít sai , chủ yếu sai một vài lỗi sau: h/qu ; d/gi ; tr/ch
5
+ Vùng Thanh Hóa: thường sai nhiều các lỗi sau: l/n ; tr/ch ; s/x ; d/ r/gi.
Âm chính

+ Vùng Bình Định: im/iêm; ông/ong; ai/ay/ây, ươi/ưi ; ui/uôi ; ươc/êt; ôi/âu.
+ Vùng Thanh Hóa: oc/ôc ; ăt/ăp/âp ; ay/ây ; au/âu
Âm cuối
+ Vùng Bình Định: an/ang ; ư/ưng; ăn/ăng; ên/ênh; uôn/uông; ươn/ương;
ut/uc; iêt/iêc; at/ac; ât/âc; êt/êch.
+ Vùng Thanh Hóa: ít sai phần âm cuối, thường sai một vài lỗi sau: in/inh
Thanh điệu
+ Vùng Bình Định: Đây là lỗi mà vùng này hay mắc phải nhất. Hầu hết học
sinh vùng Bình Định khó phân biệt được các thanh hỏi và thanh ngã
+ Vùng Thanh Hóa: thường ít sai về thanh điệu
c. TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN
Để biết được vì sao học sinh viết sai chính tả chúng ta cần đi tìm hiểu các
nguyên nhân dẫn đến việc sai đó. Qua khảo sát cụ thể trên lớp và qua các phiếu
điều tra, các bài chính tả, vở chính tả, vở tập làm văn tôi phát hiện ra 4 nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh viết sai chính tả. Cụ thể như sau:
Nguyên nhân thứ nhất : Do các quy tắc chính tả quá nhiều và rất phức tạp
dẫn đến việc học sinh thường nhớ lộn xộn do đó dẫn đến việc viết sai chính tả.
Cụ thể:
- Một cách phát âm nhưng có đến hai hoặc ba cách ghi con chữ. Ví dụ
Âm đầu
c d ng
/k / q / z / /ng/
k gi ngh


/ g / g
6
gh
o
Âm đệm : / w /

u
Âm chính : i iê
/i/ / iê /
y yê
i ng

o / i / / ng /
Âm cuối: / u / y ngh
u
- Việc kết hợp giữa âm đệm với các nguyên âm cũng khác nhau.
Ví dụ
Ta có âm đệm
o
/ w / u
Khi kết hợp với các nguyên âm như a, ă thì được viết là o. Khi kết hợp với các
nguyên âm như ư, yê, thì thì được viết là u
- Việc quy định về viết hoa cũng có rất phức tạp như: viết hoa tên người, tên
địa lý Việt Nam, tên người tên địa lý nước ngoài. Tên người tên địa lý nước
ngoài lại chia ra: tên nước ngoại phiên âm Tiếng Việt và tên nước ngoại không
phiên âm Tiếng Việt. Tên các dân tộc vùng Tây Nguyên cách viết hoa tên riêng
các tổ chức cơ quan, kinh tế, xã hội. Cách viết hoa tên các tác phẩm văn học
7
- Về chữ viết Tiếng Việt cũng có nhiều loại như: chữ in, chữ viết tay.
Không những vậy chữ Việt lại có thêm các dấu không viết liền nét với các
chữ ( ă, â, ê ) cũng dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả.
- Một số hiện tượng Tiếng Việt khi viết chỉ mang tính võ đoán mà không
tuân thủ theo một quy tắc nào. Đây chính là dạng lỗi mà học sinh hay mắc
nhất. Đó là các tiếng có âm đầu l/n; r/d/gi/v; tr/ch
Nguyên nhân thứ 2: Do ảnh hưởng của phương ngữ: Do các em ở hiều
vùng khác nhau có cách phát âm khác nhau nhưng lại không đúng với ngữ âm

chuẩn. Đặc biệt Vùng Bình Định và Thanh Hóa thì việc phát âm sai với chuẩn
ngữ âm là khá nhiều. Do đó dẫn đến việc “nói sao – ghi vậy”
Ví dụ:
Ông nội phát âm thành Ông nậu ghi thành ông nậu
Cộng hòa Cọng hòa ghi thành cọng hòa
Đi làm Đi lồm ( Quảng Ngãi ) hoặc Đi nàm ( Thanh Hóa,
Hải Dương)
Nguyên nhân thứ 3: Do không hiểu đúng nghĩa của tiếng , từ cần viết. Việc
không hiểu nghĩa của từ dẫn đến việc khi học sinhgặp các từ mà các em phân
vân các em sẽ viết từ, tiếng cần viết theo cảm tính. Do đó việc hiểu nghĩa của
Tiếng Việt là rất quan trọng nó giúp cho học sinh viết đúng nghĩa của từ đó
dựa vào tư duy logic về nghĩa của từ.
Ví dụ: nằm im viết thành nằm iêm
Xương máu viết thành sương máu …
Nguyên nhân thứ 4: Do một số từ được viết sai nhiều và được dùng
nhiều trong giao tiếp nhưng vẫn được chấp nhận như là đúng. Ví dụ: soi mói,
sáng lạn, cọ sát, thăm quan…
d. CÁCH KHẮC PHỤC
8
Khi đã điều tra và phát hiện được các nguyên nhân dẫn đến việc sai lỗi chính
tả của học sinh tôi nghiên cứu và đề xuất một số biệc pháp để khác phục lỗi
chính tả cho học sinh. Cụ thể như sau:
1. Dạy chính tả theo vùng phương ngữ.
Sau khi đã xác định được các lỗi về chính tả của các vùng Bình Định và
Thanh Hóa
( Đây là hai vùng có số lượng học sinh chiếm đa số) tôi thực hiện:
- Phân loại cụ thể từng em và từng lỗi các em hay mắc phải.
- Cho hai em ở hai vùng ngồi cạnh nhau giúp cho việc phát hiện lỗi của nhau
và giúp đỡ nhau chữa lỗi trong các bài chính tả
- Thường xuyên luyện cho các em phát âm đúng trong các tiết tập đọc và các

môn học khác.
- Lựa chọn các bài tập chính tả trong các tiết chính tả cho từng đối tượng ở
từng vùng.
- Tìm thêm các trò chơi, bài tập chính tả luyện phát âm cho đối tượng từng
vùng.
ví dụ:
Lúa nếp là lúa nếp làng. Lúa lên phơi phới ,lòng nàng lâng lâng
Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch
Con trân trắng vặt cành tre trụi. ăn no tròng như quả trứng treo…
- Thường xuyên phân tích – so sánh các hiện tượng chính tả dễ nhầm lẫn cho
học sinh ghi nhớ.
Ví dụ. khi viét tiếng “muống” học sinh vùng Bình Địh dễ lẫn với tiếng “
muốn” giáo viên cần phân tích cấu tạo hai tiếng
Muống = M + uông + thanh sắc
Muốn = M + uôn + thanh sắc
Khi đó học sinh sẽ phân biệt được tiếng “muốn” có âm cuối là “ng” còn tiếng
“muốn” có ân cuối là “n” khi viết các em sẽ không sai
2. Giải nghĩa từ cho học sinh.
9
Đây là giải pháp rất hữu hiệu giúp học sinh bớt sai lỗi chính tả trong các
trường hợp từ khó mà học sinh không thể phân biệt được bằng phát âm hay phân
tích cấu tạo từ. Giải nghĩa từ chủ yếu được thực hiện trong tiết luyện từ và câu.
Ngoài ra giải nghĩa từ còn được thực hiện trong các tiết tập đọc, tập làm văn
thậm chí trong tiết chính tả. Giáo viên có thể giải nghĩa từ bằng nhiều cách như
đọc chú giải, cho học sinh nêu ý hiểu, đặt câu, hoặc tìm từ đồng nghĩa, trái
nghĩa…
3. Cho học sinh học thuộc các quy tắc chính tả.
Đây là một việc làm khó đòi hỏi phải có một thời gian dài và tính kiên trì
tập luyện của học sinh. Tuy nhiên biện pháp này lại có tác dụng rất lớn và
làm giảm phần lớn lỗi chính tả học sinh mắc phải. khi các em đã nắm được

các quy tắc chính tả các em hầu như phân biệt được cách viết và viết đúng.
Cụ thể các quy tắc như sau:
- Quy tắc viết hoa: tên người tên địa lí Việt Nam; tên người tên địa lí nước
ngoài phiên âm Tiếng Việt; tên người tên địa lí nước ngoài; viết tên các cơ
quan, kinh tế, xã hội. tên vùng Tây Nguyên, tên các tác phẩm văn học.
- Quy tắc kết hợp âm đêm với các nguyên âm
- Quy tắc kết hợp âm đầu với các nguyên âm như i, e, ê, iê, ie
4. Cung cấp cho học sinh một số mẹo ghi nhớ chính tả.
Trong những trường hợp những hiện tượng chính tả mang tính võ đoán
thì việc ghi nhớ các mẹo chính tả tỏ ra rất hiệu quả. Có rất nhiều mẹo chính
tả tùy theo từng bài, từng hiện tượng chính tả sẽ có các mẹo ghi nhớ chính tả.
Ví dụ
+ Luật bổng - trầm:
Trong các từ láy âm đầu, thanh của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng
(ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo
viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang
thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
10
Ví dụ
·Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
·Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…
·Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…
·Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã
·Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
·Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật

đều bắt đầu bằng ch,
Ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh,
chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào
mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s:
Ví dụ : Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt,
sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc,
sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh,
khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng,
lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,
ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng,
chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng,
đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình,
huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi áp dụng các biện pháp trên kết quả đạt được qua kiểm tra các bài
viết của học sinh cho thấy: các em đã có sự tiến bộ rõ rệt. Số lượng lỗi chính tả
các em mắc phải đã giảm phần lớn. Cụ thể như sau:
Lớp
Số
HS
Các lỗi học sinh thường mắc phải
Âm đầu Vần Thanh

5C 25 1 2 2
5A 24
5B 23
11
PHẦN III. KẾT LUẬN
- Việc rèn cho học sinh viết đúng, đẹp, nhanh là mong muốn của tất cả giáo
viên. Nhưng việc rèn cho học sinh là việc làm bắt buộc giúp cho các em có
một kiến thức vững vàng, một hiểu biết chính xác và đầy đủ về chữ việt.
- Tuy nhiên đây là một việc làm rất khó khăn đòi hỏi cần phải có thời gian dài
và sự kết hợp giữa tâm huyết của giáo viên và sự cố gắng, kiên trì rèn luyện
của học sinh mới có kết quả tốt nhất.
- Mỗi phương pháp, hình thức, biện pháp tổ chức chỉ có kết quả trong những
tình huống cụ thể và không phải lúc nào cũng thành công như mong đợi. Đòi
hỏi người giáo viên phải biết kết hợp nhiểu biện pháp trong những hoàn cảnh
cụ thể và phải có một kiến thức tốt thì nhất định kết quả giáo dục cho học
sinh sẽ mang lại kết quả cao.
- Mặt khác, hiện nay không chỉ có học sinh là người viết sai chính tả mà thậm
chí rất nhiều giáo viên cũng đang viết sai chính tả rất nhiều. Điều này gây
ảnh hưởng rất lớn tới việc sửa lỗi chính tả cho học sinh. Do đó, trước hết
người cần rèn luyện phải là chính chúng ta – những người giáo viên. Làm sao
chúng ta dạy cho các em không những có một kiến thức tốt nhất mà còn có
một chữ viết đúng và đẹp nhất như người xưa đã nói “ nét chữ - nét người”
- Với vốn kinh nghiệm ít ỏi tôi chỉ mong tìm ra một số biện pháp để giúp học
sinh sửa được những lỗi các em mắc phải và ngày càng nâng cao hơn nữa
chất lượng môn chính tả trong nhà trường. Xin được nhận mọi sự góp ý. Tôi
xin chân thành cảm ơn
Người viết sáng kiến
Nguyễn Bá Hải

×