Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

tìm hiểu quá trình hình thành và thành tựu của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ 1917 đến 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.29 KB, 115 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ

CỦA HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THẾ GIỚI
TỪ 1917 ĐẾN 1991
Giáo Viên Hướng Dẫn : TS Nguyễn Tiến Đạt
Sinh Viên Thực Hiên : Đặng Thị Kiều Mỹ Hương
Mã Số Sinh Viên : 33602212


Năm 2010 - 2011
PHẦN A - LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN A - LỜI MỞ ĐẦU


PHẦN B - NỘI DUNG
PHẦN B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I - SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ
1. CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CÁCH MẠNG NGA
a)Sự truyền bá chủ nghĩa Mác vào Nga và việc thành lập đảng của giai cấp công
nhân.
Chủ nghĩa Mác là thế giới quan duy vật khoa học của giai cấp công nhân quốc tế và các
Đảng Cộng Sản do C. Mác, Ph. Ăngghen sang lập vào những năm 40 thế kỷ XIX. Với tư
cách là thế giới quan duy vật khoa học, chủ nghĩa Mác khắc hẳn về chất so với các loại
hình thế giới quan khác đã tồn tại trước đó. Nó là hệ thống những quan điểm duy vật, khoa
học về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó. Chủ nghĩa Mác là khoa học về
những quy luật chung nhất là sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự
phát triển sức sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động
chống lại mọi sự bất công, nô dịch; về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác là hệ
thống chỉnh thể thống nhất hữu cơ không tách rời nhau của ba bộ phận cấu thành: triết học,
kinh tế- chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần sang chủ nghĩa đế quốc, nó
phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bước vào thập kỷ 90 thế kỷ XIX, kinh tế của các nước
tư bản có những hiện tượng mới, đó là việc tích tụ, tập trung sản xuất tư bản đã thật sự đạt
tới “quy mô khổng lồ”, đưa đến sự hình thành các liên hiệp tư bản độc quyền quy mô rất
lớn. Các liên hiệp xí nghiệp công nghiệp đã gắn chặt với các ngân hàng tạo ra một loại tư
bản mới, đó là tư bản tài chính – tập đoàn những đầu sỏ công nghiệp và ngân hàng- khống
chế nền kinh tế và do đó trở thành những thế lực thống trị ở các nước tư bản; quyết định
toàn bộ chính sách đối nội cũng như đối ngoại của từng nước; đẩy mạnh tranh giành thị
trường trong nước và tạo ra các liên minh quốc tế để xâm chiếm thị trường bên ngoài ,phân
chia nhau toàn bộ thế giới. Đến đầu thế kỷ XX, việc phân chia lãnh thổ thế giới đã hoàn
thành, hệ thống thuộc địa của các nước tư bản chiếm gần 55% diện tích đất đai và 35%
dân số thế giới.
Sự xác lập chủ nghĩa đế quốc làm cho tấc cả các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên
cực kỳ gay gắt. Từ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã biểu
hiện thành mâu thuẫn xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Về chính
trị, giai cấp tư sản lúc này đã phản động trên tất cả các mặt, tăng cường thủ đoạn chia rẽ
giai cấp công nhân để phá hoại phong trào công nhân. Hơn thế, ở khắp mọi nơi, giai cấp tư
sản tìm cách câu kết với địa chủ làm cho ách áp bức đối với quần chúng lao động càng
nặng nề hơn. Trong khi đó, giai cấp vô sản cùng với sự gia tăng đông đảo về số lượng, qua
thực tiễn đấu tranh đã ngày càng trưởng thành về ý thức giai cấp, từng bước tiếp thu được
chủ nghĩa Mác, dẫn đến sự thành lập chình đảng ở nhiều nơi. Giai cấp vô sản đang thực sự
trở thành giai cấp cách mạng nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Trong bối cảnh trên, phong trào công nhân Nga cũng có những bước phát triển mạnh mẽ,
nước Nga đang trở thành trung tâm cách mạng thế giới. Đây là một điều kiện rất thuận lợi
cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga. Quả vậy, sau khi chế độ
nông nô bị thủ tiêu (1861), chủ nghĩa tư bản công nghiệp ở Nga lại phát triển khá nhanh.
Thế nhưng, chủ nghĩa tư bản Nga lại cấu kết với Nga hoàng ra sức bóc lột nhân dân lao
động.
Người dân Nga không có một chút quyền lợi chính trị gì. Bốn phần năm dân số là những
người mù chữ. Nước Nga khi ấy còn được mệnh danh là nhà tù của các dân tộc: các dân

tộc thiểu số bị khinh miệt, văn hóa của họ bị hủy hoại. Nga hoàng còn cấm các dân tộc
thiểu số dạy học, xuất bản sách báo rằng tiếng mẹ đẻ; sử dụng chính sách “dị chủng’’. Xúi
giục dân tộc này chống lại dân tộc khác, tổ chức những cuộc tàn sát người Do Thái.
Nước Nga là nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thế giới: mâu thuẫn giữa vô sản và tư
sản, mâu thuẫn giữa thuộc địa và đế quốc, mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc. Ngoài ra,
nước Nga còn chứa đựng mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân với địa chủ. Chủ nghĩa tư bản ở
Nga đã kết hợp với mọi tàn tích của chế độ nông nô bóc lột tàn nhẫn người lao động, xâm
nhập vào nông thôn, thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển nhưng làm cho nông thôn bị
phân hóa thành phú nông, trung nông, bần công, cố nông. Hằng năm, có từ 5 đến 6 triệu
nông dân phải rời bỏ nông thôn lang thang vào thành thị kiếm sống.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga gây nên những thay đổi căn bản về thành phần
giai cấp- xã hội. Trước kia, dưới chế độ nông nô vốn hai giai cấp mới là giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản công nghiệp vừa mới ra đời nhưng đã tăng lên rất nhanh về
số lượng. Từ năm 1865 đến năm 1890, số công nhân ở Nga đã tăng từ 706 nghìn đến 1.433
triệu người. Đó là giai cấp vô sản công nghiệp hiện đại, hoàn toàn khác hẳn công nhân
trong các xưởng và các nghành tiểu thủ công. Từ những năm 70 và nhất là từ những năm
80 thế kỷ XIX, giai cấp công nhân Nga bắt đầu thức tỉnh, đấu tranh chống bọn tư bản.
Những tổ chức công nhân xuất hiện. Năm 1875, ở Ôđetxa, Hội Liên Hiệp công nhân miền
Nam nước Nga thành lập; năm 1878, ở Pêtécbua, Hội Công nhân miền Bắc nước Nga ra
đời. Đây là những tổ chức đầu tiên của giai cấp vô sản Nga.
Điều quan trọng khác khiến cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga ngày càng
được đẩy mạnh, đó là sự xuất hiện những nhà cách mạng trưởng thành trong đấu tranh,
tiếp cận với học thuyết của chủ nghĩa Mác, coi đây là vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp
công nhân trong cuộc đấu tranh chống áp bức của giai cấp tư sản và chế độ chuyên chế.
Trong số đó, không ít người đã kiên quyết đoạn tuyệt với chủ nghĩa dân túy cũng như với
những ảo tưởng xã hội khác. Chẳng hạn như Plekhanốp trước kia cũng ở trong phái dân
túy- phái thù địch với chủ nghĩa Mác- nhưng khi ra nước và tiếp xúc với chủ nghĩa Mác-
nhưng khi ra nước ngoài và tiếp xúc với chủ nghĩa Mác, ông đã đoạn tuyệt với phái dân túy
và trở thành một nhà tuyên truyền xuất sắc cho chủ nghĩa Mác. Năm 1883, Plekhainốp đã
tổ chức nhóm Macxit đầu tiên lấy tên là Nhóm giải phóng lao động. Nhóm này đã dịch và

in nhiều tác phẩm của C.Mác và Ph. Ăngghen ra tiếng Nga, như Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản; Lao động làm thuê và tư bản; Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng
đến khoa học, rồi bí mật chuyển vào nước Nga. Chính Plekhanốp và những hội viên khác
trong nhóm đã viết nhiều bài giải thích học thuyết của Mác, giải thích tư tưởng chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Plekhanốp bênh vực học thuyết của chủ nghĩa Mác và cho rằng học
thuyết ấy hoàn toàn có thể áp dụng vào nước Nga. Tuy nhiên, Pekhanốp và Nhóm giải
phóng lao động cũng có những sai lầm do không thấy được vai trò của giai cấp nông dân
và đây cũng chính là mần mống của những quan điểm Mensêvích của Plêkhanốp sau này.
Mặc khác, Nhóm giải phóng lao động và các tổ chức Mácxit lúc ấy đều chưa liên hệ với
phong trào công nhân.
Giai cấp vô sản Nga phát triển và giác ngộ sớm, sống rất tập trung, lại ra đời khi chủ nghĩa
Mác đã chiến thắng các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác, nên mặc dầu có chụi ảnh hưởng
của chủ nghĩa dân túy, nhưng giai cấp vô sản Nga vẫn sớm trở thành một lực lượng chính
trị độc lập. Cho nên, ngay từ năm 1902, Lênin đã tin một cách chắc chắn thế lực phản động
Châu Âu, Châu Á, và sẽ trở thành “đội tiên phong của giai cấp vô sản cách mạng quốc tế”.
1
Với một niềm tin như vậy, Lênnin đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là người bảo vệ
chủ nghĩa Mác, chống mọi trào lưu cơ hội chủ nghĩa; và truyền bá chủ nghĩa Mác vào
phong trào công nhân Nga, đồng thời phát triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện lịch
sử mới.
Năm 1888, Lênnin bắt đầu nghiên cứu bộ Tư bản và gia nhập các tổ chức Macxit ở Canda,
Xamara. Từ năm 1889, Len6nin tiếp tục nghiên cứu những tác phẩm khác của Mác,
Ăngghen, đồng thời đã vận dụng phương pháp luận nghiên cứu các hiện tượng xã hội của
Mác vào thực tế nước Nga. Năm 1893, Lênnin viết tác phẩm Những đổi mới về kinh tế
trong đời sống nông dân, trong đó khẳng định nguyên lý của chủ nghĩa Mác: những hy
vọng và tiến bộ xã hội phải gắn bó với giai cấp công nhân hiện đại.
Lênnin tuyên truyền chủ nghĩa Mác cho những thanh niên có tinh thần cách mạng ở
Xamara, Pêtécbua. Tại Pêtécbua, Lênnin đặt ra nhiệm vụ mở rộng phạm vi tuyên truyển
chủ nghĩa Mác và đánh tan chủ nghĩa dân túy về tư tưởng. Năm 1894, Lênin viết tác phẩm
“ Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ- xã hội ra

sao? Và trực tiếp giảng những nguyên lý Macxit cho những công nhân tiên tiến ở Pêtécbua
thành Hội Liên Hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân. Lênnin đề ra cho Hội nhiệm
vụ phải liên hệ mật thiết với phong trào công nhân có tính chất quần chúng và phải lãnh
1
V.I. Lênnin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matxcơva, 1975, t.6, tr.35.
đạo phong trào về mặt chính trị. Từ tuyên truyền chủ nghĩa Mác cho một số công nhân tiên
tiến tập hợp trong các tổ tuyên truyền, Lênni đề nghị. Hội chuyển sang công tác cổ động
chính trị hằng ngày trong đông đảo giai cấp công nhân. Lênnin đã viết một loạt sách, như:
Về công tác cổ động, Giải thích tiền phạt công nhân phải nộp ở nhà máy…Đó là những
cuốn sách giáo dục cho công nhân thấy rằng, không chỉ đấu tranh kinh tế mà còn phải đấu
tranh chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Hội Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân gắn
cuộc đấu tranh của công nhân đòi thực hiện những yêu sách về kinh tế với cuộc đấu tranh
chính trị chống chế độ Nga hoàng. Lần đầu tiên ở Nga, Hội Liên hiệp đấu tranh giải phóng
giai cáp công nhân ở Pêtecbua bắt thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân. Hội đã thúc đẩy việc thành lập một loạt tổ chức công nhân ở các
tỉnh và các miền trong nước Nga. Tổ chức của Hội là mần móng trọng yếu đầu tiên của
một chính đảng cách mạng dựa vào phong trào công nhân.
Ngay từ những ngày đầu tiên hoạt động cách mạng, Lênin đã đứng vững trên lập trường
chủ nghĩa Mác, lập trường của giai cấp vô sản cách mạng. Lênin thấy rõ vai trò lịch sử của
giai cấp vô sản Nga, người lãnh đạo toàn thể nhân dân Nga hoàng là người đi tiên phong
trong phong trào công nhân quốc tế. Người chỉ rõ, muốn thực hiện được vai trò lịch sử đó,
giai cấp vô sản Nga phải thành lập được chính đảng cách mạng của mình.
Trong quá trình tiến tới thành lập một chính đảng mácxit, Lênin đã đấu tranh chống các
loại chủ nghĩa cơ hội ở Nga, tiêu biểu là phái dân túy- một phong trào xã hội chủ nghĩa
không tưởng tiểu tư sản ở Nga, chủ trưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa vào nông dân và
công xã nông thôn; phủ nhận sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nga; phủ nhận vai trò cách
mạng và vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản; đưa ra những chương trình cải cách nhỏ
không hề đụng chạm đến kinh tế phú nông; coi mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn chỉ là một
“tật xấu” tầm thường có thể dễ dàng khắc phục. Thực chất đó là thái độ thỏa hiệp với Nga

hoàng, là từ bỏ cuộc đấu tranh chống chế độ Nga hoàng, hy vọng vào Chính phủ Nga
hoàng đứng lên trên giai cấp có khả năng giúp đỡ nhân dân cải thiện đời sống của họ. Bởi
vậy, muốn kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân, muốn thành lập chính đảng
mácxit cách mạng ở Nga, nhất thiết phải đập tan ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy. Điều
này đã được Plêkhanốp và Nhóm giải phóng lao động thực hiện, nhưng chỉ đến Lênin và
những cuộc đấu tranh của Người mới đẩy lùi được chủ nghĩa dân túy. Các tác phậm của
Lênin: Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ- xã
hội ra sao? Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga và bài Gửi nông dân nghèo đã vạch
trần tính chất ảo tưởng của chủ nghĩa dân túy, đồng thời nêu lên những nguyên lý về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Nga và liên minh công nông.
Cùng với phái dân túy. “phái mácxit hợp pháp” là nhóm tri thức tư sản tự do, núp dưới
chiêu bài chủ nghĩa Mác, phê phán chủ nghĩa dân túy là kể bảo vệ nền sản xuất nhỏ,
nhưng lại tán dương chủ nghĩa tư bản, tìm cách làm cho chủ nghĩa Mác và phong trào công
nhân thích nghi với chủ nghĩa tư bản. Lênin tạm thời bắt tay với phái này để cùng chống
phái dân túy, nhưng về nguyên tắc vẫn kịch liệt phê phán “ phái mácxit” là cắn xén chủ
nghĩa Mác, mưu toan làm cho chủ nghĩa Mác thích nghi với chủ nghĩa tư bản, là xét lại chủ
nghĩa Mác. Lênin gọi phái dân túy là kẻ thù công khai và “phái mácxit hợp pháp” là kẻ thù
giấu mặt của phong trào cách mạng Nga.
“Phái kinh tế” là trào lưu cơ hội trong phong trào công nhân Nga, là mối nguy cơ đặc biệt
đối với cách mạng Nga, tuyên bố công khai đấu tranh cho địa vị và quyền lợi kinh tế,
chống chế độ tư bản trên cơ sở những lợi ích hằng ngày, và bãi công là hình thức đấu
tranh duy nhất của giai cấp công nhân, còn đấu tranh chính trị là công việc của giai cấp tư
sản tự do. Thực chất quan điểm đó là sự phủ nhận việc phải có chính đẳng độc lập của giai
cấp vô sản, phủ nhận việc có chính đẳng độc lập của giai cấp vô sản và biến thành giai cấp
vô sản thành vật phụ thuộc về chính trị của giai cấp vô tự do. “phái kinh tế” ở Nga là một
biến tướng của chủ nghĩa cơ hội trong quốc tế II từ sau khi Ăngghen mất.
Trong cuộc đấu tranh với các đảng phái dân túy, mácxit hợp pháp, kinh tế, Lênin chỉ rõ,
tất cả các phái này về lý luận đều phủ nhận đấu tranh giai cấp, phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản, phủ nhận cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; về chính trị, đều
hạ thấp đấu tranh chính trị, đề cao đấu tranh kinh tế, chỉ thấy lợi ích trước mắt không thấy

lợi ích lâu dài, phủ nhận cách mạng bạo lực đề cao đấu tranh “hợp pháp”, “hòa bình”; về
tổ chức, đều sung bái tính tự phát, tính tản mạn tiểu tư sản, phủ nhận nguyên tắc tập trung
dân chủ. Do đó, cuộc đấu tranh không khoan nhượng của Lênin ở Nga lúc bấy giờ cũng
chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đang diễn ra trong Quốc tế II nhằm bảo vệ
và truyền bá chủ nghĩa Mác.
b. Sự thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga
Trong quá trình tuyên truyền chủ nghĩa Mác và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội ở nước
Nga cũng như trong Quốc tế II, Lênin luôn hướng tới việc thành lập một chính đảng cách
mạng của giai cấp vô sản. Ngay tư năm 1894, trong tác phầm những “người bạn dân” là
thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ- xã hội ra sao?
Lênin đã đặt ra cho những người xã hội chủ nghĩa nhiệm vụ phải giúp đỡ công nhân tạo ra
một tổ chức mang tính quốc tế chất là một lực lượng chính trị. Với vai trò nòng cốt của Hội
Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân Pêtécbua do Lênin sáng lập, sau một
thời gian chuẩn bị, nhân dân chủ- xã hội Nga được tổ chức (Đại hội I). Bản Tuyên ngôn
được Đại hội I thông qua đã tuyên bố đấu tranh nhằm lật độ chế độ chuyên chế, giành tự
do chính trị là điều kiện cơ bản để giai cấp công nhân đấu tranh thắng lợi “nhằm cải thiện
từng phần và giải phóng hoàn toàn” là bước đầu để “thực hiện sứ mệnh lịch sử vĩ đại của
gia cấp vô sản, tức là xây dựng một chế độ xã hội không có người bóc lột người”
2
.
Tuy nhiên, do những bất đổng nội bộ sâu sắc, Đại hội I đã thông qua cương lĩnh, còn các
nghị quyết về vấn đề tổ chức thì có tính chất chung chung và không đáp ứng được nhu cầu
cấp bách là làm cho toàn bộ hoạt động của địa phương phục vụ những nhiệm vụ trung tâm
của phong trào công nhân và phong trào dân chủ - xã hội nói chung. Sau Đại hội, những
người dân chủ- xã hội Nga đã biến thành một “nhóm ô hợp” của tổ chức đảng địa Phuong,
vì họ chưa có điều lệ, cương lĩnh và không có sự lãnh đạo từ một trung tâm. Trong Đảng
Cộng nhân dân chủ- xã hội Nga, khuynh hướng của “phái kinh tế” và chủ nghĩa cơ hội
2
Phong trào công nhân quốc tế- Những vấn đề lịch sử và lý luận. NXB. Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr, 432.
Bécxtanh chiếm ưu thế, nó đã đưa công nhân Nga đến những cuộc đấu tranh rời rạc và yếu

ớt.
Cuối năm 1899, trong lúc bị đi đày, nhưng Lênin đã đề ra kế hoạch đẩy mạnh đấu tranh
nhằm biến Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga thành một đảng chiến đấu của giai cấp vô
sản hoạt động dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Lênin nhấn mạnh rằng, nếu
không cải tiến tổ chức thì phong trào công nhân Nga không thể tiến lên được. Điểm trung
tâm của công tác cải tiến tổ chức là phải xây dựng một cơ quan ngôn luận của Đàng, có sự
liên hệ điều đặn với các địa phương để khắc phục cách làm việc “thủ công” và “ phân tán”
của Đảng. Nhưng chỉ có cơ quan ngôn luận do các nhà mácxit về mặt tư tưởng, mà còn
phải có cương lĩnh của những người công nhân dân chủ- xã hội Nga. Vì thế, Lênin đã viết
bài Dự thảo cương lĩnh của Đảng, nhằm khôi phục sự thống nhất thực sự trong Đảng, xác
định đúng đắn nhiệm vụ chính trị và những yêu sách cần thiết để thực hiện nhiệm vụ chính
trị của Đảng. Củng với việc Dự thảo cương lĩnh của Đảng, Lênin còn viết một tác phẩm
phê phán chủ nghĩa kinh tế, chủ nghĩa Becxtanh, và hướng dẫn phong trào công nhân đi
đến con đường đấu tranh chính trị. Cuối tháng Giêng năm 1900, vừa ra khỏi nhà tù, Lênin
liền bắt tay vào việc tổ chức một tờ báo mang tên là Tia lửa đặt ở Muynkhen (Đức). Thông
qua báo Tia lửa, Lênin đã kiên trì tuyên truyền cương lĩnh của Đảng và giáo dục công nhân
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội để tạo ra một sự thống nhất tư tưởng vững chắc trong
những người dân chủ- xã hội Nga.
Trong ba năm hoạt động, báo Tia lửa đã giải đáp những vấn đề nóng hổi của đời sống
chính trị- xã hội, hưởng ứng những sự kiện liên quan đến lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân và những người lao động Nga. Tiếng vang lớn nhất của báo Tia lửa là đã giới thiệu
tác phẩm Làm gì? Của Lênin. Chính tác phẩm Làm gì? Là người dẫn đường trong cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân và những người lao động Nga, nhanh chóng đoàn kết
Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga trên lập trường chủ nghĩa Mác. Những nguyên lý về
xây dựng Đảng đã được Lênin nêu ra trong tác phẩm này, đặc biệt là về phương diện tư
tưởng và tổ chức, khi đấu tranh chống “phái kinh tế”, Lênin cho rằng: “Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, chỉ đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”
3
. Những

nguyên lý này được Lênin rút ra từ sự phân tích sâu sắc phong trào dân chủ- xã hội Nga
cũng như việc nghiên cứu kinh nghiệm trong phong trào công nhân quốc tế. Chỉ có nắm
vững những nguyên lý đó, kiên trì giữ vững hệ tư tưởng của giai cấp vô sản thì đảng
mácxit ở Nga mới có được cương lĩnh và những khẩu hiệu đấu tranh thực tế. Nếu không
làm vậy, đảng sẽ đi theo phong trào công nhân tự phát mà “ mọi sự sung bái tính tự phát
của phong trào công nhân, mọi việc coi nhẹ vai trò của “yếu tố tự giác”, coi nhẹ vai trò của
Đảng dân chủ- xã hội, thì đều có nghĩa-dù người ta muốn hay không muốn- là tăng cường
ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản đối với công nhân”. Tác phẩm Làm gì? Còn nêu ra
nguyên tắc chủ đạo của đảng vô sản kiểu mới là tập trung dân chủ. Nguyên tác đó chỉ rõ,
Đảng không thể hoạt động được nếu không có sự lãnh đạo vững vàng, đầy năng lực chiến
đấu và sự phối hợp hành động chặt chẽ của tất cả các bộ phận phối hợp thành của Đảng.
Chính nhờ tác phẩm Làm gì? Và kế hoạch của Lênin về việc thành lập một đảng kiểu mới
do Lênin nêu ra ở báo Tia Lửa mà hầu hết các đảng bộ từ Mátxcơva, Ôriôn đến Pêtécbua
đã đoàn kết xung quanh ban biên tập báo Tia Lửa và sẵn sang đi tới xây dựng chính đảng
cách mạng.
Sau hơn ba năm chuẩn bị, tháng 7-1903, Đại hội II của Đảng Công nhân dân chủ- xã hội
Nga đã họp tại Brúcxen để thành lập đảng vô sản. Đại hội II đã thông qua Cương lĩnh,
Điều lệ và bầu ra các cơ quan Trung ương của Đảng. Đại hội II của Đảng Nhân dân chủ-
xã hội Nga đã hoàn thành quá trình thống nhất của các tổ chức mácxit cách mạng và lập
nên đảng của giai cấp công nhân Nga trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và chính trị, tư
tưởng do Lênin vạch ra. Đó là một đảng có nhiệm vụ giải đáp những vấn đề chưa bao giời
được đặt ra cho bất cứ đảng xã hội nào trên thế giới. Đại hội II của Đảng Công nhân dân
chủ- xã hội Nga thực tế đã trở thành Đại hội sáng lập chính đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân.
Nhưng cũng từ đây, trong Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga lại chia thành hai phái:
Bôsêvich và Mensêvich. Những người Bônsêvich do Lênin lãnh dẫn đầu tiếp tục đấu tranh
3
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.6, tr.32.
chống lập trường cơ hội của chủ nghĩa phái Mensêvich. Những tác phẩm của Lênin viết
trong thời kỳ này đã đóng vai trò quyết định trong việc tiến tới xây dựng hoàn chỉnh một

đảng vô sản kiểu mới. Tác phẩm Một bước tiến, hai bước lùi đã chuẩn bị cho Đảng về tổ
chức cà những nguyên tắc xây dựng Đảng. Trong tác phẩm này, Lênin đã nêu đầy đủ các
nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới như: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân;
Đảng là bộ phận có tổ chức và là tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ; Đảng là hiện thân
của sự liên hệ giữa đội tiên phong của giai cấp công nhân với đông đảo quần chúng lao
động; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Tác phẩm Hai sách lược
của Đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ là sự chuẩn bị cho Đảng về mặt đường
lối chính trị. Sau cùng, tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, đã
chuẩn bị về mặt lý luận cho Đảng. Hội nghị đại biểu của Đảng lần thứ sáu ở Praha năm
1912, đã trục xuất phái Mensêvich ra khỏi Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga. Toàn bộ
quá trình đấu tranh chống phái dân túy, là một quá trình chuẩn bị thành lập và hoàn chỉnh
một đảng nào lại chuẩn bị chu đáo để tiến tới xây dựng một đảng độc lập như những người
mácxit Nga dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lênin. Đó là, Đảng Công nhân dân chủ- xã
hội(Bônsêvich) Nga- một đảng kiểu mới, Đảng của chủ nghĩa Lênin.
2- Lênin vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện nước Nga.
a) Lênin vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện nước Nga
theo Lênin, sở dĩ cần phải không ngừng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác là do những nhu
cầu khách quan của phong trào công nhân và do tính chất sáng tạo cách mạng của bản thân
học thuyết Mác đòi hỏi. Lênin không chỉ bảo vệ mà còn phát triển những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác ở một trình độ mới phù hợp với những điều kiện thực tiễn của thời đại, và
do đó làm cho nội dung của chúng thêm phong phú, giàu ý nghĩa thực tiễn và lý luận hơn.
Tùy theo những nhiệm vụ cụ thể của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của giai cấp vô
sản cách mạng, mà Lênin đã chú ý đến mặt này hoặc mặt khác của chủ nghĩa Mác, nhưng
trước sau như một Người vẫn xuất phát từ mối quan hệ qua lại hữu cơ của chúng, kiên
quyết giáng trả những mưu toan định chia cắt học thuyết Mác ra thành các thành phần
riêng biệt, thay nó bằng một mớ hỗn tạp, máy móc. Do vậy, linh hồn sống của chủ nghĩa
Mác là phép biện chứng duy vật đã được Lênin phát triển sáng tạo trong hoạt động của
Người.
Lênin đã phê phán một cách khoa học và sâu sắc những quan điểm siêu hình coi xã hội là
một phạm trù “siêu lịch sử”. Người chỉ rõ tính đúng đắn của những nguyên lý của Mác về

quy luật vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự phân tích của Lênin về tính biện chứng
và sự phát triển của xã hội cho thấy, tiến bộ lịch sử nhất định sẽ được thực hiện trong quá
trình đấu tranh giai cấp, trong tiến trình cách mạng xã hội làm sụp đổ chủ nghĩa tư bản.
Trong khi chống lại quan điểm lý luận trừu tượng đối với vấn đề phong trào cách mạng,
Lênin viết rằng “xu hướng muốn giải đáp những vấn đề cụ thể bằng cách phát triển một
cách đơn thuần lôgic một chân lý chung về tính chất cơ bản của cách mạng ở nước ta, là
một cách lập luận tầm thường hóa chủ nghĩa Mác và chỉ chế giễu chủ nghĩa duy vật
biện chứng”
4
. “Nhưng chân lý trừu tượng của lý luận” chỉ được dùng làm những nguyên
ký chỉ đạo, những công cụ dùng để phân tích những tài liệu cụ thể mà thôi. Lênin đã đi sâu
thêm và cụ thể hóa quan niệm duy vật về lịch sử phù hợp với những thay đổi tình hình thế
giới. Những công trình nghiên cứu lịch sử- xã hội của Người là một cống hiến đáng kể vào
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Lênin cũng đem lý luận mácxit về đấu tranh giai cấp đối lập với luận điểm trừu tượng về
tính định mệnh của “tính tất yếu của lịch sử”- một luận điểm bị tách rời khỏi đời sống hiện
thực. Người chỉ ra rằng, bản thân “tính tất yếu của lịch sử” được thực hiện thông qua đấu
tranh giai cấp. thông qua xung đột lợi ích của các giai cấp. Lênin viết: “ Người khách quan
chủ nghĩa nói đến tính tất yếu của một quá trình lịch sử nhất định; còn người duy vật thì
xác nhận một cách chính xác sự tồn tại của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định và
4
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.3, tr.15.
những quan hệ đối kháng mà hình thái kinh tế- xã hội ấy sản sinh ra. Người khách quan
chủ nghĩa, khi chứng minh tính tất yếu của một loại sự thật nhất định, thì luôn luôn có thể
bị rơi vào quan điểm của một kẻ biện hộ cho những mâu thuẫn giai cấp ra và do đó xác
định quan điểm của mình. Người khách quan chủ nghĩa nói đến những “xu thế lịch sử
không thể khắc phục nổi”; chế độ kinh tế nhất định và tạo ra những hình thức phản kháng
nhất định của giai cấp khác. Như vậy là… so với người khách quan chủ nghĩa thì người
duy vật là triệt để hơn. Vận dụng chủ nghĩa khác quan một cách sâu sắc hơn, toàn diện
hơn. Người duy vật không chủ nêu lên tính tất yếu của quá trình, mà còn làm sáng tỏ hình

thái kinh tế- xã hội nào đã đem lại nội dung cho quá trình đó và chính giai cấp nào đã quyết
định tính tất yếu của quá trình ấy”
5
Lênin nghiên cứu kỉ lập trường của giai cấp cơ bản ở nước Nga đối với những biến
chuyển diễn ra trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đối với những mâu thuẫn
khách quan của xã hội Nga. Người cũng nêu lên một nguyên lý quan trọng của lý luận cách
mạng, mà theo đó thì lực lượng giai cấp công nhân “trong phong trào lịch sự thì vô cùng
lớn hơn số lượng của giai cấp trong toàn bộ dân cư”. Nhờ quan điểm biện chứng đối với
nghiên cứu sự phát triển xã hội mà Lênin trước cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất rất lâu đã
xác định được đúng đắn sự bố trí lực lượng giai cấp trong nước và chỉ cho giai cấp vô sản
những nhiệm vụ đấu tran cụ thể. Ngay vào giữa những thay đổi của thế kỷ XIX, khi công
nhân nước Nga mới bước lên vũ đài đấu tranh chính trị, Lênin đã thấy trước những tư
tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân rộng lớn nhất định
sẽ được truyền bá rộng rãi ở nước Nga.
Lênin đã đề ra những nguyên lý mới làm cho nền kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác
được phong phú thêm. Trong khi tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa tư bản theo quan điểm
mácxit, Lênin đã phát hiện thêm một số nét mới trong sự phát triển của nó có liên quan đến
quá trình quốc tế hóa và tích tụ tư bản: chủ nghĩa tư bản không chỉ bó hẹp trong phạm vị
quốc gia dân tộc, và nó chuyển sự thống trị của mình sang những nước khác; tư bản
5
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.3, tr.524.
thường xuyên di chuyển từ nước này sang nước khác; ngân hàng dân tộc trở thành ngân
hàng quốc tế; xuất hiện những công ty cổ phần kếch xù chiếm hữu những xí nghiệp không
chỉ ở một nước, mà còn ở một số nước; xuất hiện các tổ chức quốc tế của các nhà tư bản.
Qua đó Lênin đã rút ra kết luận, cần phải đoàn kết công nhân tất cả các nước thành một đội
quân cách mạng thống nhất để chống lại tư bản đã liên kết trên phạm vi quốc tế.
Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, Lênin đã nghiên cứu những
nguyên lý kinh tế, chính trị học của chủ nghĩa Mác về giá trị thăng dư, về sản xuất và lưu
thông tư bản, về vai trò của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. Việc Lênin nhận định xu
hướng phân tích sau này về chủ nghĩa tư bản. Xu hướng đó thể hiện ở chỗ việc tích tụ sản

xuất trong các xí nghiệp ngày càng lớn được tăng cường tốc độ “cực kỳ nhanh”, ở chỗ
“quyền lực của đồng tiền” tăng lên, tập trung “vào một số không lớn cơ sở doanh nghiệp
kếch xù (ngân hàng)”, và ngày càng gắn bó trực tiệp với nền sản xuất xã hội. Lênin đã phê
phán việc Béctanh xét lại những nguyên lý của chủ nghĩa tư bản. Người bác bỏ luận điểm
cải lương chủ nghĩa về “dân chủ hóa” tư bản ở các công ty cổ phần. và nhấn mạnh rằng
“trên thực tế”, những công ty cổ phần được dùng để tước đoạt công chúng cả tin và không
giàu có, nhằm làm lợi cho những nhà tư bản lớn và những bọn đầu cơ lớn”. Lênin đã chỉ
ra rằng sự độc quyến hóa tư bản biến chế độ bảo hội từ chỗ là một phương tiện để bảo vệ
nền công nghiệp dân tộc thành công cụ của một nhóm “bọn đầu sỏ”; sử dụng công cụ đó
để bành trướng trên thị trướng thế giới. Người đã chứng minh tính chất vô căn cứ của
những lời khẳng định rằng tư bản độc quyền có thể ngăn chặn khủng hoảng.
Từ việc phân tích hiện tượng mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, Lênin tiếp tục đi sâu nghiên cứu học thuyết về chủ nghĩa quốc tế và đã
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương xã
hội. Công lao to lớn của Lênin là ở chỗ, Người đã vạch ra một cách toàn diện ý nghĩa lý
luận cách mạng đối với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản trong điều kiện chủ
nghĩa đế quốc. Lênin nhận xét rằng, phong trào công nhân khi chưa được khoa học tiên
tiến của thời đại mình soi sáng, thì nhất định sẽ bị phân tán và yếu. Vì thế, Người chỉ rõ ý
nghĩa của hình thức đấu t ranh lý luận, và nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Mác thừa nhận tầm
quan trọng của hình thức đấu tranh ấy ngang với những hình thức đấu tranh kinh tế và
chính trị
6
.
Lênin hết sức coi trọng sự tham gia của tầng lớp trí thức dân chủ vào cuộc đấu tranh giải
phóng. Khi xác định sách lược của giai cấp vô sản cách mạng, năm 1902, Lênin viết:
“Cũng như bất cứ giai cấp nào khác của xã hội hiện đại, giai cấp vô sản không những chỉ
tạo ra tầng lớp tri thức riêng của mình, mà còn thu nạp cả những người ủng hộ mình trong
tất cả và mọi người có học thức”. Lênin kêu gọi công nhân triệt để ủng hộ tầng lớp thanh
niên học sinh tiên tiến để làm cho những cuộc đấu tranh chống chính phủ và họ mang tính
chất cách mạng, và do đó mà mở rộng hàng ngũ của phong trào giải phóng. Người viết:

“Và thật là không xứng đáng với danh hiệu người xã hội chủ nghĩa, nếu người công nhân
nào đó lại có thể bàng quan đứng nhìn chính phủ đưa quân đội đến đàn áp giới thanh niên
sinh viên. Sinh viên đã đến chi viện cho công nhân; vậy công nhân phải đi chi việc cho
sinh viên”
7
.
Sách lược của Lênin còn thể hiện ở việc tiến hành chính sách liên minh và thỏa hiệp mền
dẻo với các tổ chức và trào lưu xã hội đại diện cho các tầng lới khác nhau. Lênin viết: “
Chỉ có những người nào không tự tin, mới sợ những cuộc liên minh tạm thời, ngay cả với
những phần tử không chắc chắn. Không một chính đảng nào có thể tồn tại được, nếu không
tiến hành những cuộc liên minh như thế”
8
.
Lênin không bao giời tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực trong cuộc đấu tranh chính trị.
Người chỉ ra rằng: “ Đương nhiên, giai cấp công nhân mong muốn giành lấy chính quyền
bằng những biện pháp hòa bình” và chỉ trong trường hợp “ giai cấp tư sản sẽ không muốn
nhượng bộ giai cấp vô sản một cách hòa bình, và rất có thể là vào lúc quyết định, giai cấp
tư sản sẽ dùng bạo lực để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của nó”. Lúc đó, để đạt mục đíc của
mình, giai cấp công nhân chẳng còn có cách nào khác hơn là tiến hành cách mạng”.
6
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.4, tr.31.
7
V.I. Lênnin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.6, tr.99.
8
V.I. Lênnin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Matcơva, 1975, t.4, tr.333-334.
Như vậy, chiến lược và sách lược của Lênin phản ánh biện chứng khách quan của quá
trình cách mạng, đã trở thành kim chỉ nam có hiệu quả cho hành động của quần chúng;
đem lại phương hướng đúng đắn cho chính sách của những người Bônsêvich trong việc
chuẩn bị cho giai cấp vô sản bước vào cuộc đấu tranh giai cấp sắp đến; vũ trang cho sự
hiểu biết một cách có căn cứ khoa học về những hình thức và phương pháp đấu tranh cách

mạng.
b) Học thuyết Lênin về Đảng kiểu mới
Công lao lịch sử trong việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác của Lênin còn thể hiện ở chổ
chính Người đã sáng lập ra một học thuyết hoàn chỉnh về đảng; thảo ra một cách toàn diện
những cơ sở lý luận và tổ chức, chiến lược và sach lược của Đảng, đề ra những tiêu chuẩn
về sinh hoạt đảng và những nguyên tắc lãnh đạo của đảng. Lênin xuất phát từ những tư
tưởng của Mác và Ăngghen về những nguyên lý của tổ chức chính trị của giai cấp vô sản
mà hai ông coi đó là như một đội tiên phong cách mạng; được vũ trang bằng lý luận chủ
nghĩa cộng sản khoa học, bằng cương lĩnh và sách lược có căn cứ khoa học đứng vững trên
lập trường giai cấp.
Việc luận chứng học thuyết về đảng kiểu mới và vận dụng nó một cách có kết quả vào thực
tiễn là những sự kiện hết sức quan trọng trong lịch sử của phong trào cách mạng thế giới
và ý nghĩa và ảnh hưởng của nó không những không bị yếu đi cùng với thời gian, mà
ngược lại, càng mạnh lên. Chính vì thế mà kẻ thù của chủ nghĩa Mác- Lênin ra sức xuyên
tạc, bóp méo những nguyên lý tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức của học thuyết này.
Lênin đã xác định tôn chỉ, mục đích và nêu lên những nguyên tắc khoa học của việc tổ
chức một đảng cách mạng của giai cấp công nhân, mục đích và nhiệm vụ của đảng, con
đường và phương pháp để thực hiện những nhiệm vụ đó. Đảng có nhiệm vụ bảo đảm động
viện quần chùng vô sản rộng rãi nhất và tất cả nhân dân lao động tham gia cuộc đấu tranh
giải phóng. Nguyên lý về việc kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác chiếm vị
thế chủ yếu trong học thuyết Lênin về đảng cách mạng. Lênin đã chỉ ra rằng đảng chỉ có
thể đảm nhiệm vai trò của mình nếu được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, tức là học thuyết
Mác, và nếu đảng biết phát triển học thuyết Mác, đó là một sáng tạo phù hợp với nhu cầu
thực tiễn cách mạng. Trên cơ sở tư tưởng ấy, đảng đoàn kết tất cả các đảng viện, tạo nên
sự thống nhất ý chí và hành động, xác định và phát triển mối liên hệ với quần chúng và mở
rộng hoạt động của mình.
Lênin đã vạch rõ những hy vọng ảo tưởng cho rằng phong trào công nhân có thể tự phát
xây dựng hệ tư tưởng khoa học độc lập. Với lực lượng hoàn toàn của bản thân mình, giai
cấp công nhân chỉ có thể tạo nên ý thức công liên chủ nghĩa. Ý thức xã hội chủ nghĩa phải
được đưa từ ngoài vào, và đó là nhiệm vụ của đảng mátxít cách mạng của giai cấp công

nhân. Do đó, điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là cụ thể hoá những nguyên tắc chung; là
khả năng vận dụng một cách đúng đắn của chủ nghĩa Mác và đặc điểm của mỗi nước
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Lênin nhấn mạnh rằng khi tuyên truyền thời kỳ lịch
sử nhất định.
Theo học thuyết của Lênin thì đảng vô sản kiểu mới là đội tiên phong giác ngộ và có tổ
chức của công nhân, đồng thời đoàn kết những người đại biểu tiên tiến nhất của các tập
đoàn xã hội khác đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Công lao to lớn của
Lênin là đã luận chứng một cách khoa học những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; thống
nhất công tác tổ chức và công tác chính trị; lý luận và thực tiễn; lời nói và việc làm; kết
hợp tính kế thừa và đường lối chung của đảng với việc đề ra và giải quyết sáng tạo những
vấn đề cấp bách do bản thân cuộc sống và thực tiễn đặt ra; củng cố mối liên hệ với quần
chúng, chú ý toàn diện đến lợi ích và tâm trạng của họ; tính tập thể của sự lãnh đạo; trách
nhiệm cá nhân của mỗi người đối với phần việc được giao. Để thực hiện những nguyên tắc
đó phải có trình độ cao về tính chủ động và tính tích cực của cách mạng trong việc thực
hiện đường lối chính trị của đảng. Học thuyết của Lênin về đảng vô sản kiểu mới, việc
thực hiện thắng lợi học thuyết đó trong thực tiễn đã trở thành tài sản của toàn bộ phong
trào cách mạng thế giới và vẫn nóng hổi tính thời sự cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Những điều ấy là tiền đề vô cùng quan trọng để giai cấp công nhân hoàn toàn hoàn thành
thắng lợi sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình.
c) Chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản
sở dĩ Lênin chú ý đến những vấn đề của chủ nghĩa quốc tế vô sản là do xuất phát từ tình
hình bên trong của một nước gồm nhiều dân tộc, ở đó, việc tập hợp những lực lượng cách
mạng của tất cả các dân tộc là tiền đề không thể thiếu để triển khai cuộc đấu tranh của
quần chúng lao động nhằm giải phóng xã hội và giải phóng dân tộc; cũng như do xuất phát
từ vị trí quốc tế của giai cấp vô sản Nga được lịch sử đưa lên vị trí trung tâm của quá trình
cách mạng thế giới. Lênin đã áp dụng sáng tạo nguyên tác mácxit về chủ nghĩa đế quốc
vô sản vào việc xây dựng hệ tư tưởng và chính sách của Đảng Dân chủ- xã hội Nga. Người
đã vạch ra những biện pháp chủ yếu để giải tán vấn đề tương quan giữa yếu tố dân tộc và
yếu tố quốc tế trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản; giải thích về mặt kinh
tế-xã hội sự ra đời và phát triển của các dân tộc; nêu lên những nguyên tắc có tính chất

cương lĩnh và thực tiễn của chính sách của giai cấp công nhân về vấn đề dân tộc; phê phán
kich liệt những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội- dân tộc trong phong trào dân chủ- xã hội.
Lênin coi chủ nghĩa đế quốc vô sản không chỉ là một trong những yếu tố của chủ nghĩa
cộmg sản khoa học. Tiếp theo Mác và Ăngghen, Lênin xuất phát từ chỗ cho rằng sự cùng
chung địa vị và lợi ích của công nhân các nước khác nhau in dấu ấn không thể xóa nhòa
trên tất cả các mặt hoạt động cách mạng của giai cấp vô sản và của các tổ chức của họ, làm
cho hệ tư tưởng, chính sách và cuộc đấu tranh thực tiễn của giai cấp vô sản có tính chất
quốc tế chủ nghĩa. Bản thân học thuyết Lênin là sự kế tục và phát triển một cách tất nhiên
chủ nghĩa Mác. Học thuyết đó đã ra đời và hình thành với tư cách là sự khái quát kinh
nghiệm quốc tế của phong trào công nhân, là sự thể hiện những lợi ích quốc tế của giai cấp
công nhân và với ý nghĩa này, nó còn là sự phát triển của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc chính thức chủ nghĩa Lênin, nó là
thế giới quan khoa học biểu hiện cùng chung lợi ích và sự thống nhất mục đích của công
nhân các dân tộc khác nhau; là hệ tư tưởng của các đảng công nhân cách mạng nhằm tập
hợp nhân dân lao động tất cả các nước trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã
hội; là sự thực hiện tư tưởng đó trong hoạt động thực tiễn của những người xã hội chủ
nghĩa, trong những nỗ lực của họ nhằm đoàn kết công nhân trong phạm vi quốc tế; là
nguyên tắc có tính chất quyết định trong việc xây dựng những tổ chức cách mạng của giai
cấp công nhân và trong mối quan hệ tương hỗ giữa tổ chức ấy.
Chủ nghĩa Lênin là một học thuyết thực sự có tính chất quốc tế của giai cấp công nhân, là
sản phẩm của sự phát triển sáng tạo di sản lý luận của Mác và Ăngghen, là kết quả của việc
khái quát kinh nghiệm của phong trào giải phóng quốc tế và tổng hợp những kiến thức mà
khoa học tiên tiến đã tích lũy. Chính bản báo cáo rất quan trọng của Lênin Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa được trình bày tại Đại
hội II Quốc tế Cộng sản tháng 7 năm 1920 đã trở thành một đóng góp quý báu vào học
thuyết Mác và vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, cũng
như đã chỉ ra sự cần thiết phải có sự phối hợp hành động giữa phong trào công nhân quốc
tế và phong trào giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của Mác: “Vô sản toàn thế giới, liên hiệp
lại” đã được Lênin phát triển thành : “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn
kết lại!”. Có thể hiểu một cách đơn giản rằng chủ nghĩa đế quốc vô sản Mác đã được

Lênin phát triển thành liên minh quốc tế của những giai tầng lao động-công nhân, binh
lính- những người bị áp bức bóc lột trên thế giới. Học thuyết đó bao quát cả một thời đại
trong lịch sử tư tưởng xã hội và các phong trào cách mạng, là một nhân tố có ý nghĩa thế
giới, thúc đẩy sự phát triển tiếp theo của cách mạng xã hội, định hướng cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân quốc tế trên hành trình tự giải phóng.
CHƯƠNG II CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ CÔNG CUỘC CNXH Ở
LIÊN XÔ (1917-1941)
I. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
1. Những tiền đề của cách mạng
Cách mạng tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng vĩ đại không chỉ với nước Nga mà
còn đối với lịch sử nhân loại. Nó đã làm thay đổi sau sắc mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
từ kinh tế, chính trị và văn hóa nước Nga. Nó mở ra một thời đại mới cho nhân loại, thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các nhà sử học tư sản đã không chụi thừa nhận tính quy
luật khách quan của Cách mạng tháng Mười Nga. Họ cho rằng, Cách mạng tháng Mười
Nga sở dĩ nổ ra giành thắng lợi do những “sai lầm của chính phủ lâm thời”, “ Sự bất hòa
trong phe những người tự do”, thắng lợi của cách mạng mang tính ngẫu nhiên chứ không
theo một quy luật nào cả, bởi vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX những tiền đề cho cuộc
cách mạng XHCN chưa chín muồi ở nước Nga.
Sự thật là cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tuy phát triển sau các nước Tư bản Tây Âu
nhưng cũng giống như các nước CNTB đó, nước Nga đã có những chuyển biến sâu sắc
về chính trị, kinh tế.
a) Tình hình kinh tế
Là một nước tư bản trung bình, nhưng ở nước Nga quá trình tập trung sản xuất và hình
thành các tổ chức độc quyền (Xanhđica) đã phát triển nhanh chóng. Đầu thế kỉ XX, ở Nga
đã có 150 tổ chức độc quyền, lũng đoạn tất cả các nghành kinh tế quốc dân.
Các tổ chức độc quyền không chỉ kiểm soát và chi phối nhiều lĩnh vực công nghiệp quan
trọng như dầu mỏ, luyện kim, than đá, đường sắt…mà còn kiểm soát được cả lĩnh vực
ngân hàng- tín dụng. Năm 1980, các xí nghiệp có 100 công nhân chiếm 2% số xí nghiệp
nhưng đã xuất khẩu đến 50% tổng sản lượng công nghiệp.
Ở Nga đã xuất hiện lũng đoạn tư bản tài chính trên cơ sở hợp nhất tư bản ngân hàng và tư

bản công nghiệp. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chỉ 13 ngân hàng lớn ở
Pêtecbua mà đã nắm trong tay 65% tổng số vốn của tư nhân và 72% số tiền gửi vào ngân
hàng. Do có thế lực kinh tế mạnh, tư bản độc quyền Nga đã giữ những cương vị quan
trọng trong Viện Đuma Quốc gia, trong các cơ quan nhà nước, câu kết chặt chẽ với chính
quyền Nga hoàng để chi phối chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.
Đầu thế kỷ XX, đế quốc Nga là 1 trong những đế quốc lớn nhất thế giới. Sau khi Nga
hoàng Aleksandr II thực hiện cuộc cải cách nông nô 1861, chủ nghĩa tư bản Nga phát triển
nhanh chóng. Tuy phát triển sau các nước tư bản Tây Âu nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, cũng như các nước Tây Âu khác, đế quốc Nga cũng chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Tư bản nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Nga như Anh, Pháp, Đức đặc biệt
là Pháp với 5 tỉ Rupee. Các ngành công nghiệp nặng phát triển như luyện kim, cơ khí, hoá
dầu,… với nhiều thành tựu như từ năm 1860 đến 1890, sản lượng thép tăng lên 3 lần, than
đá tăng 19 lần, chiều dài đường xe lửa tăng gấp đôi. Sản lượng công nghiệp Nga chiếm
4 % sản lượng công nghiệp thế giới, đứng thứ 5 thế giới. Đến đầu thế kỷ XX, 150 công ty
độc quyền thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga như ngân hàng Nga Á chiếm 1/3 tổng số vốn
ngân hàng của nước Nga. Về trình độ công nghiệp của Nga thua kém các nước khác nhưng
mức độ tập trung công nghiệp rất cao. ¾ công nhân Nga tập trung ở các thành phố lớn như
Petrograd, Moskva, khu khai thác than Donetsk, khu khai thác dầu Baku.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng nhưng muộn màng của chủ nghĩa tư bản Nga vẫn
không thể thay đổi 1 thực tế là nước Nga là vẫn là 1 nước nông nghiệp với mối quan hệ sản
xuất phong kiến lạc hậu. Tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn tồn tại sâu rộng ở nước Nga
thể hiện rõ nét ở việc phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc, địa chủ. 2/3 ruộng đất
trong nước nằm trong tay địa chủ, quý tộc, 30 000 đại địa chủ chiếm tới 70 triệu mẫu Nga
(1 mẫu Nga = 1,09 hecta) ruộng đất. Nga hoàng đồng thời cũng là địa chủ lớn nhất với 7
triệu mẫu Nga ruộng đất. Địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo, nhất là chế
độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu do đó năng suất thấp, nạn mất mùa và
đói kém xảy ra thường xuyên.
Như vậy , xét về mặt kinh tế, nền kinh tế nước Nga tuy còn lạc hậu nhưng nó đã chứa đựng
nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản với quan hệ
sản xuất phong kiến, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển độc lập của nền kinh tế Nga với sự

bóc lột và kìm hãm của CNTB nước ngoài. Tình hình kinh tế đã trở thành một trong những
tiền đề cho cách mạng.
b) Tình hình chính trị- xã hội
Đến đầu thế kỷ XX và trước thế chiến thứ nhất, Nga vẫn là nước theo chế độ quân chủ
chuyên chế dưới sự cai trị của Nga hoàng Nikolai II. Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc
quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hình thái kinh tế tiên tiến
nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn
của chủ nghĩa đế quốc:
 Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Nga với chế độ quân chủ chuyên chế của Nga
hoàng
 Mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân
 Mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản
 Mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các dân tộc trong đế quốc. Đế quốc Nga tồn tại hơn
100 dân tộc và các dân tộc bị đối xử tàn bạo, bị khinh rẻ và chịu nhiều áp bức do đó đế
quốc Nga là “ nhà tù của các dân tộc “.
 Mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các đế quốc khác. Để có thêm thị trường tiêu thụ
hàng hoá và tăng cường lợi nhuận, đế quốc Nga thường xuyên mở những cuộc chiến
tranh giành giật thuộc địa và các khu vực bị ảnh hưởng do đó đế quốc Nga có mâu
thuẫn với nhiều đế quốc khác như Anh về vấn đề Trung Cận Đông, đế quốc Áo-Hung
về vấn đề Balkan, đế quốc Ottoman về vấn đề eo biển Dardanelles và đế quốc Nhật
Bản về vấn đề phạm vi hoạt động ở Thái Bình Dương. Đỉnh điểm của các mối mâu
thuẫn này là chiến tranh Nga-Nhật ( 1904-1905 ) và chiến tranh thế giới thứ nhất .
Ngoài mặt trận, quân đội Nga do trang bị kém và lạc hậu nên liên tiếp thất bại, từ tháng
8 1914 đến tháng 2 1917, quân đội Nga bỏ nhiều vị trí quan trọng như Ba Lan, Latvia,
Lithunia, Litva, Bucovina. Đi kèm với các thất bại là mức độ thương vong khủng
khiếp. Quân lính Nga chết vì bệnh tật, đói, rét và bị bắt làm từ binh. Đến đầu năm 1917
đã có 1,5 triệu lính Nga chết, 4 đến 5 triệu người bị thương, gần 2 triệu binh lính đào
ngũ. Trong khi đó, một số sĩ quan trong quân đội Nga hoàng và bọn tư sản, địa chủ đã
lợi dụng cuộc chiến tranh để làm giàu bất chính. Mọi nỗi khổ của cuộc chiến tranh đè
nặng lên vai các tầng lớp nhân dân Nga, đặc biệt là nông dân, công nhân Nga và hơn

100 dân tộc trong đế quốc Nga. Ngay cả 1 số người trong giai cấp tư sản cũng bất mãn
với chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng, muốn lợi dụng thời cơ để giành lấy chính
quyền.
Trước tình hình đó, trên toàn nước Nga đã xảy ra 1416 cuộc bãi công và 294 cuộc nổi loạn
của nông dân. Quân đội cũng bất mãn với chế độ Nga hoàng. Ngoài mặt trận quân đội đào
ngũ hàng loạt và tổ chức nổi loạn như vụ nổi loạn của các lính thuỷ trên chiến hạm vào
tháng 10 1916. Các dân tộc cũng nổi dậy. Tháng 7 1916 tại Kazakhstan, nông dân đã đứng
lên khởi nghĩa, thiêu huỷ danh sách trưng binh và đập phá các cơ quan nhà nước. Đến thời
điểm này, triều đình Nga hoàng đã không còn khả năng thống trị nữa và nước Nga tiến sát
tới 1 cuộc cách mạng.
Với tình trạng kinh tế và tình hình xã hội tồn tại nhiều mối mâu thuẫn như vậy làm cho đế
quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, tạo nên tiền
đề chủ quan cho cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi.
2) Từ Cách mạng Tháng Hai đến Cách mạng Tháng Mười
a) Cách mạng tháng Hai năm 1917
Sau khi cách mạng dân chủ tư sản 1905-1907 thất bại, nước Nga vẫn là một đế quốc quân
chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Sa hoàng Nikolai II. Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Nga
tuyên chiến với Đức, chính thức tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất với hi vọng có
thêm thị trường và thuộc địa sau chiến tranh. Tuy nhiên quân đội Nga liên tiếp bại trận trên
chiến trường do trình độ tổ chức kém và lạc hậu khiến nhân dân Nga ngày càng bất mãn,
làn sóng phản đối chiến tranh lan rộng do Sa hoàng đã tốn rất nhiều sức người, sức của cho
cuộc chiến. Kinh tế Nga ngày càng suy sụp, nạn đói xảy ra khắp nơi. Triều đình Sa hoàng
tỏ ra bất lực, không thể cai trị được như trước nữa. Điều này báo hiệu một cuộc cách mạng
đang đến gần.
Đảng Bolshevik do Vladimir Ilyich Lênin lãnh đạo nhân thời cơ đó đã tổ chức những cuộc
biểu tình lớn chống chiến tranh và bãi công tập thể. Ngày 9 tháng 1 năm 1917 (22 tháng 1
theo Công Lịch), trong lễ kỷ niệm "Ngày chủ nhật đẫm máu" ở Petrograd đã xảy ra một
cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh. Cuộc biểu tình lan rộng sang Mạc Tư Khoa, Baku và
nhiều thành phố khác.

×