Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường tài chính. Ưu,nhược điểm của từng phương thức huy động vốn. Để đi đến từng phương thức huy động vốn đối với từng phương thức trên thì doanh nghiệp cần cân nhắc những yếu tố nào?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.5 KB, 34 trang )

I. LỜI NÓI ĐẦU.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho
doanh nghiệp được đa dạng hóa, giải phóng các nguồn tài chính trong nền
kinh tế, thúc đẩy sự thu hút vốn vào các doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh
nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển của hệ thống tài chính còn chưa cao,
cũng như một số hạn chế mang tính chủ quan khác, thực trạng huy động vốn
của các doanh nghiệp trong nước hiện còn tồn tại nhiều bất cập cần sớm được
giải quyết.
Vấn đề nguồn vốn và làm thế nào để huy động vốn cho doanh nghiệp
một cách hiệu quả nhất luôn là một bài toán khó mà các doanh nghiệp luôn
không ngừng tìm kiếm lời giải. Nhất là những doanh nghiệp đang trong giai
đoạn phát triển mạnh mẽ và có các yêu cầu cấp thiết về việc mở rộng huy
động vốn để phục vụ cho sự mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Vì thế chúng em lựa chọn đề tài:


nhằm hiểu rõ hơn vấn đề này.Mặc dù rất cố gắng nhưng thể tránh khỏi
những thiếu sót chúng em mong thầy chỉ bảo , giúp đỡ chúng em để bài tiểu
luận được hoàn thiện hơn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn.
1
II. NỘI DUNG.
1. Lý luận chung về huy động vốn
1.1. Khái niệm vốn.
Vốn là toàn bộ tài sản doanh nghiệp ứng ra để tiến hành các hoạt động
kinh doanh sản xuất. Vốn là điều kiện không thể thiếu để doanh nghiệp được
thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn phản ánh
nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình


sản xuất ( theo định nghĩa về vốn của K.Marx). Bản chất của vốn là giá trị cho
dù nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tài sản cố định,
nhà cửa, nguyên vật liệu …Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra
sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ
bản để kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn không chỉ tham gia vào quá trình
sản xuất vật chất riêng biệt mà nó tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất và
tái sản xuất liên tục trong suet thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt
đầu quá trình sản xuất đầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng. Qua đó ta thấy
vốn đưa vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hình thái vật chất
khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường.
Lượng tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được
chi phí bỏ ra ban đầu, đồng thời phải có lãi. Quá trình này phải diễn ra liên tục
thì mới đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.2. Phân loại vốn.
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại vốn, tùy theo loại hình doanh nghiệp
và đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức phân
2
loại phù hợp nhất cho doanh nghiệp mình. Dưới đây là một số tiêu thức phân
loại nguồn vốn thường gặp trong các doanh nghiệp.
● Phân loại theo phương thức chu chuyển thì vốn của doanh nghiệp bao
gồm hai loại đó là vốn cố định và vốn lưu động.Vốn cố định là phần vốn dùng
để đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp, đây là các tài sản có thời gian
sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, thường có giá
trị lớn. Còn vốn lưu động là phần vốn đầu tư vào tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Tài sản lưu động là các tài sản có thời gian sử dụng ngắn, chỉ tham
gia vào một chu kỳ sản xuất và thường có giá trị nhỏ.
● Phân loai theo thời gian thì vốn được chia thành vốn ngắn hạn và vốn
dài hạn.Vốn ngắn hạn là vốn có thời hạn dưới một năm, còn vốn dài hạn là

vốn có thời hạn từ một năm trở lên.
● Phân loại theo nguồn hình thành thì vốn của doanh nghiệp bao gồm
hai loại chính là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.Vốn chủ sở hữu là phần vốn
thuộc về chủ sở hữu của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu gồm ba bộ phận: vốn
góp ban đầu, lợi nhuận không phân chia, vốn do phát hành cổ phiếu mới. Còn
nợ phải trả là phần vốn không thuộc sở hữu của chủ sở hữu doanh nghiệp, nó
bao gồm nguồn vốn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái
phiếu công ty. Cũng qua các phân loại này ta có thể dễ dàng biết được những
phương thức huy dộng vốn của doanh nghiệp.
1.3. Vai trò của nguồn vốn đối với doanh nghiệp.
Vốn có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành, tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Trước hết, vốn chính là điều kiện đầu tiên để
thành lập doanh nghiệp vì bất cứ một doanh nghiệp nào muốn thành lập đều
phải có một nguồn vốn nhất định lớn hơn hoặc bằng nguồn vốn pháp định do
nhà nước quy định đối với lĩnh vực kinh doanh đó.
Thứ hai, vốn chính là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn của mình để chi tiêu mua
3
sắm các trang thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, tiền lương cho công nhân
viên… Doanh nghiệp muốn thực hiện bất kỳ một hoạt động , một kế hoạch
nào cũng cần tới vốn. Có một nguồn vốn dồi dào sẽ tạo những điều kiện thuận
lợi giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quy mô sản xuất hay
tung ra những sản phẩm mới thành công. Vốn còn là một nhân tố hết sức quan
trọng giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường, vượt qua
các đối thủ cạnh tranh.
Nói tóm lại, vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp cần nhận thức vấn đề này
một cách rõ ràng, từ đó phải chú trọng vào chính sách huy động vốn để làm
sao doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách nhanh chóng có hiệu quả để
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển không ngừng trên thị trường.

1.4. Các kênh huy động vốn quan trọng của doanh nghiệp.
Thông qua thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể huy động vốn thông
qua các phương thức:
Huy động vốn cổ phần:
-Phát hành cổ phiếu.
Huy động nợ vay:
-Tín dụng thương mại.
-Tín dụng ngân hàng.
-Tín dụng thuê mua.
-Phát hành tín phiếu, trái phiếu.
1.4.1 Phát hành cổ phiếu:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể phát hành cổ
phiếu mới để tăng số vốn chủ sở hữu. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt
động tài trợ dài hạn cho doanh nghiệp.
4
Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi số xác nhận quyền và lợi ích sở
hữu hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với vốn của tổ chức phát hành.
Doanh nghiệp có thể phát hành các loại cổ phiếu sau:
-Cổ phiếu thường:là loại cổ phiếu được phát hành bằng lợi nhuận để lại
hoặc các nguồn vốn chủ sở hữu hợp pháp khác của công ty cổ phần và không
có sự ưu tiên đặc biệt nào trong việc chi trả cổ tức hay thanh lý tài sản khi
công ty phá sản. Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có
những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và lưu hành trên thị trường
chứng khoán.
+Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ
phiếu thường không phải là gánh nặng về tài chính cho DN trong những năm
làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng
khả năng vay nợ của DN trong tương lai.
+Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm giảm đi quyền sở hữu DN, giảm
mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu

-Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu được phát hành bằng nguồn lợi nhuận
để lại hoặc các nguồn vốn chủ sở hữu hợp pháp khác của công ty cổ phần
nhưng có sự ưu tiên đặc biệt trong việc chi trả cổ tức và thanh lý tài sản nếu
công ty bị phá sản.
Khi phát hành cổ phiếu ưu đãi, doanh nghiệp vừa tăng được nguồn vốn
chủ sở hữu nhưng lại không bị san sẻ quyền lãnh đạo, việc phát hành vẫn hấp
dẫn người đầu tư bởi tỷ lệ cổ tức được đảm bảo tương đối ổn định. Thông
thường cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong vốn cổ phần của
công ty.
+Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát
+Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong
những năm DN thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ
phiếu.
5
* Đặc điểm của nguồn vốn do phát hành cổ phiếu
-Điều kiện, thủ tục phát hành cổ phiếu: ở việt nam, điều kiện để phát
hành cổ phiếu được quy định trong Điều 6 nghị định 144/2003/NĐ-CP theo
đó một doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu phải có đủ các điều kiện sau:
+ Là công ty cổ phần có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký
phát hành cổ phiếu tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam.
+ Hoạt động kinh doanh sản xuất của năm liền trước năm đăng ký phải
có lãi
+ Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn huy động được từ việc phát
hành cổ phiếu.
- Thủ tục phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp phải lập hồ sơ đăng ký phát
hành cổ phiếu ( được quy định trong Điều 10 nghị định 144/2003/NĐ-CP) và
nộp cho ủy ban chứng khoán nhà nước.
* Quy mô phát hành cổ phiếu: Doanh nghiệp chỉ được phát hành một
lượng cổ phiếu tối đa và được gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một
trong những quy định của ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhằm quản lý và

kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán.
* Thời hạn và lãi suất.
- Cổ phiếu không có thời gian đáo hạn.
- Cổ đông được doanh nghiệp trả cổ tức nhưng không phải trả một mức
cổ tức cố định và cũng không bắt buộc phải trả cổ tức cho cổ đông mà có thể
giữ lại để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Phương thức và phương tiện thanh toán: doanh nghiệp được quyền lựa
chọn phương thức thanh toán 6 tháng hay 1 năm trả cổ tức một phần. Phương
tiện thanh toán cổ tức có thể là tiền mặt hay cổ phiếu.
* Tiết kiệm thuế: cổ tức được doanh nghiệp trả từ lợi nhuận sau thuế do
đó doanh nghiệp không tích kiệm được thuê tuy nhiên nếu doanh nghiệp có
cổ phiếu được niêm yết lần đầu tại trung tâm giao dich chứng khoán sẽ được
6
giảm 50% số thuế TNDN phải nộp trong 2 năm kể từ khi thực hiện việc niêm
yết.
1.4.2. Tín dụng thương mại:
Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được thực hiện dưới hình
thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hóa. Đến thời hạn đã
thỏa thuận, doanh nghiệp mua phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho doanh
nghiệp bán dưới hình thức tiền tệ.
-Khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu, hàng hóa chưa phải trả tiền
ngay là doanh nghiệp đã được các nhà cung cấp cho vay nên hình thức này
được gọi là tín dụng của nhà cung cấp.
- Để đảm bảo doanh nghiệp mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin
tưởng nhà cung cấp còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là
giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên hoặc do doanh nghiệp mua
chịu lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là thương phiếu. Thương phiếu tồn
tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu.
+ Hối phiếu là chứng chỉ có giá do doanh nghiệp bán chịu lập, yêu cầu
doanh nghiệp mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian nhất định

cho doanh nghiệp bán chịu.
+ Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do doanh nghiệp mua chịu lập, cam kết
trả một số tiền xác định trong một thời gian nhất định và ở một địa điểm nhất
định cho doanh nghiệp bán chịu.
-Chi phí của tín dụng thương mại: Trong trường hợp giá mua chịu và
giá mua trả tiền ngay có sự chênh lệch, thường là chênh lệch phải chịu giá cao
hơn thì chi phí tín dụng thương mại chính là chênh lệch giữa giá bán chịu và
giá trả tiền ngay. Thông thường các nhà cung cấp thường có kèm theo các
điều kiện chiết khấu để khuyến khích khách hàng trả tiền sớm.
7
-Ưu và nhược điểm của huy động vốn tín dụng thương mại.
+ Ưu điểm: tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh do doanh nghiệp sẽ
vay trực tiếp bằng nguyên vật liệu và số lượng có thể thay đổi mỗi kỳ khi ký
hợp đồng.
Giúp doanh nghiệp mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách
lâu bền, chủ động trong việc huy động vốn vể thời gian, số lượng, nhà cung
cấp, việc huy động sẽ diễn ra nhanh chóng và dễ dàng mà không phải chịu sự
giám sát của ngân hàng cũng như các cơ quan nhà nước.
+ Nhược điểm: hạn chế về đối tượng vay mượn vê không gian vay
mượn, hạn chế về quy mô tín dụng bao gồm cả số lượng mua chịu, khả năng
của nhà cung ứng.Phụ thuộc vào quan hệ sản xuất kinh doanh trên thị
trường, có thể gặp rủi ro khi buộc phải thay đổi nhà cung ứng và phải phụ
thuộc vào sự đúng hẹn và uy tín vào nhà cung ứng, rất dễ gặp rủi ro dây
truyền.
1.4.3. Tín dụng thuê mua:
- Khái niệm : tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông
qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Đây là một hình thức tín dụng trung và
dài hạn , đặc biệt rất thông dụng trong việc tài trợ các doanh nghiệp.
Quan hệ tín dụng thuê mua được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa
người đi thuê tài sản và người cho thuê. Thỏa thuận thuê mua là một hợp

đồng giữa hai hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho
thuê sẽ chuyển giao tài sản cho người đi thuê trong một khoảng thời gian nhất
định đổi lại người đi thuê phải chi trả một số tiền nhất định cho chủ tài sản
tương ứng với quyền sử dụng. Có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê
vận hành và thuê tài chính.
+ Thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản, theo đó bên thuê sử dụng
tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài
8
sản cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ
quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê .
+ Thuê tài chính: là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc trang thiết bị, phương tiện vận chuyển … trên cơ sở
hợp đồng cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện
vận chuyển theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài
sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền trong suốt thời
hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc hợp đồng thuê bên thuê có
thể lựa chọn giữa việc mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê.
Ưu điểm.
 DN thuê TS theo phương thức thuê vận hành thì chỉ thuê trong thời
hạn rất
ngắn so với toàn bộ thời gian hữu ích của tài sản, thích hợp với những
hoạt động có tính vụ mùa.
 Khi DN muốn chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước cho ngưòi cho
thuê một thời gian khá ngắn.
 Các doanh nghiệp có thể hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát
triển của công nghệ mới trong khi nguồn vốn tự có còn có hạn.
 Điều kiện của hình thức này: không cần tài sản thế chấp nên các
doanh nghiệp rất dễ tiếp cận.
Nhược điểm.
 DN trả nợ không đúng hạn hoặc không thực hiện cam kết trong hợp

đồng sẽ phải chịu lãi suất phạt như vậy của ngân hàng và sự phán xử của
tòa án .
 Doanh nghiệp trích khấu hao , phản ánh chi phí trả tiền thuê là một
khoản chi phí của doanh nghiệp nên lợi nhuận trước thuế của doanh
nghiệp giảm.
 Bên cho thuê thường chịu toàn bộ rủi ro, nếu bên đi thuê không thực
hiện hợp đồng chỉ còn cách thu lại tài sản.
9
Phạm vi hoạt động hẹp, chi phí sử dụng hình thức này cao so với các
hình thức tín dụng khác.
1.4.4. Tín dụng ngân hàng:
Là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất với các doanh nghiệp
hiện nay.
*Các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng chủ yếu nhằm vào ba mục đích
sau:
+ Đầu tư vào tài sản cố định: máy móc , trang thiết bị, nhà xưởng…
+Bổ sung thêm vốn lưu động.
+Phục vụ các dự án.
*Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Doanh nghiệp vay ngân hàng để đầu tư vào tài sản cố định và phục vụ
cho dự án có thể vay theo hình thức cầm cố, thế chấp tài sản, thông qua bên
thứ ba để bảo lãnh cho mình hoặc vay dưới hình thức trả góp.
+ Đối với những doanh nghiệp lớn thì doanh nghiệp có thể dùng uy tín
của mình với ngân hàng ( như thanh toán đúng hạn, khách hàng thân quen) để
vay tín chấp.
+Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi mà tài sản để thế chấp ,
cầm cố chỉ có thể vay ngân hàng một lượng vốn nhỏ không đủ vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh thì họ có thể nhờ uy tín của bên thứ 3 bảo lãnh ,
tham gia vào quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm của nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

-Điều kiện vay vốn: bất kỳ doanh nghiệp nào muốn vay vốn ngân hàng
cần phải có một số điều kiện sau:
+ Mục đích sử dụng vốn phải hợp pháp.
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi có
hiệu quả.
10
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Thủ tục vay vốn: Để được vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải có bộ
hồ sơ vay vốn bao gồm:
+ Giấy đề nghị vay vốn.
+ Giấy phép kinh doanh.
+ Dự án, phương thức sản xuất kinh doanh, kế hoạch trả nợ.
+ Hồ sơ tài sản thế chấp cầm cố.
+ Hồ sơ tài liệu khác theo yêu cầu của ngân hàng.
-Lãi suất vay: Doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp sẽ
phải trả một mức lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn của khoản vay ( Lãi suất của
các khoản vay có kỳ hạn càng cao thì càng cao), phụ thuộc vào doanh nghiệp
có phải đối tượng ưu đãi hay không.
+ Lãi suất doanh nghiệp phải trả thường là lãi suất cố định, điều đó có
nghĩa là doanh nghiệp sẽ phải trả cho ngân hàng lãi định kỳ ngay cả khi
doanh nghiệp làm ăn không có lãi.
- Thời hạn vay: Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng dưới hình thức ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn.
-Quy mô nguồn vốn vay : doanh nghiệp huy động vốn ngân hàng với
quy mô phụ thuộc vào mục đích sử dụng vốn. Tuy nhiên quy mô này có thể bị
hạn chế do quy định hạn mức tín dụng của ngân hàng cho doanh nghiệp, do
kỳ hạn của nguồn vốn, do giá trị của tài sản thế chấp, do tính hiệu quả và khả
thi của dự án… trong trường hợp này doanh nghiệp có thể xin sự đồng tài trợ
của nhiều ngân hàng.
- Quản lý và giám sát: doanh nghiệp vay vốn ngân hàng sẽ phải chịu sự

giám sát của ngân hàng dưới hai phương diện
+ Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn có đúng với mục đích ghi trong hợp
đồng hay không.
+ Doanh nghiệp có trả gốc và lãi đúng hạn hay không.
11
- Rủi ro và áp lực thanh toán: định kỳ doanh nghiệp sẽ phải trả lãi cho
ngân hàng ngay cả khi doanh nghiệp làm ăn không có lãi, nếu không doanh
nghiệp sẽ phải chịu lãi suất phạt của ngân hàng. Đến hạn trả gốc, nếu doanh
nghiệp mất khả năng chi trả thì tài sản đảm bảo của doanh nghiệp sẽ vị phát
mãi hoặc bên thứ ba đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp khi vay sẽ phải chịu
trách nhiệm trả hộ cho doanh nghiệp. Điều này gây ra ảnh hưởng rất xấu về
uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng.
- Tiết kiệm thuế: Lãi suất vay được tính là chi phí cảu doanh nghiệp, làm
giảm lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp tiết kiệm
được một khoản thuế TNDN.
* Ưu nhược điểm của việc vay vốn ngân hàng.
-Ưu điểm:
+ Các doanh nghiệp sẽ tập trung được nguồn vốn lớn cùng một lúc do
có thể có tài sản thế chấp lớn, có uy tín với ngân hàng…
+ Mức độ rủi ro thấp hơn các doanh nghiệp nhỏ: đến kỳ thanh toán mà
doanh nghiệp không trả được nợ sẽ được ngân hàng gia hạn, các doanh
nghiệp nhà nước sẽ được trả hộ.
-Nhược điểm:
+ Bị động trong quá trình vay vì số lượng vay phụ thuộc vào quyết định
từ phía ngân hàng.
+ Doanh nghiệp phải chịu sự giám sát của ngân hàng trong quá trình sử
dụng vốn vay.
1.4.5. Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là chứng chỉ bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích đòi nợ
hợp pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tài sản của tổ chức phát hành.

*Phân loại trái phiếu: Một doanh nghiệp có thể phát hành các loại trái
phiếu sau:
12
- Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải
trả một mức lãi suất cố định được quy định ngay từ thời điểm phát hành trái
phiếu.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải
trả mức lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường hoặc theo điều chỉnh của
doanh nghiệp. Trái phiếu này được phát hành trong điều kiện mức lạm phát
khá cao và mức lãi suất thị trường không ổn định.Tuy nhiên , trái phiếu này
có một vài nhược điểm:
+ Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái
phiếu, điều này gây khó khăn lớn cho việc lập kế hoạch tài chính của doanh
nghiệp.
+ Việc quản lý trái phiểu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh
nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể thu
hồi sớm hơn thời hạn. Loại trái phiếu này có những ưu điểm sau:
+ Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn khi sử dụng.
Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu để làm giảm
lượng vốn vay.
+ Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành loại trái phiếu
này bằng nguồn tài chính khác thông qua việc mua lại các trái phiếu đó.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép các trái chủ
được chuyển đổi sang một số lượng cổ phiếu thường xác định ở một giá xác
định và trong một khoảng thời gian xác định.
Đối với loại trái phiếu này chỉ có công ty cổ phần mới được phép phát
hành, cho phép công ty huy động vốn là vay nợ nhưng khi chuyển đổi trái
phiếu thì nợ chuyển sang vốn điều lệ của công ty giúp cho công ty có thể tái
cấu trúc để giảm nợ. Việc phát hành trái phiếu này có một số ưu điểm là chi

phí sử dụng vốn thấp do trái phiếu chuyển đổi thường có lãi suất thấp hơn so
13
với các loại trái phiếu thông thường có cùng độ rủi ro nhưng không có khản
năng chuyển đổi, việc phát hành lại tương đối dễ dàng. Tuy nhiên việc phát
hành trái phiếu chuyển đổi có nhược điểm là doanh nghiệp khó kiểm soát
được cấu trúc vốn khi đến thời hạn chuyển đổi do quyền lựa chọn thuộc về
trái chủ.
* Đặc điểm của việc huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu.
- Điều kiện phát hành : ở Việt Nam, điều kiện phát hành trái phiếu được
quy đinh trong điều 8 nghị định 144/2003/NĐ-CP doanh nghiệp muốn phát
hành trái phiếu cần phải có các điều kiện sau:
+ Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà
nước có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành tối thiểu là
10 tỷ đồng Việt Nam.
+ Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành trái
phiếu phải có lãi.
+ Có phương án khả thi về việc sủ dụng và trả nợ vốn thu được từ việc
phát hành trái phiếu.
+ Phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.
- Thủ tục phát hành: doanh nghiệp lập hồ sơ đăng ký phát hành trái phiếu
và nộp cho ủy ban Chứng khoán nhà nước.
- Quy mô phát hành: doanh nghiệp chỉ được phát hành một số trái phiếu
nhất định dưới sự cho phép của ủy ban chứng khoán nhà nước.
- Thời hạn và lãi suất cho vay: Lãi suất trái phiếu thường thấp hơn lãi
suất cho vay ngân hàng và lợi tức cổ phiếu thường.
+ Trái phiếu có thời gian đáo hạn xác định. Khi đáo hạn, doanh nghiệp
phải trả đủ cho trái chủ cả gốc và lãi trái phiếu.
- Quản lý và giám sát: Doanh nghiệp không chịu sự quản lý và giám sát
của trái chủ nhưng chịu sự giám sát của ủy ban chứng khoán nhà nước. Trái
14

chủ không có quyền tham gia vào các quyết định và biểu quyết những vấn đề
quan trọng của doanh nghiệp.
- Tiết kiệm thuế: Lãi trái phiếu được hoạch toán vào chi phí hoạt động
tài chính của doanh nghiệp để xác định lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp
do đó doanh nghiệp tiết kiệm được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp.
+Ưu điểm:
- Có thể huy động vốn nhanh với lượng vốn có thể huy động lớn từ nhiều
đối tượng có tiềm lực tài chính(quỹ đầu tư, Cty và tập đoàn bảo hiểm, tài
chính )
- DN có thể áp dụng lãi suất linh hoạt cũng như nhiều phương án trả lãi
và gốc
- Phát hành trái phiếu không làm pha loãng lợi ích cổ đông, chủ động
hơn về nguồn vốn với lãi suất thấp, do lãi suất trái phiếu thường xác định
trước và là chi phí được khấu trừ thuế.
- Không cần có tài sản thế chấp và được chủ động sử dụng số tiền huy
động mà không có sự giám sát của ngân hàng, thời gian hoàn lại tiền cũng
lâu hơn
+Nhược điểm:
- Chỉ có công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép phát hành
trái phiếu.
- Thông tin về doanh nghiệp phải được công bố rộng trên hệ thống thông
tin, nên đối thủ cạnh tranh có thể biết được những thông tin bất lợi của công
ty, làm giảm tính cạnh tranh so với đối thủ.
- DN phải thanh toán đầy đủ khi đáo hạn đúng theo cam kết trong hợp
đồng với mức lãi suất cố định
1.5. Doanh nghiệp cần cân nhắc đến những yếu tố sau khi quyết định yêu
động vốn:
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của
doanh nghiệp đó là trạng thái của nền kinh tế. Các yếu tố quan trọng mà

doanh nghiệp cần phân tích là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ
15
giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, mức
lãi suet và tỷ lệ lạm phát hợp lý sẽ tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp mở
rộng quy mô sản suất kinh doanh qua đó thúc đẩy hoạt động huy động vốn
của doanh nghiệp.
Vấn đề thứ hai đó chính là ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực sản xuất
của doanh nghiệp. Dựa vào đặc trưng cơ bản của mình mà mỗi doanh nghiệp
sẽ lựa chọn cho mình kênh huy động vốn phù hợp.
Quy mô và cơ cấu tổ chức , trình độ khoa hoc kỹ thuật và trình độ quản
lý của doanh nghiệp cũng là những yếu tố cần xem xét khi tiến hành hoạt
động huy động vốn vì đây là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ công chúng
phục vụ cho việc đổi mới công nghệ , mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
, hoặc tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần chú ý đến thu nhập của mình bởi vì giá cổ phiếu
thực sự phụ thuộc vào doanh nghiệp (xét về phương diện dài hạn) cho dù giá
cổ phiếu có thể tăng , giảm hay chững lại trong một khoảng thời gian.
Khi huy động được vốn sau khi phát hành , không nên sử dụng vốn huy
động này vào đầu tư tài chính hoặc bất động sản hay vào những tài sản lưu
động ngắn hạn khác.
Nên thuê tổ chức tư vấn phát hành nếu là những công ty phát hành để
huy động vốn lần đầu và không có chuyên môn về chứng khoán.
Ngoài ra, một số các yếu tố khác thuộc phạm vi môi trường kinh
doanh như chính sách thuế, tâm lý người dân, tâm lý của chủ doanh nghiệp…
cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp.
16
2. Thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.1. Thực trang huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu.

Đây là kênh huy động vốn đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh
nghiệp cổ phần nào. Trong điều kiện Việt Nam, thị trường chứng khoán Việt
Nam đang trên đà phát triển mạnh, tuy nhiên chưa ổn định, nên việc thu hút
vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới là rất cần thiết và hoàn toàn có khả năng
thực hiện được song cũng cần thận trọng, chú ý đề phòng những rủi ro của thị
trường này.
Tình hình tăng giảm chứng khoán
(Từ ngày 20/12/2007 đến ngay 20/12/2008)
Toàn thị trường Cổ phiếu
Chứng
chỉ quỹ
Trái phiếu
Niêm yết mới
( 1000 Ck)
1.369.068,50
1.283.262,5
0
80.646,00 5.160,00
Niêm yết bổ sung 446.684,11 446.684,11 0,00 0,00
Niêm yết hủy 526.966,44 0,00 0,00 526.966,44
Niêm yết lại 0,00 0,00 0,00 0,00
Trong 6 tháng đầu năm 2008 chi số VN- Index đã giảm hơn 56,6% so
với thời điểm cuối năm 2007, khối lượng giao dịch qua khớp lệnh bình quân
mỗi tháng đạt trên 137 triệu đơn vị.
Giao dịch chứng khoán
* Tại sàn chứng khoán TP.HCM ( HoSTC): diễn biến mua bán của các
nhà đầu tư ngoại trong 6 tháng qua rất cao, tuy nhiên chủ yếu là xu thế mua
vào. Lượng mua vào trong 6 tháng đầu năm 2008 vẫn gấp đôi lượng bán ra.
* Tại sàn chứng khoán Hà Nội ( HaSTC): trong 6 tháng đầu năm 2008
cũng với xu hướng sụt giảm như VN-Index chỉ số HaSTC – Index cũng đã

giảm tới 65% so với cuối năm 2007. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi
tháng đạt 66 triệu đơn vị, tương đương giá trị giao dịch đạt 3.360 tỷ đồng.
Nhà đầu tư ngoại giao dịch mua bán tại sàn Hà Nội cũng khá sôi động, trong
17
6 tháng đầu năm 2008 họ mua vào 11.940.110 cổ phiếu và chỉ bán ra
7.185.900 cổ phiếu.
Chỉ số chứng khoán giảm liên tục, giá cổ phiếu xuống thấp, hàng loạt
nhà đầu tư thua lỗ, hụt vốn gây tâm lý chán nản cho các nhà đầu tư trong đó
TTCK lại không thu hút được nhà đầu tư mới điều này đang gây những tác
động xấu đến việc huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới của các
doanh nghiệp cổ phiền.
Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn nhưng
kinh tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà
đầu tư và sự phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu
đã tăng khá mạnh. Chỉ số VN-Index tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng
giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương đương gần 1.661 tỷ
đồng/phiên.
Tuy nhiên, các giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có
dấu hiệu chững lại do thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ
đầu tư ngoại có những hoạt động thoái vốn. Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng
8/2013, khối ngoại đã bán ròng với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ đồng và 881 tỷ
đồng, dẫn đến thị trường cổ phiếu bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.
2.2.Thực trạng huy động vốn bằng tín dụng thương mại
Để thanh toán hay đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng
các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc… những loại
giấy tờ này nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại.
Lâu nay, các doanh nghiệp và ngân hàng đều đã sử dụng hối phiếu trong
thanh toán xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tất cả các giao dịch này đều
thực hiện theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong thanh toán nội địa, các
doanh nghiệp chưa sử dụng thương phiếu như là công cụ thanh toán phổ biến.

Ngân hàng thương mại cũng chưa đủ điều kiện để cấp tín dụng cho doanh
nghiệp dưới các hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có bảo đảm
18
bằng cầm cố thương phiếu. Trong khi đó, mua bán chịu giữa các doanh
nghiệp, bán hàng gối đầu giữa nhà sản xuất và đại lý, giữa các tiểu thương ở
chợ đầu mối là nhu cầu thực tế
Ở Việt Nam hiện nay theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy
động vốn từ các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên,
những giao dịch đó chỉ được ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người
bán; ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận
với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm. Vì vậy, các khoản nợ
đã không được xác nhận về mặt pháp lý và khó chứng minh khi nảy sinh
tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa, thậm chí mất trắng tiền tỷ của
các tiểu thương ở chợ đầu mối Mặc dù quan hệ tín dụng thương mại mua
bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một quan hệ thực
tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng phải tới ngày 1/7/2006, với
việc Luật các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực, quanhệ này mới chính thức
được pháp luật thừa nhận. Đây được xem như một động lực thúc đẩy sự phát
triển thị trường mua bán nợ nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung.
2.3. Thực trang huy động vốn từ việc vay ngân hàng.
Hiện nay, các ngân hàng vẫn là hình thức huy động chủ yếu các doanh
nghiệp nước ta. Tổ chức tín dụng nhà nước hoạt động chủ yếu vẫn là huy
động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm khoảng 80%
thị phần cũng như tài sản của toàn hệ thống ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng trong năm 2007 có nhiều khởi sắc, tuy nhiên tốc
độ tăng tín dụng trong năm 2007 cũng đạt ở mức cao. Tổng nguồn vốn huy
động được tính đến 31/12/2007 tăng khoảng 36,5% so với cuối năm 2006,
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2007 tăng khoảng 34%. Tổng dư nợ
tín dụng cả hệ thống ngân hàng đã tăng với mức độ cao, các ngân hàng đã
từng bước nâng cao chất lượng thẩm định, rà soát các dự án xin đầu tư, các

nhu cầu vay vốn thuộc mọi thành phần kinh tế để các quyết định cho vay,
19
kiên quyết tránh các hiện tượng nới lỏng các điều kiện vay vốn để cạnh tranh
thị phần.
Trong điều kiện nền kinh tế đang hội nhập kéo theo sự cạnh tranh gay
gắt, hoạt động tín dụng ngân hàng nổi lên như một mắt xích trọng yếu trong
hoạt động của nền kinh tế hiện đại, có một vai trò cực kỳ quan trọng với vị trí
là trung gian tài chính của nền kinh tế. Thông qua việc cung ứng nguồn vốn
tín dụng ngân hàng có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của doanh
nghiệp.
Một thực trạng đang diễn ra đó là các ngân hàng chủ yếu phục vụ cho
các doanh nghiệp nhà nước, chiếm gần 80% dư nợ cho vay, trong khi đó khối
doanh nghiệp tư nhân lại không được quan tâm đúng mức. Tình hình này đã
và đang được các ngân hàng cải thiện trong khoảng thời gian gần đây.
2.4 Thực trạng huy động vốn bằng tín dụng thuê mua.
- Cho thuê tài chính (CTTC) thực sự là một kênh dẫn vốn trung và dài
hạn quan trọng được đánh giá là khá hữu hiệu tạo điều kiện thu hút vốn cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các DN vừa và nhỏ. Quy mô
hoạt động kinh doanh CTTC phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc
qua các năm.
- Theo đánh giá chung hoạt động trong thời gian qua đã dần mở rộng
quy mô đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số cho
thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động CTTC tương đối tốt, tỷ lệ nợ
quá hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau tăng hơn năm trước
- Hiện nay ở Việt Nam có 13 công ty cho thuê tài chính (CTTC) trong đó
có 9 công ty thuộc hiệp hội với tổng số vốn điều lệ là 2.500 tỷ đồng và 4 công
ty với 100% vốn nước ngoài.
- Hoạt động của các công ty CTTC hiện nay đã dần đi vào nền nếp sau
khi có các nghị định về tổ chức và hoạt động cùng các thông tư hướng dẫn
của các ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động còn có một

số hạn chế. Một số công ty chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh cũng
20
như chưa có định hướng chiến lượt phát triển. Nhu cầu thị trường của loại
hình này chưa được tập trung nghiên cứu.
Tuy nhiên thời gian gần đây, mặc dù số dư nợ có tăng, nhưng số nợ quá
hạn, nợ xấu ở một số đơn vị còn quá cao, đây là dấu hiệu báo động cho hoạt
động CTTC. Năm 2011 cũng không khả quan hơn, mặc dù số dư nợ của hoạt
động CTTC có tăng nhưng các doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm
trọng và khả năng thu hồi nợ thấp. Tính đến hết quý I/ 2011 số dư nợ chỉ đạt
19.082 tỷ đồng, kém hơn so với thời điểm 31/12/2011.
2.5. Thực trạng huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu.
Năm 2008, nhu cầu phát hành và nắm giữ trái phiếu tại Việt Nam là rất
lớn. Đây là một tín hiệu khả quan đối với hoạt động huy động vốn từ việc
phát hành trái phiếu.
Bên cạnh thị trường cổ phiếu vốn sôi động nhưng thăng trầm thì thị
trường trái phiếu đang chiếm được sự quan tâm không nhỏ của các giới đầu
tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức.Thông kê cho thấy, nhiều phiên giao
dịch trong tháng 3/2008 tại sàn Hà Nội , nhà đầu tư giao dịch gần 1 triệu đơn
vị mỗi phiên, còn tại sàn TP.HCM số lượng trái phiếu được giao dịch trên sàn
lên tới 5 triệu đơn vị mỗi phiên. Một số phiên đấu thầu trái phiếu gần đây ,
các nhà đầu tư tham dự và đăng ký rất đông.
Lợi thế lớn nhất của trái phiếu là lãi suất ổn định, giá cả ít biến động.
Mặc dù giá trái phiếu dao động không đáng kể, nhưng đối với các nhà đầu tư
tổ chức nắm giữ khối lượng lớn thì lợi nhuận thu về do chênh lệch giá cũng
không hề nhỏ. Theo ước tính của Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF), giao dịch trái
phiếu của các nhà đầu tư tăng 55% trong năm 2007. Năm 2008, thị trường trái
phiếu được nhìn nhận sẽ có sự tăng trưởng mạnh. Nếu như năm 2007, chính
phủ phát hành trên 50.00- tỷ đồng trái phiếu trái phiếu chính phủ thì năm nay
con số này ít nhất cũng đạt quy mô tương tự, còn đối với doanh nghiệp, nếu
21

như năm 2006 lượng phát hành mới chỉ là 9.000 tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng
lên 4 lần là 36.000 tỷ đồng.
Hiện nay, quy mô của thị trường trái phiếu còn quá nỏ bé, chỉ chiếm
khoảng 3-6% GDP (những nước có TTCK phát triển, giá trị trái phiếu chiếm
60-80% GDP). Với những động thái từ doanh nghiệp, cộng với nỗ lực xây
dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt của cơ quan quản lý, hàng hóa trên thị
trường trái phiếu hứa hẹn phong phú hơn.
Tiếp đà phát triển, năm 2009, trên thị trường có khoảng 39 giao dịch
phát hành TPDN với tổng khối lượng vốn huy động đạt gần 30.000 tỉ đồng.
Đến năm 2010 có 45 giao dịch phát hành với tổng vốn huy động đạt gần
45.500 tỷ đồng.
Năm 2011, tổng khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt trên
6000 tỷ đồng, giảm 10% tổng giá trị phát hành năm 2010. Phần lớn các tổ
chức phát hành là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng trái phiếu như sản
phẩm thay thế cho khoản vay và người mua là tổ chức tín dụng không chào
bán ra thị trường. Hoạt động trầm lắng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
trong năm 2011 là do Chính phủ áp dụng chính sách tiển tệ và tài khóa thắt
chặt tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và từ đó hạn chế khả năng phát hành trái phiếu. Hơn thế nữa trong năm qua
hàng loạt quy định mới nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành trái
phiếu doanh nghiệp được đưa ra cũng là yếu tố hạn chế lượng trái phiếu phát
hành.
Năm 2012, do tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn
chưa được cải thiện, nhưng doanh nghiệp lại khó khăn trong việc tiếp cận với
nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Do đó nhiều doanh nghiệp này quan tâm hơn
tới kênh huy động vốn bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường
trong nước, tổng khối lượng phát hành thực tế đạt được là 16.144 tỷ đồng.
Trên thị trường quốc tê, Công ty cổ phần Vincom và Vietinbank đã phát hành
thành công 550 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế.
22

3. Những thành tựu đã đạt được.
- Thị trường chứng khoán đã bước đầu trở thành kênh huy động vốn
quan trọng của các doanh nghiệp. Việc Chính phủ đã ban hành những quy
định rõ ràng hơn về phát hành cổ phiếu trái phiếu của doanh nghiệp và Luật
chứng khoán được quốc hội thông qua đã tạo một khung hành lang pháp lý
thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của các
doanh nghiệp nước ta hiện nay. Hoạt động chủ yếu của các tổ chức này vẫn là
huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm khoảng
80% thị phần cũng như tài sản của hệ thống ngân hàng. Một số ngân hàng bắt
đầu thay đồi chế độ cho vay và có những chiến lược rõ ràng để tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn ngân hàng.
- Về hoạt động cho thuê tài chính, hoạt động này đã có những sự phát
triển đáng kể, hoạt động này đã đảm bảo nộp ngân sách nhà nước, có lãi và
góp phần hỗ trợ tích cực trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho
doanh nghiệp. Cho thuê tài chính đã thực sự trở thành một kênh huy động vốn
trung và dài hạn khá hữu hiệu đối với doanh nghiệp, nhất là đối với những
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. Những hạn chế trong việc huy động vốn và nguyên nhân.
Mặc dù có nhiều tiến bộ về tăng trưởng , dich chuyển cơ cấu và hiệu
quả sản xuất kinh doanh ở một số mặt được nâng lên, song so với yêu câì của
chiến lược phá triển kinh tế đến năm 2010 và hội nhập kinh tế khuh vực, quốc
tế thì các doanh nghiệp nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém trong việc huy động
vốn.
*Những hạn chế trong việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán và
nguyên nhân.
- Trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển với tốc
độ chóng mặt như hiện nay, các doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng phát hành cổ
23
phiếu mới, điều này này bị lạm dụng sẽ rất dễ gây ra sự mất cân đối trong cơ

cấu tài chính của doanh nghiệp, gây ra những rủi ro khó lường. Nguyên nhân
chính đó là do các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam còn thiếu tính chuyên
nghiệp, họ ít quan tâm tới lợi nhuận và rủi ro của những kế hoạch đầu tư mà
chỉ chủ yếu quan tâm tới việc mua bán cổ phiếu để kiếm lời trong ngắn hạn,
do vậy doanh nghiệp rất dễ gặp rủi ro.
Một hạn chế khác của vấn đề huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu
mới của các doanh nghiệp đó là khả năng giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch thu hút vốn hợp lý, mà chỉ tập trung từ
nguồn vốn cổ phần thì doanh nghiệp khó có thể đảm bảo cho mình một cơ cấu
vốn tối ưu, dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn.
Một vấn đề rất đáng quan tâ hiện nay là sự thiếu hụt thông tin của chính
các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán
hiện nay chưa they được tầm quan trọng của việc công khai hóa thông tin, các
thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư thường thiếu, không kịp thời và không
minh bạch, them chí có những thông tin nội gián gây nhiều khó khăn cho việc
đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như việc dự báo rủi ro
kinh doanh cổ phiếu của các nhà đầu tư.Nguyên nhân của tình trạng này là do
các doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc cung cấp thông tin. Bề ngoài, các
nhà đầu tư phải cung cấp những báo cáo tình hình tài chính thường kỳ của
doanh nghiệp song trên thực tế doanh nghiệp thường cung cấp không đầy đủ
những thông tin cần thiết. Lý do chủ yếu của việc làm này là do doanh nghiệp
còn mang những tâm lý đề phòng với các cơ quan quản lý của nhà nước như
thuế vụ, công an, quản lý thị trường… và các doanh nghiệp còn dè chừng
những đối thủ cạnh tranh của mình vì họ sợ lộ nhưng kế hoạch kinh doanh, kế
hoạch tài chính của mình.
Hơn nữa hệ thống giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán tuy đã
được thiết lập nhưng hoạt động chưa có hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu
giám sát. Bên cạnh đó năng lực giám sát, các chế tài cưỡng chế hành vi vi
24
phạm còn hạn chế, các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật dân sự,

bộ luật hình sự, luật thanh tra… chưa quy định rõ thẩm quyền và chưa có quy
định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Hệ thống
khai báo và chính sách thuế của Việt Nam còn rất nhiều bất cập làm cho các
doanh nghiệp không khai báo đúng doanh thu của mình ( họ thường khai bao
doanh thu thấp hơn thực tế, khai tăng chi phí để tăng lợi nhuận) hậu quả là
tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ bị bóp méo, gây ảnh hưởng đến tình
hình tìa chính của doanh nghiệp và khó khăn cho các nhà đầu tư.
* Những hạn chế trong việc huy động tín dụng ngân hàng và nguyên
nhân.
Một vấn đề thực tế đang diễn ra là các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó
tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, theo một cuộc điều tra gần của Cục phát
triển doanh nghiệp chỉ ra chỉ có 32,38% các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả
năng tiếp cận vốn ngân hàng, 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận
được. Nguyên nhân của tình trạng này là do các doanh nghiệp không đủ tài
sản thế chấp và nếu có tài sản thế chấp thì cũng chỉ vay được tối đa 70% giá
trị tài sản, theo cách định giá của ngân hàng cho vay, hơn nữa cuộc cạnh tranh
giữa các ngân hàng trong việc chạy đua thu hút vốn dẫn đến việc đẩy lãi suất
cho vay lên quá cao điều này càng làm cho khă năng tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm xuống. Một nguyên nhân nữa
gây ra vấn đề này là do khả năng định giá tài sản của doanh nghiệp chưa tốt,
tài sản của doanh nghiệp thường bị định giá thấp hơn thực tế.
* Những hạn chế trong việc huy động vốn từ hoạt động cho thuê tài
chính và nguyên nhân.
Theo đánh giá chung hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã
dần mở rộng quy mô đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia,
doanh số cho thuê ngày càng cao, chất lượng hoạt động tương đối tốt, tỷ lệ nợ
quá hạn ở mức cho phép… Tuy nhiên, các công ty cho thuê tài chính hiện nay
25

×