Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Bàn về quản lý thu chi chi BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.63 KB, 35 trang )

Lời mở đầu
Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước ta, đã thực hiện được từ những năm 60 của Thế kỷ XX.
Trải qua nhiều năm với những sửa đổi, bỏ sung cho phù hợp với từng giai
đoạn, chính sách Bảo hiểm xã hội đã đóng góp phần rất to lớn đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính
trị - xã hội của đất nước. Người ta ví “ Cuộc sống không có bảo hiểm như
cầu thang không có tay viện”. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH
trong hệ thống an sinh quốc gia (ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa
qua việc triển BHXH đã từng bước đi vào cuộc sống thông qua việc thực
hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau, thai sản ….
Qũy BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói
là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng
quỹ BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của quỹ
BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm
thể nào để nâng cao được hiệu quả trong việc thu - chi quỹ BHXH đây là
câu hỏi được đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm nghiên
cứu đến hoạt động BHXH.
Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn
và dân cư đông bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành
phố. Là một tỉnh có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc,
năm trên con đường huyết mạch từ Bắc chí Nam. Là một người con của đất
Thanh Hóa và là sinh viên khao Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân
nên em đã trọn đề tài “Bàn về quản lý thu chi chi BHXH tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2003 – 2008 “ . Qua bài viết này em xin nêu lên và đóng góp một
số ý kiến, một số suy nghĩ của mình trong việc quản lý thu chi quỹ BHXH.
Chương I: BHXH và quỹ BHXH
I. BHXH:
1. Khái niệm và bản chất:
Khái niệm:
BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được


tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động
dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để
thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình
họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động như
bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già…
Bản chất:
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối
quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế
càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói
kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh
tế của mỗi nước
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sỡ lao
động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người
lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ
BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo
trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ không có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan
của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc
cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như
già yếu, thai sản v.v… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong
và ngoài quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp những biến
cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được
tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước.

- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu
của người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc
làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) cụ thể hoá như
sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm
bảo nhu cầu thiết yếu cuộc sống cho họ
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
2. Đối tượng, chức năng, bản chất:
2.1. Đối tượng:
Dù có lịch sử ra đời từ rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn rất
nhiều quan điểm chưa thống nhất, hay có sự nhầm lẫn giữa đối tượng của
BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
Theo khái niệm của BHXH :” BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng
một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước,
nhằm đảm bảo phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết
yếu của người lao động và gia đình họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm
hoặc mất thu nhập theo lao động như bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai
nạn, tuổi già…” vì vậy đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị mất
đi hay giảm đi do sự rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm giảm hoặc
mất khả năng lao động, mất việc làm.
Đối tượng tham gia BHXH đó là người lao động và người sử dụng
lao động, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng
tham gia có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động. Nhưng nhìn
chung thì khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng tham gia càng được mở
rộng hơn.
2.2. Chức năng:
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:

Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham
gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy
ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao
động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất
việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập,
người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải
đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giúp những người
tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả
những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng vào quỹ
BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi
họ bị giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật
số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang. Phân phối lại giữa người có thu nhập cao và thu nhập thấp,
giữa người đang khoẻ mạnh làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ
việc v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng
cao năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. Khi khỏe
mạnh tham gia lao động sản xuất người lao động được chủ sử dụng lao
động trả lường hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc
khi già yếu đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế
cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chổ dựa.
Do đó, người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi
làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao
động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh

tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo
theo là năng xuất lao động của xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động,
giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao
động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách
quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v… Thông qua BHXH,
những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới
này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho
họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã
hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng
vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình
họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được
phát triển và an toàn hơn.
2.3. Bản chất:
Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân tích ở
trên, rủi ro xảy đến với cuộc sống của người lao động không hoàn toàn do
người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người sử dụng lao động, tới
toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao
động làm giảm năng suất lao động, mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải
can thiệp thông qua BHXH vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách
quan.
BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không gian và
thời gian. Điều này thể hiện rõ trong nội dung cơ bản của BHXH, từ thời
điểm triển khai BHXH, người tham gia BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi
ro phát sinh theo không gian, thời gian, đến mức trợ cấp cho từng chế độ,
từng đối tượng.
BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch
vụ. Tính kinh tế được thể hiện qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH
sao cho hợp lúy, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được thể hiện ở việc BHXH
được sử dụng nhằm đảm bảo ổn định cho những người lao dộng và gia đình

họ. BHXH thể hiện tính dịch vụ của nó thông qua họa động dịch vụ tài
chính ( thông qua nguồn vốn nhàn rỗi )
3. Những nguyên tắc về BHXH:
3.1. Là sự đảm bảo về mặt xã hội:
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của BH, nó vừa
mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước
hết là sự đảm bảo về vật chất ( qua các chế độ BHXH ). Mức đảm bảo về vật
chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và
vì vậy ảnh hưởng tới sự phát tiển của BHXH, BHXH là lấy số đông bù số
ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là cơ sở để đảm bảo cho quãng
đời không tham gia và lao động ( mất sức lao đông hay cao tuổi).
3.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện:
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu. Như vậy, nhà
nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng
lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan
hệ về BHXH. Điều này được thể chế hóa trong Bộ luật Lao động và các văn
bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức
tham gia, các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham
gia trên cơ sở sự phát triển của hế thống BHXH của một số nước trong từng
giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện và phát
triển mở rộng hơn.
3.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH:
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các vấn đề có liên quan đến việc
thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối
thiểu của từng chế độ BHXH là mức đóng định kỳ ( hàng tháng ), mức thời
gian tối thiểu để tham gia và được hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức
tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương
bình quân, quảng đời lao động…Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến
giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tác
này liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến

khích người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia.
3.4. BHXH phải đảm bảo tính thống nhất và liên tục cả về mức tham gia
và thời gian thực hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động:
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị
trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí
mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao
động…Điều này có thể xảy ra trong các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo
cho người tham gia BHXH có thể duy trì một cách liên tục theo thời gian có
tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận
tiện cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và
tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ
chủ yếu nhất để duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động.
3.5. Công bằng trong xã hội:
Đây là nguyên tắc quan trọng xong cũng rất phức tạp trong chính
sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiện trong một thời gian dài, cả
trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có sư thay đổi
diễn ra. Mức và thời gian của từng người và mức hưởng lương của họ cũng
có thể không giống nhau. Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không
đơn giản, nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những
khác biệt về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay.
Do vậy, đảm bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm
bảo tính tuyệt đối.
Sự công bằng trước hết phải đặt trong quan hệ giữa đóng góp và
được hưởng. Điều này được thể hiện trong nội dung và điều kiện tham gia
từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng được đặt trong các
quan hệ xã hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay
giữa các vùng, địa bàn, nghành nghề khác nhau…dựa trên nguyên tắc tính
xã hội của bảo hiểm.
4. Những quan điểm cơ bản về BHXH:
Hiện nay có 5 quan điểm về BHXH như sau:

- BHXH là một trong những chính sách XH cơ bản nhất của mỗi quốc gia,
nó thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ
chức và quản lý của mỗi quốc gia
- Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền bình đẳng trước BHXH
không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.
- Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH đối với
người mà họ sử dụng.
+ Họ phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định so với tổng quỹ
lương.
+ Họ phải thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với những người lao động
mà mình sử dụng.
- Các mức hưởng BHXH phụ thuộc vào 5 yếu tố sau:
+ Tình trạng sức khỏe, thương tật, thông qua dám định y khoa
+ Ngành nghề công tác của người lao động
+ Thời gian công tác và tiền lương của người lao động
+ Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp
+ Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ.
- Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp BHXH từ việc ban hành các chính
sách và tổ chức bộ máy thực hiện các chính sách BHXH
II. Quỹ BHXH:
1. Khái niệm:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là
dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các
biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia
đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm: Người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước.
2. Nguồn quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:

+ Người sử dụng lao động đóng góp
+ Người lao động đóng góp
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm
+ Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi
do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi )
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH
cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và
người lao động trên cơ sỡ quan hệ lao động. Điều này không phải là sự
phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao
động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ trách được thiệt
hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với
người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt
tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ.
Về phía người lao động, sự đóng góp một phần dể BHXH cho mình vừa
biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa
ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích.
Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động. BHXH không
thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ
của nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động
và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ
trong lĩnh vực BHXH có cơ sỡ vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng
nhiều hình thức biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không
chỉ tham gia đóng góp và hổ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành
chổ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp
của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử
dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhât cho rằng,

phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh
nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ
bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quôc
dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao
động phải chiệu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ
trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và
người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một
số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chiệu
toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v…
Mức đóng góp của một số nước trên thế giới
Tên nước Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp
của người lao
động so với tiền
lương (%)
Tỷ lệ đóng góp
của người sử dụng
lao động so với
quỹ lương (%)
CHLB Đức
CH Pháp
Indonexia
Philipin
Malaixia
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Chi toàn bộ chế độ

ốm đau, thai sản
14,8 – 18,8
11,82
3,0
2,85 – 9.25
9,5
16,3 – 22,6
19,68
6,5
6,85 – 8,05
12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Ở nước ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành
từ 2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của
xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không
tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh
doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta
chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP
ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định
12/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này đều quy định quỹ BHXH
được hình thành từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương
của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả
các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
+ Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế
độ hưu trí và tử tuất.
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động.
+ Các nguồn khác.

Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố
quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính
toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp
vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp
toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn
cứ tính toán khác nhau:
+ Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp
BHXH, từ đó có cơ sỡ xác định mức đóng phí.
+ Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
+ Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức
hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH
lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao
động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác
định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số
đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức
hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P = f
1
+ f
2
+ f
3
Trong đó:
P – Phí BHXH
F
1
– Phí thuần tuý trợ cấp BHXH

F
2
– Phí dự phòng
F
3
– Phí quản lý
3. Mục đích sử dụng quỹ:
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH;
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH;
+ Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH;
Trong 3 nội dung chỉ tiêu nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các
chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Bao gồm các chế độ BHXH:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm
vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu có chi, thu
trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn
thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. l
4. Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế - xã hội:
Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế:
Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện
ở chỗ hai loại chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu không xác định

được giới hạn hợp lí này sẽ dẫn đến hoặc là xây dựng một hệ thống
BHXH không phù hợp khả năng và trình độ phát triển của nền kinh tế
làm cho chính sách BHXH thực thi không cao, tác động tiêu cực đến nền
sản xuất xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi trọng yếu
tố năng suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho chính sách xã hội
trong đó có chính sách BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi vậy thực
hiện tốt chính sách BHXH sẽ tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản
xuất, tạo năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối quan hệ giữa
chính sách BHXH với chính sách kinh tế còn thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng
không dẫn tới công bằng xã hội một cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng
kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tăng trưởng
kinh tế phải qua khâu phân phối mới đưa các chính sách BHXH nói
riêng và phúc lợi xã hội nói chung tới các tầng lớp dân cư. tăng trưởng
kinh tế là một điều kiện quan trọng để thực hiện chính sách BHXH có
hiệu quả. Ngược lại khi xem xét chính sách BHXH dưới góc độ một
chính sách kinh tế khi hoạch định chính sách BHXH không hợp lí, xây
dựng mức đóng BHXH không phù hợp sẽ làm nâng giá thành sản phẩm
lên cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm, hạn chế tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách BHXH cũng có sự mâu
thuẫn. Qúa trình nâng cao hiệu quả kinh tế thường xuất hiện các hiện
tượng cố tình không thực hiện chính sách BHXH cho người lao động
như đóng BHXH không đứng mức thu nhập, kí hợp đồng lao động ngắn
hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm bảo gây ra tai nạn lao động-
bệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ này phụ thuộc
vào bản chất chế độ chính trị xã hội và năng lực quản lí của Nhà nước
trong việc tạo điều kiện tối ưu sự kết hợp sự phát triển kinh tế với việc
thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội gắn liền tiến bộ xã hội với sự
phát triển toàn diện con người.

Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội:
Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hoá
bằng pháp luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói
chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả
mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân chính sách xã hội bao trùm lên mọi cuộc sống của
con người. Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính
sách quan trọng. Chính sách BHXH và các chính sách xã hội khác có
mối quan hệ biện chứng với nhau, các chính sách này hỗ trợ lẫn nhau để
giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện tốt các chính sách xã hội sẽ góp
phần thực hiện tốt chính sách BHXH và ngược lại thực hiện tốt chính
sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội khác. Chẳng
hạn như chính sách tiền lương là cơ sở để xác định mức đóng BHXH, vì
vậy mức tiền lương phải đảm bảo đủ trang trải các nhu cầu cơ bản của
người lao động và phần đóng BHXH do đó chính sách tiền lương hợp lí
sẽ góp phần thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội .
Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể
hiện khá rõ nét, số người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn
định sẽ tạo cho BHXH có nguồn thu ổn định; ngược lại chính sách giảm
biên chế, chính sách giảm lao động làm việc trong các doanh nghiệp như
quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP dẫn đến tăng số người về
nghỉ chế độ làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng
năm phải cấp bù rất lớn. Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động
lớn đến chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách đối với
những người tham gia chiến trường B,C,K.
Chương II: Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa gia đoạn 2003 –
2008
I. Giới thiệu về BHXH tỉnh Thanh Hóa:
Trên cơ sỡ của việc thành lập BHXH Việt Nam. BHXH tỉnh Thanh Hoá
được thành lập theo QĐ số 137/QĐ – TCCB ngày 15/06/1995 và bổ sung thêm

chức năng, nhiệm vụ thực hiện chế độ BHXH, BHYT theo QĐ 1620/QĐ –
TCCB; Quyết định 195/QĐ – TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám Đốc
BHXH Việt Nam. Như vậy từ thời điểm này, ngoài việc đảm bảo các chế độ
BHXH cho người lao động, cơ quan BHXH còn được giao thêm nhiệm vụ quản
lý thực hiện chế độ BHYT cho cán bộ công nhân viên chức và các đối tượng
khác trong xã hội. Đặc biệt ngày 26/09/2002 Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 9
thông qua luật BHXH cơ sỡ pháp lý vững chắc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia BHXH. Nội dung của luật thể hiện đầy đủ chủ trương chính
sách xã hội quan điểm của đảng nhà nước trong lĩnh vực BHXH.
Sự hình thành và phát triển của BHXH Thanh Hoá luôn luôn gắn liền với sự
hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam. Sau gần 15 năm kể từ ngày thành
lập cho đến nay BHXH tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chuyển biến mới, trụ sở của
BHXH tỉnh năm trên đại lộ Lê Lợi nơi đặt trụ sở của rất nhiều cơ quan chính
quyền quan trọng trong tỉnh.
III. Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa:
1. Thực trạng thu chi:
Thực trạng thu:
Nhờ những nỗ lực của các cán bộ của phòng thu cũng như những cán bộ của
BHXH tỉnh trong thời gian qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đạt được những thành
quả:
Một là: Quản lý đối tượng tham gia BHXH
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua hoạt
động quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn hướng vào mục tiêu
tăng nhanh đối tượng tham gia BHXH ở mọi thành phần kinh tế phù hợp với ưu
cầu hội nhập và phát triển kinh tế xã hội của địa phương thực hiện thu đúng, thu
đủ, kịp thời và quản lý và thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng
phục vụ đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động.
Bám sát vào mục tiêu trên, BHXH Thanh Hóa có nhiều biện pháp tổ chức
thực hiện nhằm tăng nhanh số người tham gia BHXH. Nhưng việc thực hiện gặp

nhiều khó khăn, do trong gần 50 năm hoạt động BHXH ở nước ta thực hiện theo
cơ chế bao cấp, người lao động hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH mà chưa
phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH; thông lệ này đã đi vào tiềm thức của từng
người, nếu là cán bộ công chức nhà nước thì đương nhiên được hưởng tiền lương
và các chế độ phúc lợi khác. Do đó khi chính sách đổi mới thực hiện quan hệ hữu
cơ giữa nghĩa vụ đóng góp với quyền lợi hưởng thụ thì gặp nhiều khó khăn cả về
nhận thức và tổ chức thực hiện.
Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tập trung thực hiện có
hiệu quả nhiều biện pháp như: chủ động phối hợp với các ban, nghành chức năng
kịp thời xử lý các vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao
động tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế
mới. Kết hợp chặt chẽ đăng ký thu, nộp BHXH với việc cấp sổ BHXH và thực
hiện các chế độ BHXH. BHXH tỉnh đã tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy
có Chỉ thị 11 CT/TU( ngày 12/03/2007) và Chủ tịch UBND tỉnh có chỉ thị
15/CT-UBND ( ngày 8/6/2007) về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ
BHXH, tạo ra bước phát triển vững chắc cho sự nghiệp BHXH ở địa phương.
Đến cuối năm 2008 trên địa bàn có gần 17 vạn lao động tham gia BHXH khu
vực nhà nước chuyển biến khá, nếu năm đầu tiên thực hiện mở rộng đối tượng
theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP mới có 271 doanh nghiệp với 12.129 lao động
tham gia BHXH, thì đến năm 2008 có 1.527 đơn vị tham gia với số lao động
58.248 tham gia BHXH.
Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những vấn đề mấu chốt
của nghiệp vụ thu BHXH, là nội dung cơ bản của quản lý thu trong đó mở rộng,
phát triển đối tượng tham gia BHXH được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo hàng
năm của BHXH tỉnh Thanh Hóa, cho thấy năm1995 mới có 711 đơn vị sử dụng
lao động và số lao động tham gia BHXH là 83.723. Cùng với quá trình phát triển
kinh tế-xã hội của địa phương, số lao động tham gia và số thu BHXH cũng tăng
dần đặc biệt tăng đột biến từ năm 2003 và cơ cấu trong các lĩnh vực cũng thay
đổi.

Tình hình lao động tham gia BHXH tại Thanh Hóa (2003 – 2008)
Đơn vị: Người
Các năm
Loại hình
Năm
2003
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm
2008
Tổng số lao động
128.397 133.266 137.727 139.990 147.170 166.321
Trong đó:
- HCSN
66.604 68.627 70.426 70.609 72.217 74.227
- DNNN
38.236 34.993 28.869 20.550 18.360 17.112
- Xã, phường.
11.428 10.836 10.784 10.876 11.237 11.566
- NCL
3.368 4.584 5.340 6.333 7.758 8.111
- DNNQD
7.664 12.151 19.510 27.736 32.706 39.434
- DN FDI
615 960 758 818 1.245 1.467
- HTX
482 1.041 1.635 2.304 2.656 3.121
- Hộ SXKD
74 405 764 991 11.283
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các
năm từ 2003 – 2008)
Tình hình đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH (2003 – 2008)

Các năm
Loại hình
Năm 2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Tổng số đơn vị 3.308 3.592 4.025 4.356 4.929 5.234
Trong đó:
- HCSN 2.220 2.223 2.281 2.307 2.535 2.738
- DNNN 188 168 130 102 87 67
- Xã , phường 629 633 634 634 634 638
- NCL 48 155 158 146 188 198
- DNNQD 137 233 367 513 680 802
- DNFDI 2 3 5 6 11 18
- HTX 84 177 263 321 354 401
- Hộ SXKD 80 111 120 187 327 372
( Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các
năm từ 2003 – 2008)
Qua số liệu ở các biểu trên cho thấy đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng,
năm sau cao hơn năm trước cơ cấu các loại hình tham gia BHXH thay đổi doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh cả về số đơn vị và lao động trong khi đó
doanh nghiệp nhà nước giảm dần và khu vực hành chính sự nghiệp, đảng đoàn
thể nhìn chung ổn định, tuy có tăng, nhưng không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu

là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, quy mô sản xuất giảm, nhiều
doanh nghiệp phá sản. Đối với lực lượng lao động khu vực hành chính sự nghiệp
không giảm điều đó cho thấy việc thực hiện cải cách hành chính công còn hạn
chế, chưa phản ánh đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh giảm biên chế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Hai là: Quản lý tiền lương đóng BHXH
Tiền lương, tiền công trả cho người lao động là trách nhiệm của
người sử dụng lao động. Đối với công chức, viên chức làm việc trong khu vực
nhà nước do Nhà nước trả lương, người lao động làm việc ngoài khu vực nhà
nước do người sử dụng lao động quy định và tiền lương này được hạnh toán vào
giá thành sản phẩm. Trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định
của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương của cấp có
thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương không đúng
quy định, cơ quan BHXH từ chối thu BHXH yêu cầu đơn vị sử dụng lao động
thực hiện. BHXH tỉnh Thanh Hóa thường xuyên phối hợp với các sở ban nghành
để nắm vững phân cấp quản lý lao động, tiền lương làm cơ sở cho việc thống kê
phân loại xác định các mức thu tỷ lệ thu và phương thức thu của từng nhóm đối
tượng. Trên cơ sở nắm chắc tổng quỹ lương của từng đơn vị và tiền lương của
người lao động, nên trong những năm qua mặc dù Nhà nước thường xuyên thay
đổi chế độ tiền lương và đối tượng tham gia BHXH biến động lớn, nhưng việc
thu nộp BHXH được thực hiện không có sự
Đơn vị:Triệu đồng
Các năm
Loại hình
Năm 2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008

HCSN 669.208 688.939 806.750 1.120.470 1.372.993 1.454.231
DNNN 301.465 274.060 298.529 290.422 291.768 292.123
Khu vực ngoài
NN
90.229 128.320 213.576 389.330 529.025 613.475
Trong đó:
DNFDI 16.945 20.179 22.328 26.686 29.640 30.867
DNNQD 54.234 83.228 152.923 301.530 415.176 478.142
HTX 736 3.097 6.087 10.423 14.690 18.789
NCL 18.314 21.637 30.954 46.395 63.736 77.145
Hộ SXKD 179 1.284 4.296 5.783 8.532
Tổng quỹ lương đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ( 2003 – 2008 )
Đơn vị:%
Các năm
Loại hình
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
HCSN 63.07 63.13 61.17 62.24 62.58 62.89
DNNN 28.41 25.11 22.63 16.13 13.3 10.2

Khu vực ngoài NN 8.52 11.76 16.2 21.63 24.12 27.01
Trong đó:
DNFDI 1.59 1.8 1.69 1.48 1.35 1.12
DNNQD 5.11 7.6 11.6 16.75 18.9 21.12
HTX 0.07 0.28 0.46 0.58 0.67 0.80
NCL 1.75 2.06 2.35 2.58 2.94 3.01
Hộ SXKD 0.02 0.1 0.24 0.26 0.96
Tỷ trọng số thu BHXH trong các lĩnh vực
Chỉ tiêu
Thời kỳ
Tổng hệ số
( hệ số )
Tổng quỹ lương
( Tr.đ )
Số tiền đóng
BHXH ( Tr.đ )
Ghi chú
01/2003 – 9/2005
( 290.000 đ )
2.885.452,0 836.781 167.356
Thời điểm
09/2005
10/2005 – 9/2006
( 350.000 đ )
3.796.773,9 1.328.870 265.770
Thời điểm
09/2006
10/2006 – 12/2007
( 450.000 đ )
3.727.753,4 1.677.481 335.496

Thời điểm
12/2007
Từ 01/2008
( 540.000 đ )
3.654.251,9 1.973.295 394.659
Thời điểm
12/2008
Sự biến động tiền đóng BHXH qua các thời kỳ của nhóm đối tượng hưởng
lương từ ngân sách
( Bảng 2.4, 2.5, 2.6. nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác
BHXH các năm từ 2003 – 2008)
Qua các bảng trên ta thấy ở khối hành chính sự nghiệp số thu đóng vào
quỹ BHXH vẫn tăng đều qua các năm song tỷ trọng của nó trong quỹ BHXH
tương đối ổn định. Đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước số thu năm 2003 là
301, 465 tỷ đồng thì đến năm 2008 giảm chỉ còn 292,123 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ
trọng số thu BHXH lại giảm qua các năm từ 28,1% năm 2003 xuống còn 10,2%
năm 2008. Tổng thu BHXH từ khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh qua các năm
từ 90,229 tỷ năm 2003 lên 613,75 tỷ năm 2008, sự tăng này kéo theo sự tăng tỷ
trọng số thu BHXH từ 8,52% năm 2003 lên 27,01% năm 2008. Sự tăng lên này
là do sự tăng nhanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2003 số thu
BHXH từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới là 54,234 tỷ thì đến năm 2008
con số đó đã là 478,142 tỷ đồng thời tỷ trọng số thu BHXH cũng tăng nhanh từ
5,11% năm 2003, 11,6% năm 2005 và đến 21,12% năm 2008.
Ba là: Quản lý nguồn thu BHXH
Nguồn thu như trình bày ở trên được hình thành từ sự đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động và sự hổ trợ của Nhà nước. Sự hỗ
trợ của Nhà nước đóng BHXH cho người lao động bằng 15% tổng quỹ tiền
lương của đơn vị đối với cán bộ, công chức hành chính sự nghiệp. Việc quản lý
nguồn thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua đảm bảo
theo đúng quy định

Thực hiện nghiêm ngặt quy trình thu nộp BHXH: căn cứ vào danh sách
lao động và tổng quỹ tiền lương của đơn vị đã được đăng ký với cơ quan BHXH
trên cơ sở đó BHXH tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Việc thu nộp
BHXH thực hiện bằng chuyển khoản, trường hợp thu bằng tiền mặt thì chậm
nhất sau 3 ngày cơ quan BHXH nộp vào tài khoản đảm bảo đúng quy định.Với
phương thức thu nộp BHXH như vậy luôn đảm bảo an toàn, thuận tiện, quản lý
chặt chẽ được nguồn thu.
Thường xuyên phối hợp với hệ thống Kho bạc nhà nước và Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh để cập nhật số tiền
thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, định kỳ hằng
tháng cơ quan BHXH thực hiện Thông báo bằng văn bản tình hình lao động
tham gia và thu nộp BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH.
Kết quả thu BHXH trong các năm ( 2003 – 2008
Các năm
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Kế hoạch thu
( tỷ. đ )
262,0 268,0 352 450,5 612,0 714,4
Thực hiện
( tỷ. đ )
264,078 268,424 368,003 482,918 645,181 716,447
Tỷ lệ đạt (%) 100,8% 100,2% 104,5% 107,2% 105,4% 100,3%
( Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ
2003 – 2008)
Biểu số liệu trên cho thấy, số thu BHXH bắt buộc của Thanh Hóa liên tục
tăng, năm sau cao hơn năm trước và tăng đều từ năm 2004 đến năm 2008. Riêng
năm 2005 tăng đột biến từ 1,65% ( năm 2004 ) lên 16,7% năm 2008, cao nhât là
vào năm 2007 tăng 35,85%. Là do các nhân tố tác động chủ yếu, lao động tăng
12,5% tiền lương thực tế tăng 20,8% và tiền lương tối thiểu do Nhà nước điều

chỉnh tăng 66,7% tốc độ tăng trưởng bình quân 19,03%.
Bốn là: Giải quyết nợ đọng tiền đóng BHXH
Bên cạnh phát triển đối tượng tham gia, thực hiện tốt thu nộp, BHXH tỉnh
Thanh hóa còn thực hiện có hiệu quả việc thu nợ tiền đóng BHXH. Trước năm
2003, ở Thanh Hóa thường xuyên có số nợ BHXH của các đơn vị sử dụng lao
động bình quân 20 – 25 ngày lương. Điều đáng chú ý là không những các doanh
nghiệp ngoài nhà nước mà kể cả doanh nghiệp nhà nước và đơn vị hành chính,
sự nghiệp cũng nợ đọng BHXH. Từ năm 2003 trở đi, do áp dụng nhiều biện pháp
từ vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến tổ chức kiểm tra, thanh tra
liên nghành, kiến nghị xử lý đặc biệt vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng chính
quyền trong công tác BHXH được thể hiện rõ nét, nên nợ BHXH do chậm đóng
từng bước được thu hẹp, nhưng nợ đọng vẫn cao năm 2003 là 6,5 ngày; năm
2004 là 8,6 ngày; năm 2005 là 11,5 ngày và đến năm 2008 là 13 ngày, tương
đương với 27,3 tỷ đồng.
Tình hình giải quyết nợ tồn đọng BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa (2003 –
2008)
Các năm
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số nợ (tỷ.đ) 6,1 9,0 16,0 17,0 23,5 27,3
T.hiện thu nợ (tỷ.đ) 1,4 2,7 4,9 5,3 8,6 10,8
Tỷ lệ thu nợ (%) 23,0 30,0 30,6 31,2 36,6 38,8
(Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tình hình nợ đọng)
Thực trạng chi:
Từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một cơ quan thực hiện là
BHXH tỉnh Thanh Hóa.
Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn
( chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe ) và quản lý chi chế độ
BHXH dài hạn ( chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp )

Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 ( trước khi thực hiện
Luật BHXH ), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích
nộp BHXH của đơn sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các chế độ ngắn
hạn ở đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 ( từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành
), đơn vị sử dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH
để trực tiếp chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu
thiếu sẽ được cơ quan BHXH, cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán.
Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm
tập hợp các chứng từ ( như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra
viện, giấy khai sinh ) để quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ
BHXH cho người lao động.
Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế
do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới
là thực thanh, thực chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao
động chưa làm quen với việc quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ
sơ thủ tục để được cơ quan quản lý BHXH giải quyết xét thưởng BHXH. Tuy
nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức
của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ chế quản lý mới về quản lý
BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay BHXH tỉnh Thanh
Hóa đã được thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền phổ biến chỉ
đạo hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với
phân cấp quản lý thu BHXH. Hàng năm, đã có hàng ngàn người lao động được
nhận trợ cấp ốm đau, thai sản, và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân
32,392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2008 đã có 28. 567 lượt người ốm, với số
ngày nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng, 6.245 người
nghỉ hưởng thai sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền 25,879 tỷ
đồng, hàng ngàn lượt người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe với số tiền
là 4,314 tỷ đồng.
Kết quả chi trả hai chế độ BHXH ngắn hạn ( ốm đau, thai sản ) từ (2003 –
2007)

Đơn vị: Triệu đồng
Đơn vị Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Cấp tỉnh 43.111 4.451 4.446 7.085 9.184 10.118
Cấp huyện 13.828 14.352 16.342 26.167 31.263 32.322
Tổng 17.939 18.803 20.788 33.252 40.077 42.440
Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ
( 2003 – 2008)
Về quản lý chi các chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế
độ BHXH dài hạn do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên
tục tăng qua các năm. Tại thời điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng
BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694 người, đên quý I/2008 số đối
tượng này đã là 130.718 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ cấp tại các huyện
miền núi là 11,47% ở các huyện vùng biển 27,68% các huyện vùng trung du
16,14% các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh
phí chi trả cho các đối tượng ở các huyện miền núi chiếm 11,54% ở các huyện
ven biển 36,3% các thị xã thành phố 19.7% trên tổng kinh phí toàn tỉnh. Số còn
lại ở các huyện đồng băng, trung du.
Trước năm 1995, việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn
thông qua 630 Ban đại diện chi trả xã, thị trấn. Nguồn kinh phí để cấp phát chi

trả cho đối tượng chủ yếu do sở Tài chính – Vật giá cân đối từ ngân sách của
tỉnh. Chính vì vậy, việc chi trả rất chậm trễ và không kịp thời. Có thời kỳ do
không làm tốt công tác lập dự toán, quản lý đối tượng không chặt chẽ, nhất là các
đối tượng đã chết hoặc hết hạn thưởng nên tình trạng tham ô, lạm dụng nguồn
quỹ đã xảy ra gây bất bình trong xã hội.
Từ ngày 01/9/1995, do cơ chế quản lý BHXH thay đổi, nguồn kinh phí để
chi trả các chế độ BHXH được BHXH Việt Nam đảm bảo đầy đủ kịp thời, bên
cạnh đó BHXH tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều đổi mới trong tổ chức quản lý chỉ
đạo kiểm tra giám sát đặc biệt là chỉ đạo BHXH cấp huyện linh hoạt trong việc
áp dụng các hình thức chi trả trực tiếp, gián tiếp, tích cực ứng dụng công nghệ
thông tin trong việc lập danh sách chi trả thực hiện tốt công tác lập dự toán, công
tác quản lý đối tượng quản lý kinh phí, đến khâu vận chuyển tiền mặt tư Ngân
hàng Nông nghiệp và PTNT về địa điểm chi trả. Kịp thời phát triển và xử lý các
sai phạm trong quản lý đối tượng và chi trả BHXH như khai tăng tuổi đời và thời
gian công tác để hưởng BHXH, cắt giảm không kịp thời, đối tượng ký nhận thay
đổi nhận hộ quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cấp quản lý trong
công tác quản lý đối tượng, kinh phí BHXH nên công tác chi trả các chế độ
BHXH dài hạn đã đạt được nhiều thành thành công quan trọng. Lương hưu và
trợ cấp BHXH hàng tháng của các đối tượng được chi trả kịp thời, an toàn đầy
đủ, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đơn vị: Người
Chỉ tiêu
Năm
Tổng số người
Trong đó chia ra
NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo
2003 115.618 102.843 12.775
2004 117.395 101.552 15.843
2005 123.036 99.759 23.277
2006 126.752 97.888 28.864

2007 129.635 96.317 33.318
2008 132.475 94.587 38.789
Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn từ năm ( 2003 -
2008 )
Đơn vị: Triệu
đồng
Chỉ tiêu Tổng số NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo

×