Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 128 trang )


MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt 4
Lời mở đầu 5
Chương I : Những vấn đề lý luận về thuế và cải cách hệ thống thuế theo xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế 7
1.1- Những vấn đề lý luận về thuế 7
1.1.1- Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế 7
1.1.1.1- Khái niệm 7
1.1.1.2- Đặc điểm 8
1.1.1.3- Bản chất 10
1.1.1.4- Chức năng 11
1.1.2- Phân loại thuế 12
1.1.3- Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế 14
1.2- Thuế và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 18
1.2.1- Nội dung chính của hội nhập kinh tế quốc tế 18
1.2.2- Vai trò của thuế đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 18
1.3- Kinh nghiệm cải cách thuế ở một số nước trên thế giới theo xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế 19
1.3.1- Cải cách thuế ở Trung Quốc 20
1.3.2- Cải cách thuế ở Đài Loan 23
Cải cách thuế ở các nước ASEAN 24 1.3.3-
Chương II : Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay 29
2.1- Khái quát quá trình hình thành và phát triển hệ thống thuế ở Việt Nam 29
2.1.1- Những mục tiêu, yêu cầu chủ yếu của cải cách hệ thống thuế
Việt Nam trong thời gian từ năm 1990 đến nay 31
- 1 -


2.1.2- Nội dung cơ bản của cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian từ năm 1990


đến nay 34
2.1.2.1- Cải cách thuế bước I (thời kỳ từ năm 1990 đến năm 1999) 35
2.1.2.2- Cải cách thuế bước II (thời kỳ từ năm 1999 đến nay ) 38
2.2- Thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 43
2.2.1- Các cam kết hội nhập của Việt Nam 45
2.2.2- Những kết quả đạt được và những tồn tại trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế khu vực và thế giới 53
2.3- Thực trạng hệ thống thuế hiện hành của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế 57
2.3.1- Những cơ hội và thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế
đối với lĩnh vực thuế 57
2.3.2- Nội dung cơ bản của hệ thống thuế Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế 61
2.3.3- Những kết quả đạt được của hệ thống thuế Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 66
2.3.4- Những tồn tại của hệ thống thuế Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế 71
2.3.4.1- Về kết cấu hệ thống các sắc thuế 71
2.3.4.2- Về nội dung của các sắc thuế 75
2.3.4.3- Về tổ chức quản lý thu thuế 86
Chương III : Các giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam
theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế 89
3.1- Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến việc hoàn thiện
hệ thống thuế ở nước ta 89
3.1.1- Bối cảnh quốc tế 89
3.1.2- Bối cảnh trong nước 90
- 2 -


3.2- Một số vấn đề cần được quan tâm trong cải cách thuế theo xu hướng

hội nhập kinh tế quốc tế 92
3.2.1- Mục tiêu, yêu cầu 92
3.2.2- Những nguyên tắc cần phải tuân thủ trong việc hoàn thiện
hệ thống thuế theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế 95
3.2.3- Những vấn đề cần tránh trong thực hiện cải cách thuế 97
3.3- Các giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam theo xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế 98
3.3.1- Về kết cấu hệ thống thuế 98
3.3.2- Về nội dung các sắc thuế 99
3.3.2.1- Thuế giá trị gia tăng 99
3.3.2.2- Thuế tiêu thụ đặc biệt 103
3.3.2.3- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 105
3.3.2.4- Thuế thu nhập doanh nghiệp 106
3.3.2.5- Thuế thu nhập cá nhân 107
3.3.2.6- Thuế nhà đất 110
3.3.2.7-
Thuế chuyển quyền sử dụng đất 111
3.3.2.8- Thuế tài nguyên 111
3.3.2.9- Thuế đăng ký tài sản 112
3.3.2.10- Thuế bảo vệ môi trường 113
3.3.2.11- Thuế cố định 113
3.3.2.12- Thuế môn bài 114
3.3.2.13- Về phí, lệ phí 114
3.3.3- Về tổ chức quản lý thu thuế 114
3.4- Các giải pháp hỗ trợ 121
Kết luận 123
Tài liệu tham khảo 125
- 3 -



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng Phát triển Châu Á
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC : Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM : Diễn đàn hợp tác Á - Âu
BTA : Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
CEPT : Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước ASEAN
e- ASEAN : Hiệp định công nghệ thông tin của ASEAN
GTGT : Giá trị gia tăng
HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
MFN : Nguyên tắc tối huệ quốc
NK : Nhập khẩu
NSNN : Ngân sách Nhà nước
SEV : Hội đồng tương trợ kinh tế
SDĐNN : Sử dụng đất nông nghiệp
XK : Xuất khẩu
TNCN : Thu nhập cá nhân
TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt
WB : Ngân hàng thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới



- 4 -



LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu thế khách quan,
lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các khu vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép
cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Trong điều kiện như vậy, một quốc gia có chính sách
thuế thích hợp sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước và đảm bảo độ an toàn trong quá trình hội nhập kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội to lớn cho công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng cũng mang đến những thách thức không nhỏ đối với
một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta hiện nay. Để tận dụng cơ hội và
để giảm thiểu những thách thức, Nhà nước phải sử dụng có hiệu quả những công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó thuế là một công cụ hết sức quan trọng.
Hệ thống thuế mới nước ta đã được ban hành từ năm 1990, qua một số lần sửa
đổi, bổ sung đã phát huy được nhiều tác dụng trong việc bảo đảm yêu cầu tăng thu cho
Ngân sách Nhà nước, góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện bình
đẳng, công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
hệ thống thuế nước ta bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế,
nên cần được sửa đổi, bổ sung để chính sách thuế ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp
với tình hình kinh tế - xã hội đang có nhiều biến đổi đa dạng và phù hợp với xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Vì vậy chọn đề tài “Các giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam theo xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn có ý nghĩa thiết thực, thời sự, cả
về lý luận và về thực tiễn. Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
về thuế và cải cách thuế của các nước trên thế giới, nghiên cứu những thách thức trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đối với lĩnh vực Thuế - Ngân sách,
phân tích thực trạng chính sách thuế hiện hành trong bối cảnh hội nhập, từ đó đề xuất
các giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế phù hợp với thông lệ quốc tế.
- 5 -



Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của Luận văn là vấn đề chung về
thuế và cải cách thuế của các nước trên thế giới cũng như của Việt Nam theo xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đề tài chỉ đề cập sâu vào những kinh nghiệm cải
cách thuế ở một số quốc gia có bối cảnh kinh tế - xã hội giống Việt Nam và thực tiễn,
những ưu và nhược điểm của hệ thống thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và của một số sắc thuế quan trọng mang tính bức xúc và thời sự đang được
Đảng và nhà nước quan tâm cải tiến.
Luận văn sử dụng Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên
cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng một số phương
pháp đi từ cái chung đến cái riêng, kết hợp lịch sử với logic, tổng hợp và phân tích để
qua đó rút ra kết luận.
Nội dung của luận văn được trình bày thành 3 chương :
- Chương I : Những vấn đề lý luận về thuế và cải cách hệ thống thuế theo xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chương II : Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
- Chương III : Các giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam theo xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, do vốn kiến thức và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên không thể
tránh khỏi những sai sót, kính mong được sự góp ý, lượng thứ, thông cảm và chỉ dẫn từ
Quý Thầy Cô để luận văn được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.






- 6 -



CHƯƠNG I :
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ
CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ THEO XU HƯỚNG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ :
1.1.1- Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế :
1.1.1.1- Khái niệm :
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước, vì Nhà nước
và do Nhà nước. Dưới bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào khi còn Nhà nước là
còn thuế. Thuế là một công cụ quan trọng mà bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng để
hoàn thành chức năng của mình. Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều cách nhìn nhận khác
nhau và người ta vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế cũng như nhìn
chung chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các
nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản : “Để duy trì quyền lực công cộng,
cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế
khóa…” (Mác - Ăng ghen).
Càng về sau, khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong
cuốn sách “Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ Makkhell và Bruy –M.1993 cho rằng
“Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hóa,
dịch vụ)”.
Ở Việt Nam, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế mà tùy theo
cách nhìn nhận ở các góc độ khác nhau, người ta có thể hiểu khác nhau về thuế :
Theo từ điển Tiếng Việt (Xuất bản năm 1977) thì thuế là phần tiền hoặc sản vật
mà người dân phải đóng góp để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước.
- 7 -


Ở góc độ nghiên cứu về Pháp luật thì thuế được quan niệm là khoản đóng góp

theo quy định của Pháp luật mà Nhà nước bắt buộc với tính chất và cá nhân phải nộp
vào Ngân sách Nhà nước.
Ở góc độ nghiên cứu về Kinh tế Chính trị học thì khái niệm về thuế là hình thức
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình thành nên các quỹ
tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Ở góc độ người thu thuế thì thường hiểu thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo
nghĩa vụ do Pháp luật quy định. Thuế là khoản thu không phải hoàn trả ngang giá và
trực tiếp.
Ở góc độ người nộp thuế thì hiểu thuế là khoản bắt buộc phải nộp cho Nhà nước
theo quy định.
Các quan niệm trên có thể đúng nhưng ở những góc độ khác nhau. Cách hiểu như
vậy chưa đầy đủ và chính xác. Nhưng hiện nay các nhà kinh tế đều nhất trí kết luận
rằng :
Thuế là một khoản thu của Nhà Nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong
xã hội. Khoản thu này mang tính bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp do Pháp luật của
Nhà nước quy định, nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.
Từ khái niệm thuế trên, cho thấy rằng một khái niệm để phản ánh đầy đủ nội dung
và bản chất của thuế cần phải nêu được các điểm sau :
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước
và các Pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp.
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan
và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo
mệnh lệnh của Nhà nước.
- Các Pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã
được pháp luật quy định.

- 8 -


1.1.1.2- Đặc điểm của thuế :

Từ khái niệm tổng quát về thuế nêu trên chúng ta có thể rút ra các đặc điểm chung
của thuế như sau :
a) Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước :
Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Việc
ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bất kỳ một sắc thuế nào cũng chỉ do một cơ quan
quyền lực duy nhất của Nhà nước có thẩm quyền đó là Quốc hội. Mặt khác, tính quyền
lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể hiện thu thuế một cách tùy tiện
mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản
pháp luật do Nhà nước ban hành.
b) Tính bắt buộc phải nộp thuế :
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình buộc các thành phần kinh tế có sản xuất
kinh doanh đều phải đóng góp một phần thu nhập của mình dưới hình thức nộp thuế
cho Ngân sách Nhà nước. Do vậy, Nhà nước đã ban hành các sắc thuế trực thu, gián
thu, các khoản phí, lệ phí để buộc người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng dịch vụ,
người có thu nhập cao phải nộp thuế.
c) Tính không hoàn trả trực tiếp :
Tính không hoàn trả trực tiếp thể hiện trên các khía cạnh : người nộp thuế vào
Ngân sách Nhà nước không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch
vụ công cộng trực tiếp cho mình. Người nộp thuế sẽ được nhận một phần dịch vụ công
cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không
nhất thiết phải trùng với khoản thuế mà họ phải nộp cho Nhà nước.
d) Tính cố định của thuế :
Các Nhà nước ban hành sắc thuế, luật thuế để làm căn cứ, bắt buộc các thanh
phần kinh tế trong xã hội phải đóng góp nghĩa vụ thuế. Luật thuế ban hành một mức
thu cố định cho các hàng hóa dịch vụ. Do đó, các mức cố định này mà Nhà nước có thể
tính trước được nguồn thu của mình. Người nộp thuế cũng có thể tính toán được sẽ
- 9 -


phải nộp bao nhiêu trong thu nhập của mình cho Nhà nước. Thuế còn có một ưu điểm

lớn với Nhà nước là thu một cách thường xuyên, chỉ cần có hoạt động sản xuất kinh
doanh là phải nộp thuế cho Nhà nước. Do đó, Nhà nước có nguồn tài chính để chi trả
thường xuyên ổn định cho các nhu cầu của mình.
1.1.1.3- Bản chất của thuế :
Thuế gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và nền kinh tế hàng
hóa. Nhà nước là người đại diện quyền lực cao nhất cho một giai cấp nhất định. Do đó,
thuế có bản chất kinh tế - chính trị - xã hội sâu sắc.
a) Bản chất kinh tế của thuế :
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết là một phần thu nhập của xã hội được
tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Kinh tế là cơ sở của thuế. Không có sản xuất và phát triển sản xuất và sản xuất
không có hiệu quả thì nguồn thu từ thuế của Nhà nước không thể tăng nhiều và nhanh
được. Vì thế, qua thu thuế phải tác động tới sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm mọi mặt trong sản xuất và tiêu
dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu ngày càng lớn cho Ngân sách. Mức động viên
về thuế không hợp lý, chỉ nhằm đáp ứng đơn thuần nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà
bỏ qua đảm bảo tăng trưởng về kinh tế thì thường là gặp thất bại, dễ dẫn đến hậu quả
xấu nhiều mặt cả về kinh tế - chính trị. Ngược lại, mức động viên hợp lý sẽ có tác
dụng tăng thu cho Ngân Sách và kích thích sản xuất phát triển.
b) Về bản chất giai cấp của thuế :
Bản chất giai cấp của Nhà nước quyết định bản chất của thuế. Cùng một hiện
tượng Ngân sách thu thuế của dân, nhưng với các Nhà nước khác nhau thì bản chất của
thuế khác nhau. Điều đó được thể hiện bên trong những nội dung chủ yếu của thuế là :
Thuế thu vào ai? Thu như thế nào? Và thu để làm gì? Có thể nói mục đích của thuế -
Thu để làm gì đã thể hiện rõ ràng nhất mục đích của thuế. Trong xã hội người bóc lột
người, nhân dân lao động đóng thuế cho Nhà nước để nuôi bộ máy áp bức, bóc lột lại
- 10 -


chính mình. Còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân đóng thuế để chi tiêu cho

những công việc nhằm phục vụ trở lại nhân dân lao động. Đó là điều khác nhau cơ bản
về bản chất giai cấp, bản chất chính trị của thuế.
c) Thuế còn thể hiện tính xã hội rộng rãi :
Trước hết, vì thuế thu vào toàn dân, thuế có liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân
trong xã hội. Thuế điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu nhập xã hội
giữa các tổ chức kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư.
1.1.1.4- Chức năng của thuế :
a) Chức năng huy động nguồn lực tài chính :
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho thuế ở tất cả các dạng Nhà nước
trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài
chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân sự ra đời của thuế.
Thông qua chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế mà các quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và
hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo những tiền đề để Nhà nước tiến
hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
(do đó chức năng này còn được gọi là chức năng phân phối của thuế).
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi
tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày
càng được nâng cao. Thông qua thuế một phần đáng kể tổng sản phẩm quốc nội được
tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong
tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. Hiện nay ở
hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế
và phí thường chiếm tới 90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự
can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện chức năng này, thuế
đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- 11 -


b) Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế :

Thuế thực hiện chức năng điều chỉnh thông qua việc quy định các hình thức thu
thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và nộp thuế, xây dựng chính
xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó
Nhà nước hướng dẫn các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc
dân phù hợp với lợi ích của xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai
trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Với cải cách thuế, sự
can thiệp của Nhà nước không còn mang tính mệnh lệnh bắt buộc, các cơ sở sản xuất
kinh doanh lựa chọn hình thức sản xuất cho phù hợp với nền kinh tế và đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh phát triển tăng thu nhập cho bản thân mình và tăng nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước.
1.1.2- Phân loại thuế :
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm
khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Có các tiêu thức phân loại thuế như sau :
1.1.2.1- Dựa vào phương thức đánh thuế :
Các hình thức thuế đều đánh vào thu nhập của người nộp thuế. Người ta chia hệ
thống thuế thành hai loại :
- Thuế trực thu : là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người
nộp thuế.
Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo Luật định đồng nhất với đối
tượng chịu thuế. Người nộp thuế theo luật cũng là người kinh doanh. Ở nước ta thuế
trực thu bao gồm : Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Thuế chuyển quyền sử dụng đất, Thuế tài nguyên…
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ chức,
cá nhân có thu nhập. Ngoài ra, thuế trực thu còn cho phép xem xét đến các yếu tố
tương đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh
gia đình…Do đó, thuế trực thu có tác dụng rất lớn trong việc điều hòa thu nhập, giảm
- 12 -


bớt sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, do đó đã đảm bảo

được tính công bằng trong xã hội.
Nhược điểm của thuế trực thu là dễ gây ra phản ứng từ phía người nộp thuế khi
Nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Đồng thời việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và
thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu động viên vào Ngân sách thường chậm
và chi phí quản lý thu thuế khá tốn kém.
- Thuế gián thu : Là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp
thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng
các hàng hóa dịch vụ đó là người chịu thuế này.
Đặc điểm của thuế gián thu là người chịu thuế theo Luật và người nộp thuế không
đồng nhất với nhau. Người nộp thuế là người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ,
còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hóa đó với giá cả trong đó có thuế.
Thuế gián thu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả
thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không những chịu chi phối
của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị
trường, trong đó có sự tác động của thuế. Về nguyên tắc thuế gián thu mang tính chất
lũy thoái vì nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế. Loại thuế này
thường là các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng. Ở
Việt Nam các khoản thuế gián thu bao gồm : Thuế giá trị gia tăng, Thuế tiêu thụ đặc
biệt, Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu…
Ưu điểm của thuế gián thu là đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế gián thu được
che đậy qua giá bán hàng hóa, dịch vụ nên người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà
nước đánh thuế. Thuế gián thu đem lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho Ngân
sách Nhà nước. Đối tượng quản lý thu thuế cũng tập trung hơn, nghiệp vụ tính và thu
thuế đơn giản, nên chi phí quản lý thuế cũng thấp hơn so với thuế trực thu.
- 13 -


Nhược điểm của thuế gián thu là có tính chất lũy thoái nên không đảm bảo tính
công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tính tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu
nhập thì người giàu có tỷ lệ động viên thuế chịu thuế thấp hơn so với người nghèo.

1.1.2.2- Dựa vào cơ sở đánh thuế :
Cơ sở đánh thuế chỉ rõ thuế đánh trên cái gì. Căn cứ vào cơ sở đánh thuế có thể
chia thuế làm ba loại :
- Thuế thu nhập : bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm
được. Thu nhập kiếm được từ nhiều nguồn : từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền
công ; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ
phần…do đó thuế thu nhập cũng có nhiều dạng : thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
công ty, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế lợi tức cổ phần…
- Thuế tiêu dùng : Là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập của tổ
chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng
được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…
- Thuế tài sản : Là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Tài sản có
nhiều hình thức biểu hiện :
+ Tài sản tài chính gồm tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu…
+ Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, nhà xưởng…
+ Tài sản vô hình như quyền sử dụng đất, lợi thế thương mại, bằng phát minh
sáng chế…
1.1.3- Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế :
1.1.3.1- Khái niệm về hệ thống thuế :
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau, giữa chúng có mối quan
hệ mật thiết với nhau và việc xây dựng các loại thuế, phương pháp thu thuế được thực
hiện theo những nguyên tắc nhất định.
Tùy thuộc vào tình hình chính trị - kinh tế từng thời kỳ mà Nhà nước điều chỉnh
hệ thống thuế cho phù hợp. Điều đó có nghĩa là hệ thống thuế chịu sự chi phối của
- 14 -


chính sách thuế. Chính sách thuế là tổng hợp các phương hướng của Nhà nước trong
lĩnh vực thu nộp thuế và các biện pháp hành thu để đạt mục tiêu đã đề ra. Chính sách
thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong

nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản
pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các loại thuế và ưu đãi về thuế trong từng
giai đoạn phát triển nhất định.
1.1.3.2- Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế :
Adam Smith (1723-1790) - Người sáng lập ra môn phái Kinh tế tự do cổ điển
trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của nhân loại” đã nêu
ra bốn nguyên tắc cơ bản sau : Thuế phải công bằng ; Thuế phải rõ ràng ; Thu thuế phải
thuận tiện cho người đóng thuế ; Chi phí tiến hành thu thuế phải thấp nhất.
Bên cạnh những nguyên tắc tương tự với nguyên tắc của A.Smith còn có một số
tác giả đưa ra một số nguyên tắc như “Thuế khóa tập trung”, “Nguyên tắc bình đẳng
toán học trong thuế khóa”.
Trên cơ sở các nguyên tắc của A.Smith nêu trên, các nhà kinh tế học hiện đại đã
hoàn chỉnh, bổ sung và khái quát thành những tiêu thức đánh giá hệ thống thuế tích
cực, hiệu quả. Các tiêu thức này đã trở thành kim chỉ nam trong việc xây dựng hệ
thống chính sách thuế ở các nước kinh tế thị trường. Sau đây là các tiêu thức xây dựng
hệ thống thuế :
a) Tính công bằng :
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Trong một xã hội dân chủ, tính công bằng phải được thực hiện trong từng sắc thuế. Có
công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế mới tạo ra được mục tiêu bình đẳng trong sản xuất
kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của
thuế phải dựa theo nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và theo chiều dọc.
- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có điều
kiện về mọi mặt như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
- 15 -


Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong thực tiễn không thể chỉ rõ tiêu thức nào
để xác định hai cá nhân có điều kiện mọi mặt như nhau, mặt khác cũng khó xác định
cách đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là như thế nào?

- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp
thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp thuế ít
hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần xác định rõ hai vấn đề : tiêu thức
xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn. Vấn đề tiêu thức xác định khả năng
nộp thuế cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Hiện nay người ta hay dùng tiêu thức thu
nhập hay tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế. Có ý kiến đề nghị rằng để đánh
thuế công bằng nên dựa vào lợi ích mà người nộp thuế nhận được từ việc cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công cộng của Nhà nước. Trong thực tế có nhiều hàng hóa công
cộng do Nhà nước cung cấp không thể xác định được lợi ích cụ thể mà cá nhân nhận
được để xác định mức thuế. Việc căn cứ vào lợi ích để đánh thuế chỉ xảy ra trong
trường hợp mà việc cung cấp hàng hóa công cộng đó xác định được một cách chính
xác lợi ích mà cá nhân nhận được.
Tóm lại, công bằng trong thuế khóa là một đòi hỏi khách quan, nhưng việc đánh
giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không phải là vấn đề đơn giản. Do đó,
công bằng trong thuế khóa vẫn thuộc về nhận thức và quan điểm của mỗi quốc gia.
b) Tính hiệu quả :
Hệ thống thuế phải đảm bảo tính hiệu quả dựa trên các mặt sau :
- Hiệu quả đối với nền kinh tế : Một chính sách thuế đúng đắn sẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển. Xây dựng chính sách thuế không sát với thực tế sẽ kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế dẫn đến đối tượng nộp thuế có hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng
trốn kê khai nộp thuế cho Nhà nước, giảm thu Ngân sách Nhà nước.
- Hiệu quả thu thuế là lớn nhất : Thể hiện tính hiệu quả là tổng số thuế thu được
là lớn nhất với chi phí tổ chức thu thuế là thấp nhất. Trong thực tế, khi thu thuế bao giờ
cũng phát sinh chi phí, đó là các khoản chi phí trực tiếp của cơ quan thuế và những chi
- 16 -


phí gián tiếp do người nộp thuế gánh chịu. Tính hiệu quả của thu thuế được thể hiện là
tổng số thuế thu được nhiều nhất trên cơ sở chi phí trực tiếp của cơ quan thuế và chi
phí gián tiếp của người nộp thuế là thấp nhất. Các khoản chi phí trên gọi là chi phí

hành chính. Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn giản
chứa đựng ít mục tiêu. Mặt khác, hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm
tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng, thuận tiện.
c) Tính chính xác :
Một hệ thống thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và minh bạch. Trước hết phải chỉ
rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế, quy định rõ ràng mức phạt đối
với đối tượng nộp thuế, vi phạm Luật thuế, cơ quan thuế hướng dẫn cơ sở kinh doanh
thực hiện sai quy định của Luật thuế. Hệ thống thuế không rõ ràng, minh bạch sẽ gây
khó khăn cho các nhà đầu tư trong nước, hạn chế thu hút vốn đầu tư trong nước và
nước ngoài để phát triển kinh tế.
d) Tính thuận lợi :
Tính thuận lợi thể hiện sự dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ quản lý và khả năng thích ứng
của hệ thống thuế đối với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi.
Yêu cầu về tính dễ hiểu, dễ thực hiện thường thuộc về kỹ thuật xây dựng các văn
bản pháp luật quy định về thuế sao cho logic, mạnh dạn, rõ ràng, các từ dùng trong văn
bản phải mang tính phổ thông để dễ hiểu và hiểu đúng thì thực hiện mới đúng và dễ
kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện luật thuế trong thực tế.
Hệ thống thuế phải đảm bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn
cảnh kinh tế thì mới phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế, nhưng
người thực hiện chính sách thuế ấy là tầng lớp dân cư trong xã hội. Cho nên chính sách
thuế càng đơn giản, dễ hiểu thì người dân mới có điều kiện hiểu rõ và làm đúng theo
quy định của các luật thuế. Có như vậy, thuế mới phát huy được vai trò là công cụ chủ
yếu tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để đảm bảo
được yêu cầu này mà không vi phạm nguyên tắc đã định ra, khi xây dựng hệ thống thuế
- 17 -


thì cơ quan lập pháp thường chỉ quy định khung thuế suất, còn việc quy định thuế suất
cụ thể thường giao cho cơ quan hành pháp, có như vậy mới đảm bảo cho hệ thống thuế
thích ứng với những biến động của hoàn cảnh kinh tế.


1.2- THUẾ VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ :
1.2.1- Nội dung chính của hội nhập kinh tế quốc tế :
- Về thương mại và thuế quan : Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
bao gồm các hạn chế định lượng như quota, giấy phép xuất nhập khẩu (trừ những lĩnh
vực liên quan đến an ninh, môi trường, trật tự an toàn xã hội, đạo đức và truyền thống
dân tộc). Toàn bộ biểu thuế xuất nhập khẩu được ràng buộc ở mức hiện hành nhưng
giảm dần theo lịch trình thỏa thuận, các nước công nhận quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu của các chủ thể và cá nhân trong và ngoài nước trên lãnh thổ của mình một cách
bình đẳng trước pháp luật.
- Về đầu tư : Các cam kết không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài những yêu
cầu về tỷ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ.
Nhiều hiệp định đầu tư đa phương đều có cam kết toàn diện nhằm bảo đảm, khuyến
khích tự do hóa đầu tư.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung tạo ra rất nhiều thuận lợi cho các quốc gia.
Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, đầu tư sang thị trường nước ngoài,
tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều
kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch và cơ cấu đầu tư, sản xuất kinh doanh, giải quyết
việc làm, phát triển kinh tế trong nước.
1.2.2- Vai trò của thuế đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế :
Trong tiến trình hội nhập này, hệ thống chính sách thuế có vai trò đặc biệt quan
trọng thể hiện trên những khía cạnh sau :


- 18 -


1.2.2.1- Khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài :
Bất kỳ một chính sách thuế nào cũng hướng tới mục tiêu là điều tiết sản xuất và

tiêu dùng, tạo nguồn thu cho NSNN. Trong điều kiện HNKTQT, chính sách thuế phải
thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh, để thực hiện tốt vai trò khuyến khích đầu tư trong
nước cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, học
hỏi những kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các nước trên thế giới, tạo điều kiện thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Cụ thể là thay đổi các mức thuế suất và chính sách miễn
giảm thuế, đối tượng chịu thuế đối với các sắc thuế trực thu như thuế TNDN, thuế
TNCN. Đồng thời chú trọng cải tiến, đổi mới công tác quản lý thuế.
1.2.2.2- Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ :
Hội nhập kinh tế tạo ra các cơ hội lớn cho việc di chuyển một cách thông thoáng
của các nguồn lực tài chính cũng như việc lưu thông không hạn chế của các loại hàng
hóa, dịch vụ thông qua hoạt động XK, NK hàng hóa, dịch vụ từ các nước. Trong việc
thúc đẩy hoạt động XK, NK, ngoài các biện pháp về hàng rào phi thuế quan thì hệ
thống chính sách thuế giữ vai trò quan trọng trong đó đặc biệt là Luật thuế XK, thuế
NK (thông qua các mức thuế suất, các chính sách ưu đãi về thuế và lộ trình cắt giảm
thuế quan thông qua việc tham gia vào các hiệp định thương mại khu vực và thế giới).
1.2.2.3- Thúc đẩy tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước :
Quá trình tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tất yếu phải cắt giảm thuế
(cả thuế trực thu và thuế gián thu) cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm nhiều mục
đích như thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy hoạt động XK, NK. Tuy nhiên, do tác động tích
cực của hội nhập làm cho sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa phát triển, số lượng
cơ sở sản xuất kinh doanh tăng lên, đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế được mở
rộng, quy mô của doanh nghiệp ngày càng tăng và theo đó quy mô của toàn bộ nền
kinh tế cũng không ngừng gia tăng ; điều đó đồng nghĩa với việc nguồn thu của NSNN
sẽ tăng trưởng và không ngừng lớn mạnh.
- 19 -


1.3- Kinh nghiệm về cải cách thuế ở một số nước trên thế giới theo xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế :
Trong những năm gần đây, hòa mình với tiến trình HNKTQT, các quốc gia trên

thế giới đang có xu hướng cải cách hệ thống thuế của mình cho phù hợp với thông lệ
quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế cao hơn nữa và vươn mình mở cửa
thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ở mỗi nước cũng có những nội dung cải cách
theo xu hướng khác nhau tùy đặc điểm chính trị - kinh tế - xã hội ở mỗi nước.
Thập kỷ vừa qua được coi là thập kỷ năng động của cải cách thuế trong đó chính
sách thuế đã có những bước thay đổi đáng kể điển hình là : Thuế GTGT đã được thay
cho thuế doanh thu để hạn chế tính trùng lắp, không khuyến khích đầu tư (trong thập
kỷ 1980 chỉ có 8 nước thì thập kỷ 1990 đã có 116 nước có thuế GTGT) ; Cắt giảm
mạnh thuế NK tại các nước đang phát triển. Số thu từ thuế XK, thuế NK của các nước
đang phát triển giảm từ 4,2% GDP giai đoạn những năm 1985-1988 xuống còn 3,5%
GDP giai đoạn những năm 1995-1997 (số thu này của các nước đã phát triển ổn định ở
mức 1% GDP).
Dù cải cách thuế có diễn ra một cách triệt để hay được tiến hành theo từng bước
thì nội dung chính của cải cách thuế chủ yếu là nhằm mục đích tăng số thu để hạn chế
thâm hụt NSNN, khuyến khích đầu tư và lao động để từ đó kích thích tiêu dùng. Tuy
nhiên tiến độ và kết quả cải cách chính sách thuế ở các nước cũng có nhiều điểm khác
nhau do hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội ở mỗi nước khác nhau.
Ở các nước phát
triển
, cải cách chính sách thuế chú trọng vào việc hoàn thiện các chi tiết trong các Luật
thuế sẵn có. Còn ở các nước đang phát triển, cải cách thuế phải phù hợp với chuẩn
mực và thông lệ quốc tế.
Sau đây là nội dung và kinh nghiệm cải cách thuế ở một số nước có điều kiện và
hoàn cảnh tương tự Việt Nam mà qua đó Việt Nam có thể tham khảo để vận dụng vào
phương hướng hoàn thiện hệ thống thuế của mình :

- 20 -


1.3.1- Cải cách thuế ở Trung Quốc :

Cải cách thuế ở Trung Quốc được thực hiện cơ bản vào những năm 1993-1994
với kết quả chính là mở rộng diện áp dụng thuế GTGT, thống nhất giữa thuế TNDN và
thuế TNCN giữa trong nước và nước ngoài. Cơ cấu số thu của Trung Quốc chủ yếu
vẫn là thuế gián thu (thuế GTGT chiếm 36%, thuế TNDN chiếm 9,6%, thuế TTĐB
chiếm 7,7% và thuế TNCN chiếm 3,9%). Ngày 12/11/2001, WTO đã quyết định kết
nạp Trung Quốc làm thành viên, điều đó đã mở cho Trung Quốc một không gian rộng
lớn và những điều kiện thuận lợi để tham gia hoạt động thương mại quốc tế, đồng thời
cũng đặt Trung Quốc trước những thách thức mới. Do vậy, đây được coi là động lực
đẩy mạnh cải cách thuế của Trung Quốc vào thời điểm cuối năm 2001 này. Bước cải
cách thuế mới của Trung Quốc bao gồm :
- Từng bước hạ thấp mức thuế tổng thể và tiến hành điều chỉnh một cách hợp lý
cơ cấu thuế suất. Mức thuế nhập khẩu của Trung Quốc đã giảm từ 17% (năm 2001)
xuống còn 17% (năm 2005). Giảm thuế kinh doanh đối với doanh nghiệp bảo hiểm và
tài chính từ 8% xuống còn 7% năm 2001, 6% năm 2002 và 5% năm 2003 ; thuế kinh
doanh đối với dịch vụ giải trí cao cấp (hộp đêm, sàn nhảy, săn bắn…) là 20% ;
- Tiếp tục thanh lý và quy phạm chính sách miễn, giảm thuế. Ngoài việc bảo lưu
những chính sách miễn, giảm thuế phù hợp với quy phạm quốc tế, còn triệt để thanh lý
những chính sách miễn, giảm thuế, điều chỉnh chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu theo phương thức mậu dịch biên giới và hàng hóa nhập khẩu của một bộ
phận những người đi nước ngoài trở về.
- Chỉnh đốn và quản lý các “Khu bão thuế”.
- Quy định một cách hợp lý việc quản lý phương thức mậu dịch gia công. Với sự
phát triển của phương thức mậu dịch gia công và trình độ quản lý trước đây của Trung
Quốc, mô thực này rất khó quản lý, giám sát. Do đó, trong cải cách thuế này đã đề xuất
việc các đơn vị gia công hàng xuất khẩu cần có tài khoản bảo đảm tại ngân hàng, từng
bước tập trung việc gia công hàng xuất khẩu vào các “khu bão thuế” và “khu chế xuất”.
- 21 -


Đối với những hàng hóa được gia công ở các cơ sở sản xuất ngoài “khu bão thuế”,

“khu chế xuất”, nếu phù hợp với các điều kiện quy định thì thực hiện chế độ quản lý
đối với “nhà máy bão thuế”, “kho hàng bão thuế” ; nếu không phù hợp với điều kiện
quy định thì phải có sự bảo đảm về mặt kinh tế hoặc áp dụng biện pháp thu thuế trước,
hoàn thuế sau.
- Xây dựng và hoàn thiện quy định về thuế chống khuynh tiêu, thuế chống trợ giá.
- Xây dựng “Luật thuế quan khẩn cấp”, nhằm tạo căn cứ pháp luật cho việc bảo
hộ các ngành kinh tế trong nước trong trường hợp cần thiết, phù hợp với quy định của
WTO. Đồng thời căn cứ vào quy định của WTO về nguyên tắc phân biệt đối xử và
thông qua đàm phán yêu cầu những nước đang thi hành chính sách thuế quan hoặc phi
thuế quan mang tính chất phân biệt đối xử nhằm vào Trung Quốc xóa bỏ những chính
sách đó.
- Tăng cường công tác thu thuế và công tác quản lý của hệ thống hải quan.
- Tận dụng điều khoản của WTO về việc cho phép hoàn thuế xuất khẩu, hoàn
thiện chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu.
- Mở rộng phạm vi các loại thuế liên quan đến xuất khẩu được hưởng chính sách
hoàn thuế. Ngoài thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu dùng, đã đưa thuế kinh doanh vào
phạm vi hoàn thuế và cũng có thể đưa thuế duy trì, xây dựng đô thị, tiền phụ thu về
giáo dục là hai loại thuế đang cùng thu một lúc với thuế giá trị gia tăng vào phạm vi
hoàn thuế.
- Sử dụng chính sách thuế để bảo vệ tài nguyên hiếm có vật tư khan hiếm.
- Từng bước hủy bỏ biện pháp tài trợ thuế xuất khẩu mà WTO ngăn cấm.
- Thống nhất thuế lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn nước ngoài.
- Từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn nước ngoài, giữa người Trung Quốc và người nước ngoài ở Trung Quốc
trong việc áp dụng các loại thuế khác.
- 22 -


- Từng bước xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng về chính sách thuế nhập khẩu đối với

doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
- Ban hành một số loại thuế mới như thuế an ninh xã hội, thuế thừa kế.
1.3.2- Cải cách thuế ở Đài Loan :
Đài Loan - điển hình của các nước công nghiệp mới - được xem như là rất thành
công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhờ có hệ thống chính sách
thuế hợp lý. Bởi lẽ từ nhận thức xem thuế là một công cụ có hiệu lực góp phần khuyến
khích đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước tiến lên giàu mạnh và
tạo được nguồn tài chính quốc gia lành mạnh, Chính phủ Đài Loan đã không ngừng
quan tâm đến việc xem xét, cải cách hệ thống thuế đặc biệt đầu năm 1960, sau khi có
Luật thuế khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhằm bảo đảm hệ thống thuế luôn hợp lý,
đạt hiệu quả cao trong tình hình kinh tế - xã hội thường xuyên biến động. Ở Đài Loan
có 14 sắc thuế mà theo lý thuyết truyền thống của họ thì các loại thuế trực thu gồm :
Thuế TNCN, thuế lợi tức, thuế khai thác mỏ, thuế tài sản, thuế thừa kế, thuế đất, thuế
nhà, thu trước bạ xe cơ giới ; Còn thuế gián thu gồm có thuế quan, thuế giao dịch
chứng khoán, thuế doanh nghiệp, thuế tem, thuế giải trí và thuế hàng hóa.
Từ năm 1981, hệ thống thuế Đài Loan được phân chia cho ba cấp phụ trách quản
lý thu gồm có : thuế quốc gia, thuế tỉnh (thành phố), thuế huyện (quận).
Và theo thời gian hệ thống chính sách thuế của Đài Loan đã không ngừng hoàn
thiện, thuế suất thuế thu nhập ngày càng giảm dần theo xu hướng ưu đãi hơn. Các quy
định miễn giảm thuế cũng được mở rộng, bổ sung nhiều hơn. Các ưu đãi và khuyến
khích về thuế thu nhập gián tiếp bằng cách loại trừ ngày càng nhiều các khoản thu ra
khỏi thu nhập chịu thuế đồng thời cho phép tăng khấu hao và chấp nhận một số khoản
chi phí như : chi nghiên cứu, sản xuất thử, chi tiếp thị…Chế độ thuế quan được thực
hiện rất thông thoáng với mục tiêu đạt được thông lệ của WTO. Đây cũng là đặc trưng
cải cách thuế ở các nước công nghiệp mới, đặc biệt là ở Singapore và Hồng Kông, hai
- 23 -


quốc gia này được ví như hai “cảng tự do”. Điều này mang ý nghĩa rất lớn đối với việc
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Đến nay, t
ại Đài Loan, tồn tại nhiều loại thuế : thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế quà tặng, thuế rượu thuốc lá, thuế dịch vụ,
thuế thừa kế…Hệ thống thuế được chia thành 2 hệ thống: thuế Trung ương và thuế
địa
phương. Hiện nay 70% số thu là thuế Trung ương, 30% là thuế Địa phương. Nhưng các
dữ liệu về thuế do Trung ương quản lý hay do địa phương quản lý đều được tập trung
về trung tâm dữ liệu tài chính. Tại Đài loan có 3 loại thuế chiếm 50% tổng số thu của
cả nước là: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng.
- Thuế kinh doanh (VAT): Tăng lên 17,5% (trước đây không có). Việc sử dụng
máy tính tạo thuận lợi cho cả cơ quan thuế và cả đầu tư nước ngoài. Đối tượng nộp
thuế có thể tự kiểm tra số thuế của mình trên mạng (số phải nộp, đã nộp). Có trả lời
ngay trên mạng những vấn đề về thuế. Không cần phải đến cơ quan thuế, đối tượng
nộp thuế có thể gửi khiếu kiện cho cơ quan thuế qua mạng, và nhiều nghiệp vụ khác có
thể giải quyết ngay trên mạng.
- Thuế thu nhập cá nhân: Thu theo hộ gia đình. Có 5.000.000 hộ gia đình. Mọi
gia đình đều phải kê khai. Trong tờ khai có kê khai các khoản chiết trừ như phải nuôi
người già…Do đó, sẽ tính thuế phải nộp hợp lý (một số gia đình sẽ không phải nộp
thuế thu nhập cá nhân).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Tại Trung tâm dữ liệu Tài chính tập trung toàn bộ
số liệu về hóa đơn bán hàng và hóa đơn mua hàng. Dữ liệu này không chỉ phục vụ cho
việc kiểm tra, xác định thuế VAT mà còn phục vụ cho việc quản lý thuế Thu nhập
doanh nghiệp.
Tóm lại, Đài Loan nhờ có đường lối đúng đắn trong tiến trình cải cách thuế, đến
nay s
ố thu của thuế đạt 45 tỷ/năm. So với tổng thu của Ngân sách quốc gia hàng năm là
65 tỷ thì số thu của thuế chiếm 75% số thu của Chính phủ. Đây quả thật là bài học kinh
nghiệm thực tế rất có ý nghĩa cho Việt Nam trong tiến trình cải cách thuế của mình.
- 24 -



1.3.3- Cải cách thuế ở các nước ASEAN :
Các nước thành viên ASEAN đã thực hiện cải cách triệt để hệ thống tài chính
trong đó có hệ thống thuế. Đặc trưng của cải cách thuế ASEAN là sự thể hiện rõ nét sự
thích ứng với thông lệ quốc tế và vai trò hỗ trợ kỹ thuật của IMF hoặc WB, theo đó cải
cách thuế phải kết hợp giữa việc ban hành thuế GTGT (thay cho thuế doanh thu), đối
xử công bằng giữa mọi hình thức đầu tư, thu hẹp ưu đãi miễn giảm thuế và kiện toàn
cơ chế quản lý thuế. Hiện nay, mô hình chính sách thuế của ASEAN tương đối giống
nhau với đặc điểm là :
- Thuế đối với tiêu dùng : Mặc dù đã ban hành thuế GTGT nhưng vẫn duy trì thuế
doanh thu (hoặc thuế kinh doanh) áp dụng đối với một số hoạt động kinh doanh hàng
hóa và dịch vụ đặc biệt (hàng hóa xa xỉ phẩm, dịch vụ ngân hàng, vận tải quốc tế…)
- Thuế thu nhập : Giảm thuế suất từ 1- 2% đối với thuế TNDN ; thuế suất cao đối
với thuế TNCN không quá 40%; thuế suất khấu trừ tại nguồn đối với thu nhập từ đầu
tư từ 10-20%.
Trước tình trạng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế của các công ty đa
quốc gia, các nước ASEAN đã đồng loạt ban hành các quy định về kiểm soát chuyển
giá (cho phép cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế có thể ký thỏa thuận trước về giá) và
kiểm soát lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài.
- Chính sách ưu đãi đầu tư : Nhằm mục đích khuyến khích xuất khẩu, công nghệ
cao và phát triển vùng sâu, vùng xa trên cơ sở không phân biệt ưu đãi đối với đầu tư
trong nước và nước ngoài. Biện pháp : Hạn chế sử dụng miễn giảm thuế theo thời gian
mà sử dụng chế độ khấu hao nhanh đối với một số loại tài sản đầu tư.
Sau đây là một số nội dung cải cách thuế của các nước ASEAN :
1.3.3.1- Cải cách thuế ở Inđonexia :
Hệ thống thuế được cải cách từ năm 1994. Mục tiêu của cải cách này là tăng số
thu về thuế để bảo đảm yêu cầu chi tiêu của Ngân sách. Hệ thống thuế mới gồm thuế
chủ yếu là thuế thu nhập, thuế GTGT. Điểm mới là gộp thuế TNCN và thuế thu nhập
công ty thành một loại thuế suất đơn giản chỉ có ba thuế suất theo lũy tiến từng phần :
- 25 -


×