Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CẢM HỨNG ĐỜI TƯ-THẾ SỰ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975 KHI VIẾT VỀ ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.68 KB, 11 trang )

CẢM HỨNG ĐỜI TƯ-THẾ SỰ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU
1975 KHI VIẾT VỀ ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
1. Đề tài gia đình là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Từ những
năm ba mươi của thế kỷ XX, các nhà văn Tự lực văn đoàn đã khai thác rất thành
công đề tài này. Những tác phẩm hay nhất, có nhiều đóng góp nhất cho nền văn
học nước nhà của Tự lực văn đoàn là những tác phẩm đấu tranh giải phóng cá
nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của người phụ nữ chống lại sự
ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến trong đại gia đình phong kiến.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta phải trải qua 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc. Lúc này vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ chủ
yếu của cách mạng Việt Nam (trong đó có văn học nghệ thuật) là phục vụ công
cuộc kháng chiến kiến quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn trở thành người chiến
sĩ, chuốt nhọn vũ khí văn chương để phục vụ cho cách mạng. Họ không ngần ngại
làm anh “tuyên truyền viên nhãi nhép”, hoà mình vào cuộc sống công- nông-binh,
ca ngợi nhân dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những chiến công vang dội của dân
tộc… Đề tài hôn nhân- gia đình không thích hợp trong thời chiến nên được gác lại.
Vì vậy, những vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình dường như không được đề cập
như một mảng sáng tác lớn trong văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975.
Sau chiến thắng 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất. Lịch sử sang
trang nhưng văn học vẫn trượt theo quán tính một thời gian nữa. Đề tài chiến tranh
cách mạng vẫn là đề tài ưa thích của văn nghệ sĩ. Cảm hứng ca ngợi vẫn là cảm
hứng chủ đạo của phần lớn tác phẩm ra đời trước 1980. Nhà văn say sưa viết, say
sưa ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng nhưng độc giả đột nhiên lạnh nhạt, thờ
ơ với văn học. “Người đọc mới hôm qua còn mặn mà thế bỗng dưng bây giờ quay
lưng lại với anh. Họ không thèm đọc anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở dày cộp
nằm mốc trên quầy. Người ta bỏ anh. Người ta đi đọc sách Tây và đọc Nguyễn
Du(1).
Đến thập kỷ 80, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí đổi mới -
dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ được
“cởi trói” tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của người cầm bút
trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng


lãng mạn trong văn học 1945-1975 được thay thế bằng cảm hứng đạo đức - thế sự.
Con người "sử thi” trong văn học trước 1975 được thay thế bằng con người "nếm
trải”. Vấn đề đời tư, bản thể, tự do luyến ái, đời sống tình dục... được đề cao. Đề
tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề liên quan đến những
nhiệm vụ chính trị trước mắt mà được mở rộng từ đề tài gia đình, thân phận tình
yêu, số phận con người đến chiến tranh cách mạng, sản xuất xây dựng... Các nhà
văn không né tránh, ngại ngùng khi khai thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm
của hiện thực cuộc sống.
2. Đề tài gia đình có phần bị chìm lấp sau Cách mạng tháng Tám được khơi nguồn
trở lại, tạo thành dòng chảy chính và thu được những thành tựu đáng kể. Có thể nói
chưa bao giờ đề tài gia đình lại giành được sự quan tâm của đông đảo giới cầm bút
như hiện nay. Từ các thế hệ nhà văn đã thành danh trong văn học cách mạng Việt
Nam trước 1975 đến các thế hệ cầm bút trưởng thành sau 1975, thậm chí có những
người còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai mươi như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng
Diệu… đều có tác phẩm viết về đề tài gia đình. Mặt khác, đề tài gia đình không chỉ
xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn mà còn xuất hiện trong cả trong tản văn
(Chẳng hạn: Tập tản văn Nhân chuyện chị Thỏ Bông của Thảo Hảo, đã mượn hình
tượng chị Thỏ Bông để nói chuyện gia đình Việt Nam hiện đại). Văn học thời kỳ
này xuất hiện với mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên quan
đến vấn đề gia đình như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Trung du,
chiều mưa buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già, Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé,
con người, Một chốn nương thân, Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi
sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng, Anh cả tôi, người sung sướng, Nợ đời,
Suối mơ, Gái có con, Phép lạ thường ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại…
(Ma Văn Kháng), Cha và con và…, Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Thời
xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng),
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc
Trường), Tướng về hưu, Không có vua, Tâm hồn mẹ (Nguyễn Huy Thiệp) Phố, Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung Trung Đỉnh), Một nửa
cuộc đời, Mi-nu xinh đẹp, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu

Huệ), Hồn trinh nữ (Võ Thị Hảo), Bước qua lời nguyền, Lão khổ, Thiên thần sám
hối (Tạ Duy Anh), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc
Tư), Bóng đè, Dòng sông hủi, Vu quy, Bốn người đàn bà và một đám tang (Đỗ
Hoàng Diệu), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Dòng sông mía (Đào
Thắng)... Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải thưởng cao của Hội
Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả như Mùa lá rụng trong vườn,
Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nỗi buồn chiến
tranh, Thiên thần sám hối, Gia đình bé mọn, Cánh đồng bất tận.
3. Các tác phẩm viết về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975 đã đi sâu
khai thác các mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam trong thời mở
cửa. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình
và xã hội. Vấn đề cá tính được tôn trọng, được đề cao. Nếu như văn học cách mạng
1945 - 1975 thường đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân
thì các sáng tác về đề tài gia đình sau 1975 lại có xu hướng nghiêng về thể hiện vai
trò của văn học đối với cá nhân - gia đình.
Một trong những vấn đề được khá nhiều nhà văn quan tâm là gia đình Việt Nam
trước thách thức của nền kinh tế thị trường. Liệu quan niệm “một túp lều tranh hai
trái tim vàng” một thời được coi là lý tưởng có còn đứng vững trước lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất đang từng ngày, từng giờ luồn lách
khắp hang cùng ngõ hẽm của xã hội Việt Nam?
Trong Tiễn biệt những ngày buồn vợ chồng Xoay - Sương nhiều năm chỉ sống
bằng một sổ gạo, một suất lương thế mà êm ấm. Nhưng khi Sương tìm được việc
làm tốt, thu nhập cao, đời sống vật chất ngày một cải thiện thì gia đình họ tan vỡ.
Sương thay đổi từ cách ăn mặc, nói năng, cử chỉ và cuối cùng từ giã căn phòng tập
thể, “tiễn biệt” người chồng thừa tình yêu, nhân hậu nhưng thiếu tiền tài, của cải để
tìm cuộc sống mới. Câu nói cuối cùng của Sương với các bạn Xoay: “Em không
thể chờ anh Xoay được. Bố em cũng không thể chờ chàng rể đem thuốc tốt bụng
về chữa bệnh (...). Bây giờ thì em tự quyết định lấy cuộc sống của mình, hạnh phúc
của mình”, đã khẳng định quan niệm về hạnh phúc của cô.
Cùng cảnh ngộ như Xoay nhưng Nam trong Phố của Chu Lai còn đắng cay, xót xa

hơn nhiều. Tình yêu của họ được thử thách nơi hòn tên mũi đạn và ngàn ngày đằng
đẵng xa nhau. Hạnh phúc tưởng như ở trong tầm tay khi Thảo “nguyên vẹn” trở về,
tiền bạc dồi dào, nhà cao cửa rộng, đời sống sung túc. Vậy mà, sóng gió lại xuất
hiện. Chưa đầy năm sau, bi kịch đã giáng xuống gia đình họ. Chị bỏ mạng nơi biển
Sầm Sơn một ngày dông gió trong chuyến “píc níc” với tình nhân. Anh điên loạn,
phẫn uất khi nhận ra mình bị phản bội. Còn cháu Niên Thảo quặn nỗi đau mất mẹ
và hứng chịu những cơn thịnh nộ của bố.
Do đâu mà hạnh phúc gia đình tan vỡ? Nhiều người đã nói đến lối sống Âu - Mỹ,
ảo vọng giàu sang, những dục vọng thấp hèn… đã tiêm nhiễm vào con người Thảo.
Tác giả mượn lời nhân vật trong truyện cho rằng Thảo sa ngã vì “nín nhịn bên đó
để về bên này chị hụt hơi” và “chị giữ gìn được thể xác nhưng linh hồn chị đã bị
nhiễm độc rồi”. Nhà văn không những nhiều lần nhấn mạnh hành vi bạo liệt của
tay Việt kiều luôn là nỗi ám ảnh trong con người Thảo mà còn trực tiếp bộc lộ
quan niệm của mình: “Thế gian điên đảo đang tràn lan những căn bệnh thời vi tính,
những căn bệnh vô thức của thế kỷ bùng nổ tình dục. Người bị hiếp dâm ám ảnh
đứa hiếp mình, kẻ bị bắt cóc đâm ra phải lòng kẻ bắt cóc nó …”.
Quan niệm trên, mang nặng tính chủ quan, thiếu sức thuyết phục. Nếu phân tích
thấu đáo khó chấp nhận. Theo chúng tôi, gia đình họ tan vỡ không chỉ vì Thảo “bị
nhiễm độc” bởi lối sống Âu hoá mà một phần do Nam không bắt kịp với cuộc sống
mới thời mở cửa và do họ chưa thật sự hiểu nhau trước khi lấy nhau. Thảo đến với
Nam chủ yếu vì tò mò, vì tự ái. Sau khi lấy nhau, mọi tâm lực của họ dồn vào việc
“kiếm ăn từng bữa toát mồ hồi” của thời kỳ đất nước cực kỳ khó khăn sau chiến
tranh. Ba năm sang châu Âu, tiếp xúc với cuộc sống phương Tây, tầm mắt được
mở rộng, quan niệm về thẩm mỹ, về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống ở chị có nhiều
đổi thay. Trong lúc, Nam vẫn khư khư giữ nếp xưa, kém thích ứng với cuộc sống
mới thì Thảo lại vui thích cuộc sống hiện tại. Sống với một con người như thế,
Thảo càng ngày càng cảm thấy buồn tẻ, nhàm chán. Vì thế, khi Hai Hùng xuất hiện
chị nhận ra đây là con người trong mộng của mình. Chị ngã gục trước tình yêu của
Hai Hùng là một hệ quả tất yếu.
Những tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề gia đình của

Lê Lựu thường kết thúc bi kịch. Sự đổ vỡ đó chủ yếu do sự cách biệt về quan niệm
sống, về cách ứng xử, các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc biệt hôn nhân không
xuất phát từ tình yêu giữa người vợ và người chồng. Nhân vật nam trong các tác
phẩm của ông thường là những người xuất thân từ nông thôn. Dù trở thành anh
hùng hay trí thức thì bản chất nông dân vẫn ăn sâu trong con người họ. Ngược lại,
nhân vật nữ thường là những trí thức thành thị xinh đẹp, sành điệu và lõi đời. Do
đó, các chàng trí thức tỉnh lẻ ngu ngơ bị các cô gái lọc lõi dắt mũi, dẫn dụ vào
những cạm bẫy ái tình khi họ đang cần một người chồng cho chính danh cái bào
thai đang lớn dần trong bụng. Sài trong Thời xa vắng; Tâm, ông Địa trong Hai nhà
là những nạn nhân chuyên làm nhiệm vụ “tráng men” cho loại đàn bà đó.
Dưới góc độ hôn nhân - gia đình, trong Thời xa vắng, vấn đề tình yêu và hạnh phúc
gia đình luôn là nỗi trăn trở, day dứt khôn nguôi. Sài hai lần lấy vợ đều rơi vào bi
kịch. Cuộc đời Giang Minh Sài là một chuỗi ngày đắng cay, chua xót. Sau bao lần
đổ vỡ đớn đau anh đã ngậm ngùi tự đánh giá về cuộc đời mình: “Nửa đời người
phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có”.
Lê Lựu đã đưa ra cách biện giải tương đối hợp lý về bi kịch của cuộc đời Sài. Sài
vừa là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng đồng thời anh cũng là thủ phạm gây nên bi
kịch cuộc đời mình. Anh phải im lặng chịu đựng theo ý mọi người, để được coi là
người tốt, gương mẫu, nhưng mấy ai biết được Sài đang tự đánh mất bản ngã,
không dám khẳng định mình, đang gồng lên đẽo gọt mình cho phù hợp với chuẩn
mực của gia đình và xã hội.
Như vậy, bi kịch cuộc đời Sài không chỉ xuất phát từ sự áp đặt của gia đình, xã hội,
từ sự ích kỷ, dối trá của con người mà còn do tính yếu đuối, nhu nhược, thiếu bản
lĩnh của anh ta. Chính Sài đã thú nhận: “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của
chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế, không sợ ai, không chiều theo ý ai,
sống hộ ý định của người khác, cốt cho đẹp mặt mọi người chứ không phải cho
hạnh phúc của mình”.
Trong Hai nhà, tính chất lăng loàn, dâm đãng của người vợ được Lê Lựu đẩy lên
một nấc thang mới. Cả Linh Anh và bà Mỹ Nhân đều là những con quỷ dâm dục.
Họ lấy chồng để hợp thức hoá cái “của nợ” với tình nhân trong bụng. Sau khi có

chồng họ vẫn ngoại tình “như cơm bữa”. Kẻ thì lén lút “ngủ với giai trong giờ làm
việc cơ quan”, kẻ thì công khai hành lạc ngoài công viên giữa thanh thiên bạch
nhật. Còn những ông chồng là những kẻ nhu nhược yếu đuối, thiếu bản lĩnh. Họ
tận tuỵ phục vụ vợ con nhưng lại bị vợ coi thường. Thỉnh thoảng mới được “ban
thưởng”, dù chỉ là “cơm thừa canh cặn” như kiểu bố thí cho kẻ ăn mày mà “háo
hức như một đứa trẻ được mẹ cho quà”. Gia đình họ chỉ là sự “gá buộc”, chỉ chính
danh trên giấy tờ còn thực chất trong nhà là quan hệ chủ - tớ.
Các nhân vật nữ trong Thời xa vắng, Hai nhà là những con người hai mặt. Bề ngoài
là những người duyên dáng, lịch thiệp, tế nhị, mẫu mực, hết lòng yêu chồng,
thương con. Bên trong lại chứa đựng bản chất ích kỷ, giả dối, lăng loàn. Tuy nhiên,
có những khái quát về tính lăng loàn, dâm đãng của phụ nữ ít nhiều gây phản cảm
cho người đọc, nhất là độc giả nữ. Chẳng hạn: “Tâm nhận ra một điều đơn giản
nhưng mang tính qui luật là: Khi người đàn bà gặp ai dù quen thân hay xa lạ mà
mở mồm ra là bêu riếu, than vãn về sự xấu xa, lỗi lầm và những thói hư tật xấu của
chồng thì một trăm người như thế không sót một ai là không ngoại tình, không bồ
bịch lang chạ, không chỉ với một vài người đàn ông mà có đến hàng chục người”;
“Bà ấy tích trữ nhân tình như chị em mình trữ cá khô phòng bão lụt ấy. Nhân tình
với cả bố nuôi 70 tuổi, với cả em nuôi kém bà ấy hai chục tuổi. Thằng nào có tiền,
có quyền, có sức làm tình như trâu chọi là ngả ra cân tất”.
Ra đời vào những năm cuối cùng của thập kỷ 80, Bến không chồng của Dương
Hướng, có cách nhìn mới về chiến tranh, về hiện thực cuộc sống, về tình yêu và
hôn nhân - gia đình. Bến không chồng giúp người đọc thấy được mặt trái của cuộc
chiến tranh. Tác phẩm không nói nhiều về chiến trường, về hy sinh mất mát của
người lính mà chủ yếu nói về nỗi đau của những người mẹ, người vợ, “người gái
nhỏ hậu phương”. Chồng hy sinh, họ trở thành những goá phụ cực nhọc nuôi con,
đêm đêm tấm tức khóc cho số phận đơn côi. Chồng biền biệt ngoài mặt trận họ
thấp thõm chờ mong trong vô vọng. Họ giữ trọn lời thề với người đi xa để đến lúc
tuổi đã xế tà cũng là lúc nhận được tin anh không bao giờ về nữa. Và biết bao cô
gái trẻ, khát khao yêu đương, khát khao hạnh phúc nhưng tìm đâu ra người đàn ông
cho riêng mình. Họ hoặc phải chịu cảnh “chết dần” theo năm tháng hoặc phải lấy

anh què anh thọt hay làm lẽ một ông lão nào đang ‘khát” con trai.

×