Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cá nhân không làm ra lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.14 KB, 27 trang )

Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Cá nhân không làm ra lịch sử.
Song có những giờ phút, những lúc, những thời kì mà hành động của
một cá nhân có thể ảnh hưởng quyết định đến hướng phát triển của thời
cuộc, đến vận mệnh của một dân tộc, mở ra một trang mới, một kỉ nguyên
mới trong lịch sử đất nước như Hồ Chủ Tịch
Bác Hồ, một con người mà trái tim cháy rực nhiệt tình cách mạng, con
người có tính cương nghị phi thường, một tinh thần dũng cảm vô song, một
khí phách anh hùng vô tận, kết hợp với đức trung hậu, lòng bao dung quảng
đại, một tình yêu nồng nàn cao như núi, rộng như biển đối với nhân dân,
đồng bào, đồng chí, từ các cụ già đến các em thơ, vì hạnh phúc của họ mà
chiến đấu, đức tính cương trực, giản dị, chân thật như ánh sáng mặt trời.
Hình ảnh một con người vĩ đại như thế đã in sâu vào nền văn học hiện đại
Việt Nam, đặc biệt là trong thơ ca. Với bài viết này, tôi tìm hiểu hình ảnh
của Bác trong thơ ca Việt Nam hiện đại
I. Bác Hồ - Bức chân dung tự họa
Sinh thời, Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ. Nhưng thực tế
sáng tác của Người đã chứng tỏ rằng Người thực sự là một nhà thơ, thực sự
là một nhà văn và đã để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị, đặc biệt là
những bài thơ trữ tình. Những tác phẩm ấy với phong cách độc đáo và sâu
sắc, chẳng những có khả năng truyền lại lâu dài tư tưởng, đạo lí của Bác mà
còn làm sáng mãi tâm hồn, cá tính, phong thái và diện mạo của Người
Những vần thơ đầy nhiệt huyết của người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành gửi cụ Phan Châu Trinh từ Luân Đôn năm 1914:
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cương mới gọi hùng…
…Ba hột đạn thầm, hai tấc lưỡi
Sao cho ích giống mới cam lòng
(Hồng Hà, Thời thanh thiếu niên của Bác Hồ, Nxb Thanh niên, H,
1967, tr.37)


Trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Người viết:
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn
Mặc gấm bạn tù đều khách quí
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm
(Gãi ghẻ)
Bài thơ có giọng đùa vui thoải mái như nhiều bài thơ khác của Bác
Hồ. Qua tiếng cười rất đỗi hồn nhiên ấy, nhà thơ như muốn nói điều này: Hồ
Chí Minh cũng chẳng có xương thịt đặc biệt gì, da thịt Hồ Chí Minh cũng
như da thịt mọi người vậy thôi, bẩn thì ghẻ, ghẻ thì gãi, mà gãi ghẻ cũng có
những thú vị riêng của nó. Cả một nhà lao cùng gãi ghẻ thì thật là hiểu nhau
vô cùng, thật là “tri âm tri kỉ”, kém gì Tử Kì với Bá Nha ngày trước. Có
người đã nói rất đúng rằng: Bác Hồ rất vĩ đại, nhưng điều vĩ đại nhất là
Người không bao giờ cho mình là vĩ đại. Đó chính là trường hợp bài thơ
này.
Ở chiến khu Việt Bắc, thời kì kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ
thường giải trí bằng thơ, đặc biệt là thơ tức cảnh, sau những ngày làm việc
căng thẳng, nhất là sau những buổi họp khuya có ánh trăng làm bạn trên
đường về:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Cái vui ấy, cùng với những sở thích khác của Bác như: làm vườn, câu
cá… đã tạo nên ở Người một cốt cách rất mực giản dị, thanh tao.
Trong tập Nhật kí trong tù, tuyệt nhiên không bàn thấy cái chết, trong
những bài thơ khác của Người cũng rất ít nói đến điều này. Dù bị giam cầm
trong địa ngục trần gian khủng khiếp, nhiều khi ngồi kề bên cái chết, Người
vẫn chỉ nghĩ đến sự sống, ánh sáng, tương lai:

Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Đọc Nhật kí trong tù ta thấy đúng như Chế Lan Viên nhận xét: thơ Bác
có đủ cả “mắm, muối, tương, cà”,(Hồi kí Bác Hồ, Nxb Văn học, 1960,
tr.81). Đó là nghĩa bóng mà cũng là nghĩa đen nữa:
Nhà lao mà giống gia đình
Muối, dầu, gạo, củi tự mình phải lo
Phòng riêng mỗi cửa một lò
Cơm canh mọi thứ nấu kho suốt ngày
(Nhà lao Quả Đức)
Ngày nay, các nhà thơ không ai còn khinh “mắm, muối, tương, cà”nhưng
đưa được nó vào thơ như một đề tài chính hết sức thoải mái như thế, có lẽ
chỉ có Hồ Chí Minh.
Có những sự thật hình như chỉ có Bác mới dám đưa vào thơ:
Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù
(Bị hạn chế)
Ông Nguyễn Lương Bằng nói: “Tôi không ngờ Bác lại giản dị quá
đến như vậy” (Hồi kí Bác Hồ, Nxb Văn học, 1960, tr.81). Bác độc đáo chính
là ở chỗ giản dị rất mực của mình. Xét ra, giản dị là cả một vấn đề bản lĩnh.
Và cứ như thế, bài tiếp bài, có gì nói vậy, chất phác, thật thà như
chính cuộc sống: một hàng cháo bên đường, một cảnh nông thôn được mùa
hay đại hạn, một tốp phu đường cặm cụi làm việc, một hiện tượng lạ lùng
bên chiếc cùm nhà lao: “Cùm chân sau trước cũng tranh nhau”, chuyện
“chia nước”, chuyện muỗi rệp, chuyện ghẻ lở, chuyện bắt rận. Cảnh đánh
bạc trong tù, cảnh sinh hoạt tự túc của tù nhân, một tiếng khóc trẻ thơ trong
ngục, một người đàn bà đi tù thay chồng, một người tù mới chết, lại một anh

nữa, những luật lệ vô lý của bọn quản ngục: Cấm hút thuốc lá, tiền công,
tiền đèn, tiền vào nhà giam (Ι),…Toàn những bài thơ giản dị, mộc mạc
nhưng thể hiện một con người có tấm lòng nhân đạo cao cả, có tinh thần lạc
quan cách mạng, giản dị, trong sáng và tình yêu thương con người, yêu thiên
nhiên. Đó là tất cả những biểu hiện của một bậc “Đại nhân, Đại trí, Đại
dũng”
1. Bác Hồ - Bậc “Đại nhân”
Cả cuộc đời, hình ảnh Bác để lại trong lòng dân yộc và thế giới là hình
ảnh của một bậc Đại nhân, một con người lớn, thương yêu hết thảy, từ
những điều nhỏ nhất, quên cả thân mình. Công lao của Người đối với dân
tộc to lớn không kể hết, nhưng cả cuộc đời Người luôn giản dị, mộc mạc.
Trái tim Người luôn trải rộng tình thương.
Người đánh giá rất cao vai trò của người chiến sĩ tiên phong đối với nhân
dân trong việc chỉ lối dẫn đường:
Người nhờ anh chỉ lối
Đi đúng hướng đúng đường
Anh chỉ cho người biết
Nào dặm ngắn, dặm trường
(Cột cây số)
Trong việc thức tỉnh quần chúng, phát động phong trào:
Một tiếng toàn dân bừng tỉnh mộng
Công mi đâu có phải là thường
(Nghe tiếng gà gáy)
Nhưng mặt khác, Bác hiểu hơn ai hết đó vốn là những người bình
thường, nhũn nhặn, từ nhân dân mà ra và luôn gắn bó với nhân dân.
Như chiếc cột cây số kia:
“Chẳng cao cũng chẳng xa
Không đế cũng không vương…
Đó là quan điểm cách mạng về con người mới, về chủ nghĩa anh hùng mà
Bác đã từng phát biểu: “Đảng viên chúng ta là những người rất tầm thường,

vì chúng ta đều là con người của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động,
chúng ta chỉ biết trung thành với giai cấp vô sản, quyết tâm đấu tranh cho
nhân dân. Thế thôi” (Nhân dân ta rất anh hùng, tr.15)
Cho nên đối với quần chúng, Người hết sức tin yêu, trân trọng, dù đó là
những quần chúng bình thường nhất. Cùng bị giam với Bác ở nhà ngục
Quảng Tây không phải là những nhà chính trị, những nhà cách mạng, mà là
những người dân thường, phần đông đã bị lưu manh hóa, mắc bệnh giang
mai, nghiện thuốc phiện… Nhưng từ đáy lòng, vị lãnh tụ vẫn chan hòa với
họ. Bác gọi họ là bạn, là người “cùng hội cùng thuyền”. Bác vẫn tìm thấy
trong tình cảm chan hòa đó một niềm vui chân thành, chất phác:
Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp
Viết thay báo cáo dám từ nan
“Chiều theo”, “thừa lệnh” nay vừa học
Đã được bao lời bạn cảm ơn
(Viết hộ báo cáo cho các bạn tù)
Cũng trên tình bằng hữu, Bác an ủi, động viên họ:
Khuyên anh hãy gắng ăn no bụng
Khổ lắm ắt là đến lúc vui (Buổi sớm)
Người chia sẻ nỗi thương tâm đối với cái chết của người bạn tù:
Thân anh da bọc lấy xương
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi
Đêm qua còn ngủ bên tôi
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng
(Một người tù cờ bạc bị chết)
Người thương xót những cảnh đời khổ đau, cảm thông với cảnh khổ
cực của người nông dân. Một em bé phải vào nhà lao với mẹ cũng làm
Người động lòng trắc ẩn:
Oa! Oa! Oa!...
Cha trốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi

Phải theo mẹ đến ở nhà pha
(Cháu bé trong nhà lao Tân Dương)
Người thương cảnh người nông dân mất mùa đói kém, thương người
phu làm đường dầu dãi nắng mưa, trong khi bản thân mình cũng đang trong
cảnh đọa đày tù ngục. Đó chỉ có thể là tình cảm của một bậc Đại nhân, một
trái tim lớn: Phu đường vất vả lắm ai ơi!. Tấm lòng nhân của Người cao cả
biết bao!
Tin tưởng quần chúng, Bác thường tìm hiểu phía tích cực, phía ánh
sáng của tâm hồn con người, kể cả những con người mà nghề nghiệp hàng
ngày buộc họ phải hít thở trong chế độ bạo tàn. Và khi nhận thấy chút lương
tâm đang cố ngoi lên trên bùn lầy, rác rưởi, Người liền vội vàng chào đón,
nâng niu:
Trưởng ban họ Mạc người hào hiệp
Dốc túi mua cơm giúp phạm nhân
Đêm đến cởi thừng cho họ ngủ
Chẳng dung quyền thế chỉ dung ân
(Trưởng ban họ Mạc)
Mà đâu phải chỉ là chuyện một ông Quách, ông Mạc, đó là những
bằng chứng càng làm sáng tỏ thêm niềm tin chắc chắn của Hồ Chí Minh ở
sự bất vong, bất diệt của chính nghĩa, của lương tâm quần chúng mà tác
động tiêu cực của chế độ thống trị dù có ghê gớm đến thế nào cũng không
bóp chết được
Yêu thương con người hết mực, Bác Hồ còn là một tấm gương ngời
sáng về tình yêu nước. Dù bị bắt giam nơi đất khách, bị giam cầm, hành hạ
về thể xác và tinh thần, nhưng tâm trí Bác lúc nào cũng gắn với Tổ quốc và
cách mạng.
Trong nhà tù, có lúc làm thơ đối với Bác chỉ là để đỡ sốt ruột. Nhưng
làm mãi, đến một lúc nào đó, đếm lại những bài thơ mình làm đã quá nhiều,
Bác lại càng sốt ruột hơn:
Năm canh thao thức không nằm

Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi
Xong bài gác bút nghỉ ngơi
Nhòm qua cửa ngục ngóng trời tự do
(Đêm không ngủ)
Trong Nhật kí trong tù, Bác viết: “Đau khổ chi bằng mất tự do”. Nỗi
đau lớn nhất của Người trong nhà tù lúc đó không phải là nỗi đau của cơ thể
bị đọa đày mà là nỗi đau của một tâm hồn yêu nước thiết tha mà không được
xả thân cho đất nước. Ý nghĩa của hai chữ Tự do của Hồ Chí Minh trong bài
này là như vậy:
Xót mình giam hãm trong tù ngục
Chưa được xông pha giữa trận tiền
(Ở Việt Nam có biến động)
Tâm trạng bồn chồn không yên thể hiện ngay trong mạch thơ của
nhiều bài. Trong bài Tức cảnh, dù là thơ tả cảnh nhưng chỉ có hai câu đầu là
nói đến cảnh: Cành lá khéo in hình Dực Đức
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công
Hai câu sau, hồn thơ Bác bỗng đột ngột bay về Tổ quốc:
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng
Tin tức bên nhà bữa bữa trông
Nỗi trăn trở vì nước nhà ấy đã bao đêm khiến Người không ngủ được,
Người ngồi viết nên những vần thơ thắm thiết, chứa chan tình cảm đối với
Tổ quốc, đồng chí, đồng bào: Không ngủ được, Đêm không ngủ, Thu cảm,
Đêm thu…
Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
Hồ Chí Minh không làm văn mà văn vẫn đến với Người. Bởi vì xét
đến cùng, tâm hồn cao đẹp, biểu hiện chân thật vẫn là thứ văn cao nhất xưa
nay. Mà tâm hồn Bác là cả một công trình nghệ thuật tuyệt vời, nơi gặp gỡ

những tinh hoa nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, trên cơ sở một lí
tưởng đẹp đẽ của thời đại với những kinh nghiệm phong phú của một cuộc
đời kì diệu.
Hãy đọc bài thơ Không ngủ được, Người làm trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch:
Một canh… hai canh… lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
Đúng là có sao nói vậy: suốt đêm khắc khoải, trằn trọc, người tù nằm
đếm rành rọt những tín hiệu cầm canh như đếm bước đi nặng nhọc của thời
gian (“Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài”). Nhưng vì sao Bác không ngủ được?
Câu thơ cuối cùng mới nói rõ tất cả. Hình ảnh sao vàng năm cánh đột ngột
tỏa sáng cả bài thơ, chẳng những giải thích vì sao Bác không ngủ được mà
còn diễn tả một cách vừa giản dị, vừa sâu sắc: tâm hồn nhà cách mạng vĩ đại
luôn gắn bó làm một với Tổ quốc mình, cả khi thức cũng như khi đã đi vào
cõi mộng.
Quên mình vì dân, vì nước, Bác Hồ không có chút gì dành riêng cho
mình. Càng tìm hiểu sâu vào tâm sự của Người, càng chỉ thấy tâm trí Người
dành hết cho cách mạng, cho nhân dân. Trong bài Ốm nặng, Người viết:
Ngoại cảnh trời Hoa cơn gió lạnh
Nội thương đất Việt cảnh lầm than
Hai câu thơ dường như không muốn phân biệt đâu là nỗi đau thể xác,
đâu là nỗi đau tinh thần, vì Tổ quốc và giai cấp vô sản trên thế giới từ lâu đã
trở thành lẽ sống, thành máu thịt của người tù cộng sản vĩ đại này.
Yêu nước, thương dân – đó là tùnh cảm cao cả luôn thường trực trong
Bác. Ngay cả những vật vô tri, vô giác như cột mốc, cành cây… nếu có lợi
ích cho cuộc sống của con người, Bác đều nâng niu, trân trọng. Nhưng chính

×