Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.28 MB, 95 trang )










LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội











mở đầu




1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm


góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bị
ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc
chết. Chính sách BHXH mà trong đó thu, chi BHXH là những hoạt động chủ yếu đã
được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, trải qua hơn 50 năm qua; trong quá trình thực hiện, pháp luật BHXH không
ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Mở
đầu là Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 của Chính phủ ấn định những điều kiện và
mức được hưởng lương hưu cho công chức khi hết tuổi lao động. Từ đó đến nay, Đảng
và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách cụ thể tổ chức thực hiện thu, chi
BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và chủ sử dụng lao
động. Cụ thể là Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà
nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ). Về cơ bản theo nghị định này, các qui định về thu, chi
BHXH và điều kiện tham gia, điều kiện hưởng BHXH được áp dụng đến năm 1994.
Nhìn chung trong giai đoạn này, hoạt động thu, chi BHXH diễn ra trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp. Những qui định về thời gian, mức đóng BHXH; điều kiện
và mức được hưởng của từng chế độ mới chỉ quan tâm đến quyền lợi của người lao
động, chưa tính đến khả năng cân bằng thu, chi BHXH cũng như việc hình thành quỹ
BHXH tập trung, hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước. ở thời kỳ này hoạt động
thu BHXH còn rất hạn chế, vì vậy kinh phí để chi trả các chế độ BHXH cho người lao
động phần lớn do ngân sách nhà nước bao cấp, năm cao nhất lên đến 98% (năm 1997).
Còn về tổ chức quản lý hoạt động BHXH lại phân tán do nhiều cơ quan khác nhau đảm
nhận nên hiệu quả quản lý thấp.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), thực hiện đường lối
đổi mới, nền kinh tế nước ta đã bắt đầu quá trình chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy nhiều
quy định trong chính sách BHXH nói chung và trong hoạt động thu, chi BHXH nói
riêng đã ban hành trước đây không còn phù hợp. Để khắc phục tình trạng này và cụ thể



hóa các quy định về BHXH trong Bộ luật Lao động, Chính phủ đã ban hành Điều lệ
BHXH áp dụng đối với công chức, viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại
hình BHXH bắt buộc kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số
45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội và công an nhân dân. Đây là sự thay đổi lớn và hết
sức quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện chính sách BHXH nói chung và
pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng ở nước ta để phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này trong thời gian qua đã thực sự đem
lại hiệu quả và được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá cao.
Việc ban hành chính sách và tổ chức quản lý hoạt động thu, chi BHXH ở nước
ta hơn 50 năm qua và nhất là trong thời kỳ đổi mới đã có tác dụng tích cực làm cho đội
ngũ cán bộ, công chức, công nhân viên, những người phục vụ trong lực lượng vũ trang
gắn bó với cách mạng, khuyến khích họ hăng say lao động sản xuất, chiến đấu, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nhờ thành công trong
chính sách BHXH nói chung và trong hoạt động quản lý thu, chi BHXH nói riêng vẫn
còn những hạn chế cần sớm được khắc phục, nhất là về mức đóng, mức hưởng để sao
cho quỹ BHXH phải đảm bảo cân đối thu, thi và có điều kiện để đầu tư tăng trưởng.
Nhằm góp phần khắc phục những hạn chế trên, tôi đã chọn đề tài: "Hoàn thiện
pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội" để viết luận văn tốt nghiệp cao học
luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu thực trạng pháp luật về quản lý thu, chi BHXH ở nước ta qua
từng thời kỳ để rút ra những mặt được, mặt chưa được, nguyên nhân và đề xuất giải
pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý thu, chi BHXH ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Luận văn lấy quá trình hình thành và không ngừng đổi mới các quy định của
pháp luật về quản lý thu, chi BHXH ở nước ta làm đối tượng nghiên cứu.


- Phạm vi nghiên cứu: Thu BHXH, xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ BHXH và chi

BHXH là những hoạt động chính của quá trình thực hiện chế độ chính sách BHXH cho
người lao động tham gia và hưởng BHXH. Trong phạm vi luận văn này chỉ tập trung
nghiên cứu pháp luật về quản lý hoạt động thu, chi BHXH.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật lịch sử và duy vật
biện chứng.
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, điều tra xã hội học và phương
pháp so sánh…
5. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về hoạt động
BHXH nói chung và hoạt động thu, chi BHXH nói riêng.
- Làm rõ thực trạng hoạt động thu, chi BHXH ở nước ta trong thời gian qua,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi
BHXH ở nước ta trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm xã hội và pháp luật về quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội ở nước ta đến năm 2010.











Chương 1
Những vấn đề chung về Bảo hiểm xã hội
và pháp luật về quản lý Thu, Chi Bảo hiểm xã hội

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Tính tất yếu của bảo hiểm xã hội
Cũng như các chính sách kinh tế - xã hội khác, sự hình thành chính sách xã hội
bắt nguồn từ những yêu cầu bức xúc do thực tiễn đặt ra. Thời cổ đại, để đảm bảo cuộc
sống và chống chọi với thiên nhiên, con người thường phải tự lực là chính và có thêm
sự giúp đỡ, tương trợ nhau trong những lúc khó khăn, rủi ro. Tuy nhiên, sự tương trợ lúc
này chỉ mang tính tự phát theo bản năng và diễn ra trong một cộng đồng nhỏ, thường là
một gia đình hoặc một nhóm gia đình.
Xã hội loài người phát triển chuyển sang giai đoạn có phân công lao động, sản
xuất lúc này phát triển hơn, quan hệ tác động lẫn nhau giữa các cá nhân, giữa các cộng
đồng cũng phát triển theo. Tôn giáo bắt đầu xuất hiện, các thánh địa, nhà thờ, trại bảo
dưỡng được thiết lập nhằm đạt được các mục đích riêng của từng tổ chức, nhưng trong
đó luôn có mục đích chung là từ thiện, giúp đỡ của các tín đồ, thành viên khi gặp khó
khăn, rủi ro.
Hình thức tương trợ lẫn nhau thời kỳ này đã mang tính tổ chức và có những quy
định cụ thể hơn. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVIII, lực
lượng sản xuất đã bắt đầu xuất hiện những yếu tố phát triển của một ngành công nghiệp,
lúc này hàng loạt người dân ở các vùng nông thôn vì các lý do khác nhau đã di cư ra
thành thị để kiếm việc làm và dần trở thành công nhân. Với mục đích bảo vệ quyền lợi
của người lao động, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, tình đoàn kết tương thân
giữa những người làm thuê nảy nở dần. ở một số nước Châu Âu những quỹ tương trợ đã
được thành lập, tại Anh năm 1793 có Hội bằng hữu giúp đỡ hội viên khi ốm đau,
thương tật trong quá trình lao động sản xuất.



Đến thời kỳ Cách mạng công nghiệp, lúc này số công nhân công nghiệp đông
dần lên, giai cấp công nhân công nghiệp gồm những nông dân thoát ly từ nông nghiệp,
nông thôn, từ sản xuất tự cung tự cấp, nay trở thành người làm công ăn lương, chỉ dựa
vào tiền lương làm nguồn sống chủ yếu, có việc làm mới có lương để sống, cho dù đó
chỉ là những đồng lương ít ỏi, nếu ốm đau, tai nạn, mất việc làm , thì cuộc sống của họ
lập tức bị đe dọa.
Nhằm giảm thiểu nỗi lo âu đó, nhiều hình thức trợ giúp xã hội đã nối tiếp nhau
ra đời. Bên cạnh những Hội tương tế còn có những Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến
khích thành lập. Những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người
lao động thuộc quyền quản lý khi bị ốm đau, tai nạn lao động, mất việc làm Những tổ
chức BHXH của tư nhân, bảo hiểm sinh mạng và chi phí tang lễ cũng xuất hiện ngày càng
nhiều. Giai cấp công nhân càng đông đảo, nhiều sức ép đòi hỏi phải bảo vệ quyền lợi của
người lao động đã tác động ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, xã hội của các quốc gia,
buộc chính phủ các nước, nhất là các nước công nghiệp, không thể không quan tâm đến
tình cảm của người lao động, phải từng bước cải thiện điều kiện lao động, rút ngắn thời
gian làm việc trong ngày, có chế độ và hình thức thích hợp hơn để tỏ ra có chăm sóc
đến người làm công ăn lương. Điển hình, năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark,
nhiều bang của nước Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ BHXH ốm đau do
người công nhân phải đóng tiền để được trợ giúp khi rủi ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt
buộc bắt nguồn từ đây và người được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm.
Sáng kiến về đóng phí bảo hiểm xã hội của chính quyền Bismark đã được nhiều
nước Châu Âu tiếp nhận từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX, sau đó liên tiếp các nước Châu
Mỹ La tinh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Canada đều áp dụng.
Trên cơ sở thực tiễn áp dụng các cơ chế đa dạng bảo vệ người lao động, giảm
thiểu những khó khăn, rủi ro, tháng 4/1952, Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 về an toàn xã hội (quy phạm tối thiểu),
trong đó BHXH là một cơ chế chủ yếu.
1.1.2. Khái niệm bảo hiểm xã hội



Trong quá trình hình thành chính sách BHXH, chúng ta nhận thấy, lúc khởi đầu,
BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, dần dần do nhu
cầu thực tiễn, các quy định, chính sách BHXH lần lượt ra đời ở các quốc gia khác nhau.
Việc ra đời các luật BHXH, một mặt nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, nhưng
mặt khác, nó cũng mang lại lợi ích cho giới chủ. Chính lợi ích hai mặt này đã góp phần
không nhỏ để chính sách BHXH nhanh chóng được thực hiện ở các quốc gia. Cho đến
nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH. ở
nước ta, căn cứ vào tính chất, mục đích của BHXH, Từ điển bách khoa Việt Nam đã
định nghĩa:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi
già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm
bảo đảm an toàn cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo
đảm an toàn xã hội.
Qua khái niệm về BHXH, ta thấy nổi lên hai điểm:
- BHXH được thực hiện theo quy định của pháp luật, nếu trước kia BHXH được
hình thành một cách tự phát, thì sau này sự tự phát đó đã được thay thế bằng những
chính sách, những quy định cụ thể của mỗi nước, những chính sách, những quy định
này là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị của mỗi nước ở từng thời kỳ.
- Nguồn tài chính để thực hiện BHXH là sự đóng góp bắt buộc của người được
bảo hiểm, người sử dụng lao động và sự bảo trợ của Nhà nước. Các nguồn hình thành
này là hết sức quan trọng, nếu sự đóng góp bắt buộc của người lao động và chủ sử dụng
lao động tạo nên quỹ BHXH thì sự bảo trợ của Nhà nước trong các trường hợp tỷ lệ lạm
phát lên cao, sức mua của đồng tiền bị giảm sút cũng không kém phần quan trọng để
bảo toàn quỹ.
1.1.3. Chức năng của bảo hiểm xã hội

Là một chính sách xã hội quan trọng, BHXH có những chức năng sau:


- Một là, đảm bảo ổn định cuộc sống vật chất cho người lao động và gia đình
khi họ mất hoặc giảm khả năng lao động. Một thực tế không thể tránh khỏi của phần lớn
người lao động trong quá trình làm việc là những rủi ro do các nguyên nhân chủ quan
và khách quan khác nhau, làm cho thu nhập bị mất hoặc giảm sút. Trong các trường hợp
này nếu không có sự bù đắp từ quỹ BHXH cho phần thu nhập bị mất hoặc giảm sút thì
điều kiện sống của người lao động và gia đình họ sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Hai là, phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham
gia BHXH, quá trình này diễn ra theo hai cách:
+ Thứ nhất là phân phối lại thu nhập theo chiều ngang giữa những người lao
động trẻ, khỏe và những người lao động già yếu; giữa người lao động đang làm việc với
những người lao động đã nghỉ hưu; giữa những người độc thân và những người lao động
có thân nhân phải nuôi dưỡng; giữa một bên là người lao động thường xuyên đóng
BHXH nhưng chưa gặp rủi ro nên chưa hưởng, một bên là những người có đóng BHXH,
gặp rủi ro như ốm đau; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… được trợ cấp trước, lúc này số
tiền đóng BHXH của mọi người được chuyển giao cho một số ít người gặp rủi ro.
+ Thứ hai là sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc, quá trình phân phối này
được thực hiện giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. Thông thường
những người có thu nhập cao mức đóng phí BHXH của họ cũng cao, trong khi đó, điều
kiện ăn uống, sinh hoạt của đối tượng này thường đầy đủ hơn những người có thu nhập
thấp, do vậy họ ít bị ốm đau hoặc các rủi ro khác so với những người có thu nhập thấp.
Sự chuyển giao tiền và sức mua của tầng lớp có thu nhập cao sang tầng lớp có thu nhập
thấp thông qua phân phối lại theo chiều dọc là một mục tiêu quan trọng của chính sách
kinh tế - xã hội hiện đại.
- Thứ ba là gắn lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động với Nhà
nước, điều này càng đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vì trên thực tế, nếu người lao động được bảo hiểm trước
những rủi ro có thể xảy ra, họ sẽ yên tâm trong lao động, sản xuất, nâng cao năng suất,

chất lượng sản phẩm cho xã hội. Ngược lại, người sử dụng lao động có phải bỏ ra một
khoản phí đóng BHXH cho người lao động, thì bù lại họ nhận được những sản phẩm có


chất lượng cao, giá thành rẻ từ người lao động. Mặt khác, nếu không có sự can thiệp,
quản lý của Nhà nước thông qua chính sách BHXH, thì trong nhiều trường hợp, người
lao động bị đẩy ra khỏi cơ quan, doanh nghiệp mà không nhận được một sự bảo vệ
quyền lợi nào. Vì vậy, thông qua chính sách BHXH, mối quan hệ người sử dụng lao
động, người lao động và Nhà nước càng thêm chặt chẽ, gắn bó hơn.
- Thứ tư là đảm bảo an toàn xã hội, gắn bó người lao động với xã hội. Dưới bất
cứ một xã hội nào cũng vậy, người lao động khó tránh khỏi những rủi ro trong quá trình
lao động và chính lúc này, nguồn thu nhập của họ bị mất hoặc bị giảm sút, cần phải
được sự trợ giúp. Nếu trước đây, sự trợ giúp này mang tính tự phát, thì khi xã hội ngày
càng phát triển, việc trợ giúp này đã dần được cụ thể hóa bằng các chế độ, chính sách cụ
thể và do một hay một số tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm, nhằm đảm bảo sự an toàn
cho người lao động và gia đình họ. Chính sự đảm bảo này đã gắn bó người lao động với
xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của người lao động với xã hội.
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm xã hội
- BHXH hoạt động theo nguyên tắc đóng, hưởng, cộng đồng chia sẻ rủi ro; lấy
số đông, bù số ít, lấy của người đang làm việc trả cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH.
Đối với nước ta, khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị
trường thì nguyên tắc này là hết sức cần thiết, vì chỉ có như vậy mới thực sự hình thành
được quỹ BHXH, giảm "gánh nặng" cho ngân sách nhà nước, đồng thời đảm bảo sự
công bằng giữa những người lao động tham gia và hưởng BHXH.
- Mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng thấp
nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người hưởng BHXH. Việc quy định
mức hưởng phải thấp hơn tiền lương là nguyên tắc bắt buộc của tất cả các nước, song
thấp hơn bao nhiều còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi
nước ở các thời kỳ khác nhau. Nước ta quy định không được thấp hơn mức lương tối
thiểu ở từng thời kỳ.

- Quỹ BHXH phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính
sách BHXH của các nước và càng đặc biệt nổi lên trong điều kiện của nước ta, bởi vì
nếu không thực hiện nguyên tắc này, quỹ BHXH lại nhanh chóng trở về thời kỳ trước


năm 1995, nghĩa là chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Nguyên tắc tự chủ tài chính mặc dù hết
sức quan trọng, nhưng cũng chỉ mang tương đối và khi áp dụng thì bị giới hạn trong hai
quy tắc chủ yếu:
+ Thứ nhất: Các nguồn quỹ BHXH chỉ được sử dụng vào những mục đích do
luật định như: chi các loại trợ cấp do luật định, phòng ngừa rủi ro và những chi phí quản
lý cần thiết khác, nghĩa là tránh bị phân tán, sử dụng vào những mục đích khác, dù các
mục đích đó có chính đáng hoặc cấp bách đến đâu. Quy tắc này có tính mệnh lệnh,
không có gì phải bàn cãi.
+ Thứ hai: Các nguồn dự trữ của quỹ phải được đưa vào đầu tư để bảo toàn giá
trị và tăng trưởng quỹ. Việc đầu tư của quỹ phải đảm bảo các yêu cầu sau:
* An toàn: Mục đích của quỹ BHXH là đảm bảo chi trả lương hưu và trợ cấp
BHXH cho người lao động. Vì vậy, quỹ BHXH dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải
đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn không phải chỉ là bảo toàn được
vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn được cả giá trị thực tế của đầu tư, điều
này càng đặc biệt quan trọng trong các thời điểm có lạm phát, giá sinh hoạt tăng lên
khiến sức mua của đồng tiền bị giảm sút và phải điều chỉnh lại lương hưu. Nói cách
khác, để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH thì phải lựa chọn lĩnh vực đầu tư để giảm
thiểu rủi ro.
* Hiệu quả: Hiệu quả của đầu tư (lãi đầu tư) là sự tăng lên toàn bộ giá trị đầu tư
được tính trong một giai đoạn nhất định, thường là một năm. Lãi đầu tư làm tăng thu
cho quỹ BHXH, đồng thời cho phép hạ tỷ lệ đóng góp hoặc ít nhất cũng không làm tăng
tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
* Khả năng thanh toán, hay tính lưu chuyển của vốn: yêu cầu này trực tiếp liên
quan đến dự kiến lưu chuyển tiền mặt trong thu, chi của mỗi loại chế độ BHXH. Bất kỳ
một vốn đầu tư nào từ nguồn dự trữ của quỹ BHXH, đều phải sẵn sàng đổi thành tiền

mặt và có thể rút được tiền một cách nhanh chóng, tránh cho những khoản đầu tư vướng
vào những vấn đề tồn khoản.


* Có ích cho kinh tế và xã hội, là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã
hội, do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho dân cư, phải
ra sức cải thiện chất lượng chung cho cuộc sống của đất nước.
1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế
thị trường
Như phần trên ta đã khẳng định, BHXH là một chính sách xã hội lớn nhằm góp
phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường
hợp bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, BHXH có một
vai trò hết sức quan trọng đối với mọi người lao động ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Với các nước đã có nền kinh tế phát triển thì chính sách an sinh xã hội nói
chung và pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng ra đời và luôn gắn liền với nền
kinh tế thị trường. Vì vậy, một trong những nguyên tắc cơ bản mà họ luôn phải tuân thủ
là mọi người lao động có thu nhập đều bắt buộc phải tham gia BHXH; mức hưởng
BHXH được tính toán dựa trên cơ sở của mức đóng BHXH sao cho quỹ BHXH phải
đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH cho người lao động, đồng thời còn
có phần quỹ "nhàn rỗi" để đầu tư tăng trưởng quỹ. Việc can thiệp của Chính phủ vào
quỹ BHXH là rất hạn chế, thường chỉ trong các trường hợp đặc biệt như tỷ lệ lạm phát
quá cao, làm cho sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
Đối với nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới cơ chế chính sách
BHXH theo nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng BHXH lại càng trở lên cấp
thiết đã làm nổi bật vai trò quan trọng của BHXH trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta
có thể thấy được điều này qua thực tiễn: Thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa, còn thực
chất thì không, mọi khoản kinh phí chi trả BHXH đều do ngân sách nhà nước bao cấp,
do vậy hiện tượng chậm lương hưu của đối tượng từ 2-3 tháng, thậm chí là lâu hơn vẫn

thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng đến đời sống của đối tượng đã khó khăn này càng khó
khăn hơn. Từ năm 1995, cơ chế, chính sách BHXH có sự thay đổi cơ bản, mà một trong
những thay đổi ấy là người lao động chỉ được hưởng BHXH khi bản thân họ và đơn vị sử


dụng họ phải đóng BHXH theo tỷ lệ do pháp luật quy định (người lao động đóng bằng
5% tiền lương tháng còn người sử dụng lao động đóng bằng 15% quỹ tiền lương) với
qui định này từ năm 1995 đến năm 2003 quỹ BHXH đã có số thu trên 42.000 tỷ đồng để
đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời cho đối tượng do quỹ BHXH đảm bảo. Đến hết năm
2003 quỹ BHXH vẫn còn số dư trên 34.000 tỷ đồng để đầu tư bảo toàn, tăng trưởng
quỹ. Việc hình thành quỹ BHXH trên thực tế và với số thu ngày càng tăng, đã góp phần
giảm đáng kể "gánh nặng" cho ngân sách nhà nước trong việc bao cấp chi trả các chế độ
BHXH, để có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội cần thiết khác.
Ngoài ra, hiện nay Chính phủ đang đẩy mạnh quá trình đổi mới sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, giao khoán, bán, cho thuê doanh
nghiệp… thì hiện tượng người lao động dôi dư, bị mất việc làm là điều không tránh
khỏi, thậm chí còn là một số lượng lớn. Trong điều kiện như vậy, nếu không có BHXH
thì người lao động sẽ bị đẩy ra khỏi nơi làm việc mà không được đảm bảo về quyền lợi.
Chỉ qua hai ví dụ trên chúng ta cũng đã làm rõ vai trò quan trọng của BHXH
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
1.3. Khái quát về pháp luật quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH đã được hình thành và tổ chức thực hiện ở nước ta ngay từ
những ngày đầu thành lập nước. Tuy nhiên, trong những năm đầu, chính sách BHXH
mới chỉ giải quyết một số các yêu cầu cụ thể cấp thiết chứ chưa thực sự là một hệ thống
chính sách đồng bộ và trong điều kiện này thì pháp luật về thu, chi BHXH cũng mới chỉ
được quy định trong một số văn bản chẳng hạn theo Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/6/1946
về việc cấp hưu bổng thì từ 1/1/1946 công chức phải đóng lưu niễn (phí bảo hiểm hưu
trí) bằng 6-10% tiền lương và từ năm 1947 bằng 10%, Nhà nước hỗ trợ thêm bằng 7-

10% so với tổng quỹ lương công chức.
Năm 1961, Điều lệ tạm thời về chế độ BHXH được ban hành và cũng từ đây
chính sách BHXH của nước ta nói chung và pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói


riêng mới được thực hiện một cách tương đối đầy đủ và đồng bộ với tư cách là một hệ
thống chính sách. Thời điểm này Điều lệ quy định chỉ cơ quan, xí nghiệp, công trường,
lâm trường (tức chỉ có chủ sử dụng lao động) nộp BHXH bằng 4,7% so với tổng quỹ
tiền lương, còn người lao động không phải đóng BHXH [35]. Mức nộp này kéo dài đến
năm 1986, sau đó ngày 30/6/1986 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành
Quyết định số 181/HĐBT quy định kinh phí trích nộp BHXH do Tổng Liên đoàn Lao
động thu là 5% để chi trả cho các chế độ BHXH ngắn hạn là ốm đau, thai sản và tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, còn số thu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản
lý là 10% để chi trả cho các chế độ BHXH dài hạn là hưu trí, tử tuất và mất sức lao
động (trong số này để lại 2% cho cơ sở làm trợ cấp khó khăn cho công nhân viên chức).
Từ năm 1993 Chính phủ xác định rõ quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động, trong đó người lao động là 5% và người sử
dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương. Quy định này hiện vẫn đang được thực
hiện [29], [30].
Trên đây là một số nét khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật thu
BHXH, còn về chi BHXH, Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH quy định chi cho các
chế độ sau:
- Trợ cấp ốm đau;
- Trợ cấp thai sản;
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp mất sức lao động;
- Trợ cấp hưu trí;
- Trợ cấp chôn cất và trợ cấp vì mất người chủ gia đình (tiền tuất).
Các chế độ trợ cấp này tùy vào điều kiện cụ thể, đối tượng sẽ được hưởng các
mức khác nhau theo quy định của pháp luật. Các chế độ trên được thực hiện cho đến

năm 1994, từ năm 1995 Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số
12/CP ngày 26/1/1995 quy định lại chỉ còn 5 chế độ, chế độ mất sức lao động không
còn thực hiện nữa.


1.3.2. Các bộ phận cấu thành của pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã
hội
Thu, chi BHXH là những hoạt động chủ yếu, diễn ra thường xuyên của quá
trình thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động tham gia và thụ hưởng
BHXH. Cả hai hoạt động này đều liên quan trực tiếp đến nguồn thu và khả năng đáp
ứng chi trả các chế độ BHXH của quỹ và điều này đã được pháp luật quy định rõ:
- Về quản lý thu BHXH, không phải ngẫu nhiên mà các nhà hoạch định, xây
dựng chính sách BHXH định ra một tỷ lệ bất kỳ mà phải dựa trên các căn cứ pháp luật,
trong đó có các căn cứ chủ yếu sau:
- Các chế độ và mức hưởng tối đa cho từng chế độ BHXH đã được Chính phủ
quy định;
- Giá trị thực tế của mức tiền lương tối thiểu ở các thời kỳ khác nhau;
- Số người tham gia BHXH và dự kiến số tăng lên hàng năm.
Trên cơ sở đó, các nhà hoạch định chính sách sẽ đề xuất tỷ lệ thu cụ thể để hình
thành quỹ BHXH theo cơ cấu sau:
+ Phần thu của người sử dụng lao động;
+ Phần thu của người lao động;
+ Phần Nhà nước đóng góp, hỗ trợ thêm;
+ Phần thu khác.
Đây là cơ cấu hiện tại, còn những năm trước đây cơ cấu này không phải lúc nào
cũng có đủ các nội dung trên. Chẳng hạn, có thời kỳ người lao động không phải đóng
BHXH, lại có thời kỳ người sử dụng lao động không phải đóng BHXH. Như vậy cơ cấu
này không phải là cố định mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước
qua từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì các nội
dung trong cơ cấu quỹ BHXH như trên là không thể thiếu được, chỉ có điều tỷ lệ đóng góp

của từng bên tham gia có thể có sự thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ. Tiếp đến để đảm
bảo các đối tượng tham gia đóng góp theo đúng tỷ lệ đã quy định thì pháp luật về quản lý


thu BHXH còn phải đưa ra các quy định cụ thể để buộc các chủ thể tham gia phải thi
hành nghĩa vụ đóng BHXH theo quy định.
Về quản lý chi BHXH: Trong quá trình hoạch định chính sách thì các chế độ,
điều kiện và tỷ lệ được hưởng thường được xác định trước và cũng như pháp luật về
quản lý thu BHXH; chế độ được hưởng, tỷ lệ hưởng cũng không thể tùy tiện định ra mà
phải dựa trên các căn cứ pháp luật. Các căn cứ đó là:
- Các nhu cầu vật chất tối thiểu để người lao động duy trì một cuộc sống bình
thường, khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập vì một lý do nào đó (căn cứ này thường được
lấy bằng mức lương tối thiểu ở từng thời kỳ).
- Những rủi ro chính mà người lao động thường mắc phải trong quá trình làm
việc.
- Căn cứ vào đặc thù riêng của người lao động phân theo giới tính và tuổi thọ
bình quân của người dân.
Căn cứ vào các nhu cầu trên và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước qua từng thời kỳ, các nhà hoạch định xây dựng chính sách sẽ định ra từng chế độ
BHXH cụ thể với những điều kiện được hưởng cũng như tỷ lệ hưởng phù hợp.
Về cơ bản, cơ cấu chi BHXH của nước ta nhìn chung là ổn định qua các thời
kỳ, chỉ trừ những năm từ 1961 (năm trước khi Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH có
hiệu lực thi hành) trở về trước do điều kiện kinh tế quá khó khăn, đối tượng tham gia
còn ít nên các chế độ được hưởng mới chỉ tập trung vào hưu trí, còn các chế độ khác
chưa có điều kiện để thực hiện. Hiện tại cơ cấu chi BHXH gồm:
- Chi trả chế độ ốm đau;
- Chi trả chế độ thai sản;
- Chi trả chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp;
- Chi trả tiền tuất;
- Chi trả lương hưu;

- Chi trả mất sức lao động.


Từ năm 2002 còn có thêm chi nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe và chi khám
chữa bệnh cho các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (BHYT). Pháp luật cũng quy định
quỹ BHXH chỉ phải đảm bảo chi trả các chế độ trên cho những đối tượng hưởng lương
hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1995 trở đi, còn ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguồn
để chi trả cho các đối tượng đã nghỉ làm việc để hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH
từ năm 1994 trở về trước. Như vậy, trong cơ cấu nguồn kinh phí để chi trả BHXH có
hai phần: Phần của ngân sách nhà nước và phần của quỹ BHXH.
1.3.3 Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH nói chung và pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng
ban hành trong thời gian qua, về cơ bản đã giải quyết được các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người lao động tham gia và hưởng BHXH, phù hợp
với tình hình kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước qua từng thời kỳ.
Đối với nước ta, chính sách BHXH được hình thành và thực thi trong những
điều kiện kinh tế - xã hội hết sức khó khăn. Vì vậy, các quy định của pháp luật về đảm
bảo tổ chức thực hiện chính sách BHXH ở thời kỳ đầu thường chỉ là giải quyết được
một hoặc một số ít các chế độ BHXH chứ chưa thể có một hệ thống chính sách đồng bộ
được. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đã một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, nên ở thời kỳ này chính sách BHXH nói chung và pháp
luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng cũng được hoạch định, xây dựng theo cơ chế
này. Các quy định của pháp luật về quản lý thu, chi BHXH một khi không được hoạch
định và xây dựng cho đúng với quy luật của nó, tức là phải đảm bảo lấy thu bù chi và có
phần dư để đầu tư tăng trưởng, tất yếu sẽ dẫn đến những khó khăn, hạn chế trong khâu
tổ chức thực hiện.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật về thu, chi BHXH ở thời kỳ này đã
đóng vai trò quan trọng đối với việc ổn định đời sống của công nhân, viên chức và gia
đình họ khi gặp rủi ro; đảm bảo an toàn xã hội. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển đổi từ
cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường thì chính sách BHXH nói chung và

pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, không
còn phù hợp, thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau:


- Đối tượng áp dụng BHXH còn hạn hẹp; đến trước thời điểm 1993 mới chỉ có
2,6 triệu công nhân viên chức thuộc khu vực Nhà nước được hưởng chính sách BHXH.
Còn khoản trên 2 triệu lao động làm công, ăn lương trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hàng chục triệu lao động là xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp chưa được tham gia và hưởng chính sách BHXH.
- Mức đóng BHXH còn thấp, mặt khác việc tuân thủ quy định của pháp luật về
thu BHXH chưa nghiêm, nên quỹ BHXH chưa đủ chi cho các chế độ BHXH. Kinh phí
chi trả BHXH hàng năm chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp. Theo qui định hàng tháng
các cơ quan, đơn vị đóng 15% tổng quỹ tiền lương để thực hiện BHXH, trong đó phần
Nhà nước thu theo kế hoạch là 8%, còn 2% để lại cơ sở để trợ cấp khó khăn cho người
lao động. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thu 5% để chi cho 3 chế độ ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Quy định là vậy, nhưng do việc tổ chức thu
phân tán, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài nên trên
thực tế số thu được là rất ít. Số chi BHXH do ngân sách nhà nước phải cấp bù ngày
càng tăng, thường là trên 70%.
- Chính sách BHXH làm thay cả các chính sách xã hội khác như: chính sách ưu
đãi những người tham gia kháng chiến; chính sách về kế hoạch hóa gia đình; tinh giảm
biên chế; lấy thời gian công tác quy đổi để hưởng BHXH, trước khi về hưu được nâng
lương; tỷ lệ hưởng BHXH cao so với mức đóng…
- Trợ cấp ốm đau trả thay tiền lương không phụ thuộc vào thời gian nghỉ ốm dài
hay ngắn và không phân biệt giữa những người làm việc lâu năm với người làm việc ít
năm.
- Trợ cấp thai sản được hưởng chung là 6 tháng không còn phù hợp với tình
hình sử dụng lao động nữ, đặc biệt là những đơn vị sử dụng nhiều lao động nữ.
- Chi trả trợ cấp hưu trí, mất sức lao động xuất hiện nhiều bất cập. Chẳng hạn
như: mức trợ cấp thay tiền lương khi nghỉ hưu thấp, không đảm bảo cuộc sống của

người nghỉ hưu. 40% số người về hưu có mức lương hưu ngang với mức lương tối
thiểu. Việc giảm tuổi đời, giảm số năm công tác để hưởng chế độ hưu trí đã dẫn đến độ
dài bình quân nghỉ hưu dài hơn độ dài làm việc. Qua khảo sát của Bộ Lao động -


Thương binh và Xã hội, trong 950.000 người hưởng hưu ở thời điểm 1992 có 80% chưa
hết tuổi lao động, 10% dưới 45 tuổi; thậm chí nhiều người về hưu ở độ tuổi 37, 38.
Trong 359.000 người nghỉ mất sức lao động thì dưới 10% là thực sự ốm đau, mất sức,
số còn lại vẫn còn khả năng lao động bình thường [24].
Trước những hạn chế trên, nếu chính sách BHXH nói chung và pháp luật về
quản lý thu, chi BHXH nói riêng không được sửa đổi, bổ sung thì ngân sách nhà nước
cũng sẽ không còn khả năng để tiếp tục chi trả cho các chế độ BHXH nữa. Để khắc
phục các hạn chế trên, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/CP quy
định tạm thời chế độ BHXH, đây có thể được coi là bước chuyển lớn nhất trong chính
sách BHXH để phù hợp với nền kinh tế thị trường, nét đổi mới cơ bản ở đây là Chính
phủ đã quy định rõ người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng BHXH mới được
hưởng quyền lợi BHXH. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng để hình thành quỹ
BHXH tập trung, hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước, có khả năng đảm bảo chi
trả đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH và phần dư ra để đầu tư tăng trưởng.
Tiếp theo Chính phủ lại có những sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách BHXH cho
phù hợp với tình hình đổi mới ngày càng nhanh của đất nước, bằng việc ban hành Điều
lệ BHXH áp dụng cho cán bộ, công chức, công nhân viên nhà nước và mọi người lao
động kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày
15/7/1995 áp dụng đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, bình sĩ quân đội
và công an nhân dân.
Việc ban hành và thực hiện Điều lệ BHXH mà trong đó nguyên tắc quan trọng
nhất là có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH trong hơn 9 năm qua đã đem
lại những kết quả rất tích cực, số thu BHXH ngày càng lớn, số chi do ngân sách nhà
nước cấp giảm dần, sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong
việc tham gia BHXH đã cơ bản được đảm bảo… Tuy nhiên, để đáp ứng xu thế phát

triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế thì quy định của pháp luật về quản lý thu, chi BHXH trong thời gian qua cũng đã bộc
lộ một số hạn chế, trong đó tập trung chủ yếu vào:


- Đối tượng tham gia BHXH tuy đã được mở rộng và phát triển nhưng vẫn còn
hạn hẹp. Hiện cả nước có khoảng trên 40 triệu lao động, trong đó khoảng trên 10 triệu
lao động có quan hệ lao động nhưng mới có gần 6 triệu người tham gia BHXH bắt buộc
và số này chủ yếu vẫn là lao động thuộc khu vực nhà nước; số lao động làm việc ở các
cơ sở sản xuất, kinh doanh ngoài quốc doanh, kể cả các doanh nghiệp liên doanh và
100% vốn đầu tư nước ngoài tham gia BHXH còn thấp, chỉ chiếm khoảng 15 - 20%
trong tổng số lao động phải tham gia theo luật định. Hạn chế này đã ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng chi trả và tốc độ tăng trưởng của quỹ BHXH.
- Mức hưởng của người lao động chưa tương ứng với mức đóng, quy định mức
hưởng hiện nay tuy cao, những người về hưu đời sống vẫn khó khăn, do giá trị thực tế
của tiền lương nước ta còn thấp.
- Quyền lợi về BHXH của người lao động chưa công bằng, người đóng ít về
hưu sớm, hưởng chế độ thời gian dài, ngược lại người đóng BHXH dài chưa hưởng chế
độ hưu hoặc mới hưởng một vài năm đã chết mà không có thân nhân đủ điều kiện
hưởng tuất hàng tháng thì chỉ được hưởng tối đa 12 tháng lương hoặc trợ cấp. Chính
sách chưa khuyến khích người lao động đóng cao hưởng cao.
- Các quy định của pháp luật về xử lý các vi phạm về nghĩa vụ đóng BHXH
chưa chặt chẽ, chưa có cơ chế rõ ràng do vậy tỷ lệ thất thu BHXH còn rất lớn, ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng chi trả và tăng trưởng của quỹ BHXH.
Trước những hạn chế, bất cập trên, đòi hỏi chính sách BHXH nói chung và quy
định của pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung
cho hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa.
Tóm lại, thực tiễn hoạt động thu, chi BHXH qua từng thời kỳ, nhất là từ thời kỳ
đổi mới của đất nước, chúng ta thấy rằng việc phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung, xây

dựng mới các quy định của pháp luật về thu, chi BHXH là tất yếu khách quan và là nhu
cầu cần thiết để tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách BHXH nói chung
và các quy định pháp luật về quản lý thu, chi BHXH nói riêng. Minh chứng cho kết luận
trên ta có thể tham khảo qua con số sau: Theo thống kê chưa đầy đủ của Bảo hiểm xã


hội Việt Nam, từ 1946 đến 2003 nước ta đã có trên 200 văn bản xây dựng mới, văn bản
sửa đổi, bổ sung về lĩnh vực BHXH để chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện. Có thể
nói, BHXH là một trong những lĩnh vực có nhiều văn bản nhất của nước ta.
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước về hoạt động bảo hiểm xã hội
1.4.1. Hoạt động Bảo hiểm xã hội của Công hòa Liên bang Đức
So với các nước trên thế giới, Cộng hòa Liên bang Đức là nước có lịch sử ra đời
và phát triển BHXH sớm nhất. Ngay từ năm 1850, dưới thời thủ tướng Bismark, điều
luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện ở nước Đức. Cho đến nay, chính sách BHXH
ở Đức bao gồm các chế độ cụ thể sau:
- Bảo hiểm thất nghiệp;
- Bảo hiểm y tế;
- Bảo hiểm chăm sóc sức khỏe cho người già và người tàn tật;
- Bảo hiểm ốm đau;
- Bảo hiểm tai nạn lao động;
- Bảo hiểm hưu trí.
Hoạt động BHXH ở Cộng hòa Liên bang Đức thực hiện theo ba hệ thống chính
là:
- Hệ thống BHXH bắt buộc;
- Hệ thống BHXH tư nhân;
- Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp.
Hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự quản, bảo đảm tài
chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH tư nhân và hệ thống BHXH
trong các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động của Liên bang. Trong các hệ thống
trên, hệ thống BHXH bắt buộc ở Cộng hòa Liên bang Đức có số lượng lao động tham

gia đông nhất, theo báo cáo của tổ chức Quỹ hưu trí viên chức liên bang, năm 2001 có
trên 40 triệu người tham gia. Tự quản là hình thức có ngay từ khi Luật BHXH ban hành


dưới thời thủ tướng Bismark, đây là hình thức tự chịu trách nhiệm, cũng như độc lập
tương đối với sự chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước cao nhất, nhưng lại chịu sự giám
sát của Nhà nước về tính hợp pháp của các biện pháp quản lý. Dưới đây, chúng ta có thể
thông qua hoạt động của quỹ hưu trí viên chức Liên bang để hình dung ra phần nào hoạt
động thu, chi BHXH ở Cộng hòa Liên bang Đức.
Quỹ hưu trí viên chức liên bang là một trong 27 tổ chức hoạt động trên lĩnh vực
bảo đảm chế độ hưu trí cho người lao động ở Cộng hòa Liên bang Đức. Cơ quan quản
lý cao nhất gồm một Hội đồng gồm 60 người, trong đó 30 người là giới chủ và 30 người
của tổ chức công đoàn đại diện cho người lao động. Hội đồng này bổ nhiệm Ban điều
hành, từ Ban điều hành sẽ quyết định tuyển chọn cán bộ, công nhân viên chức làm việc
cho tổ chức (năm 2001, tổ chức này có 27.000 cán bộ, công chức). Hoạt động tài chính
trong năm của Quỹ hưu trí viên chức liên bang diễn ra như sau:
Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, Tổ chức
BHXH, Tổng cục Thống kê dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới theo phương pháp
ước tính: căn cứ vào những số liệu của Tổng cục Thống kê có liên quan đến số người
lao động đang làm việc, số người đang nhận lương hưu, ước tính số người sẽ tham gia
BHXH và nhận lương hưu vào năm tới, cũng như những số liệu về thất nghiệp, ốm đau,
tử vong xảy ra và các số liệu kinh tế quốc dân vĩ mô khác để ước tính tỷ lệ thu, chi
BHXH cho năm tới. Trên cơ sở này, vào mùa thu, Chính phủ Liên bang sẽ đưa ra quyết
định chính thức về tỷ lệ thu, chi BHXH trong năm tới là bao nhiêu bằng một nghị định
có hiệu lực pháp luật. Đến đây, công việc của Quỹ hưu trí viên chức liên bang mới thực
sự bắt đầu, từ thu phí BHXH đến chi trả cho các đối tượng hưởng lương hưu theo quy
định của Chính phủ.
ở Cộng hòa Liên bang Đức, ngoài các tổ chức quản lý hoạt động BHXH của
Nhà nước, còn có các tổ chức của tư nhân, xí nghiệp đứng ra thực hiện các chế độ
BHXH. Điểm đặc biệt của hoạt động BHXH ở Cộng hòa Liên bang Đức là quỹ BHXH

thông thường chỉ đủ dùng để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH trong năm; chi cho
hoạt động của bộ máy quản lý và một khoản để dự trữ gọi là dự trữ trần. Do sự ổn định
của nền kinh tế và sức mua của đồng tiền, nên khoản dự trữ trần thường là chỉ đủ để chi


cho các đối tượng do quỹ đảm bảo trong một tháng, từ năm 2001 rút xuống chỉ còn 0,8
tháng. Vì vậy khái niệm quỹ BHXH không tồn tại ở Cộng hòa Liên bang Đức.
Cộng hòa Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng một lúc
nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm thu, chi cho một chế
độ nhất định. Điểm đáng lưu ý về chính sách BHXH ở Cộng hòa Liên bang Đức là
những người được gọi là công chức nhà nước (những người được đề cử vào bộ máy
quản lý Nhà nước) không phải là đối tượng đóng BHXH, nhưng họ nhận được lương
hưu khi hết tuổi lao động, khoản này Nhà nước lấy từ nguồn thu thuế để trả. Hiện nay,
tuổi nghỉ hưu của người lao động ở Cộng hòa Liên bang Đức nam là 65 tuổi, nữ là 55
tuổi.
1.4.2. Hoạt động bảo hiểm xã hội ở Thái Lan
Cho đến nay Thái Lan vẫn còn hai Luật An sinh xã hội (tức BHXH) đang cùng
có hiệu lực. Một đạo luật ban hành năm 1990 và một đạo luật ban hành năm 1994 (sửa
đổi, bổ sung một số điều trong đạo luật năm 1990 và được gọi chính thức là Luật An
sinh xã hội lần thứ 2).
Về các chế độ BHXH, Điều 54, Luật An sinh xã hội năm 1990 quy định 7 chế
độ gồm:
- Chế độ hưởng về thương tật hoặc ốm đau;
- Chế độ hưởng về thai sản;
- Chế độ hưởng về tàn tật;
- Chế độ hưởng về tử vong;
- Chế độ phụ cấp con (tức trợ cấp gia đình);
- Chế độ dưỡng cấp tuổi già (tức chế độ hưu trí);
- Chế độ hưởng về thất nghiệp.
Về mức đóng, Điều 46 Luật An sinh xã hội năm 1990 quy định: Chính phủ,

người sử dụng lao động và người tham gia BHXH đóng góp như nhau theo quy định
của Bộ Lao động và Phúc lợi, nhưng không quá các mức do luật định như sau:


Biểu số 1.1: Mức đóng góp BHXH
Người đóng góp
Mức đóng góp (tỷ lệ %
so với tiền lương của
người được bảo hiểm)
1. Đóng góp cho các chế độ hưởng về ốm đau, tàn
tật, tử vong và thai sản

- Chính phủ 1,5
- Người sử dụng lao động 1,5
- Người lao động 1,5
2. Đóng góp cho các chế độ phụ cấp gia đình và
dưỡng cấp tuổi già

- Chính phủ 3
- Người sử dụng lao động 3
- Người lao động 3
3. Đóng góp cho chế độ hưởng về thất nghiệp
- Chính phủ 5
- Người sử dụng lao động 5
- Người lao động 5
Nguồn: Luật An sinh xã hội của Thái Lan.
Riêng hai chế độ phụ cấp con và trợ cấp tuổi già theo quy định của Luật An
sinh xã hội, đến năm 1999 mới thi hành.
Việc quy định người tham gia BHXH không thống nhất ở các chế độ, cụ thể:
đối với các chế độ trợ cấp mất khả năng lao động, hưu trí, tử tuất ốm đau và thai sản,



những người bắt buộc phải tham gia là những người làm việc trong các doanh nghiệp có
từ 10 lao động trở lên, còn đối với chế độ tai nạn lao động là những người làm việc
trong các ngành công nghiệp hoặc các hãng thương mại có từ 10 lao động trở lên, các
ngành khác không bắt buộc. Tuổi nghỉ hưu ở Thái Lan quy định chung cho cả nam và
nữ đối với các viên chức chính phủ từ Trung ương đến địa phương; với quân đội, cảnh
sát là 60 tuổi; các đối tượng khác là 55 tuổi. Điểm đáng lưu ý ở đây là, Luật An sinh xã
hội không áp dụng đối với các quan chức chính phủ và các viên chức thường xuyên, các
viên chức tạm tuyển làm việc theo ngày và theo giờ của chính quyền trung ương, chính
quyền tỉnh và chính quyền địa phương; trừ các viên chức tạm tuyển làm việc theo tháng.
Các đối tượng này được điều chỉnh bằng một đạo luật khác, theo đó họ chỉ phải đóng
3% tiền lương tháng để nhận được chi phí điều trị khi ốm đau và lương hưu do Chính
phủ đảm bảo sau khi đã đủ các điều kiện về tuổi đời và thời gian phục vụ.
1.4.3. Hoạt động bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc
Ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Trung
Quốc đã tiến hành một loạt những biện pháp có hiệu quả giải quyết thành công tình
trạng thất nghiệp nghiêm trọng do chính quyền Trung Quốc cũ để lại và đảm bảo cuộc
sống cơ bản cho người dân. Để tăng cường phát triển kinh tế và ổn định xã hội, dần dần
nâng cao mức sống và lợi ích an toàn xã hội của công dân nói chung, Chính phủ Trung
Quốc đã rất cố gắng thiết lập một hệ thống an toàn xã hội vững chắc và phù hợp với
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Sau những năm tìm tòi và thực hiện, một hệ thống
an toàn xã hội về cơ bản đã được thiết lập, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã hội,
phúc lợi xã hội và trợ giúp xã hội; trong đó chính sách BHXH giữ một vai trò quan
trọng.
Về cải cách hệ thống BHXH, ngày 5/7/1994, ủy ban Thường vụ Quốc hội nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thông qua Luật Lao động và có hiệu lực từ 1/1/1995,
trong đó có chương IX quy định về bảo hiểm và phúc lợi xã hội, gồm 7 điều. Điều 73
quy định 5 chế độ BHXH là: hưu trí, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp và sinh đẻ. Luật chỉ quy định những nguyên tắc chung nhất, còn quy định cụ thể

×