Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

thảo luận đề tài Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.34 KB, 28 trang )

Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai
trò, ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển tư tưởng kinh tế chung của nhân
loại. Các nhà kinh tế học cổ điển đã phát hiện và đi sâu nghiên cứu, vạch rõ
nhiều vấn đề có tính quy luật nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Lý luận kinh tế cổ điển được phân tích trên cơ sở một hệ thống các
phạm trù và khái niệm kinh tế vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.Các
nhà kinh tế chính trị học cổ điển là những người đầu tiên đặt cơ sở khoa học
cho việc phân tích sâu sắc và toàn diện các phạm trù và quy luật này của họ
đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận kinh tế tới những đỉnh
cao rực rỡ. Đặc biệt, chủ nghĩa cổ điển có thể được coi là người đã thực hiện
những bước cách mạng quan trọng nhất trong việc phân tích các quy luật của
nền kinh tế thị trường nói chung và cơ chế thị trường nói riêng trong tư bản
chủ nghĩa. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của kinh tế học
hiện đại ở tất cả các nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường, kể các đối
với nước ta trong điều kiện xác định định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền
kinh tế đó.
Chính vì những lẽ đó mà em đã chọn đề tài tiểu luận nghiên cứu về
trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
Những đóng góp to lớn nhất về lý luận của trường phái cổ điển bao gồm
lý luận giá trị- lao động, lý luận về tiền tệ, lý luận về thu nhập (tiền công, lợi
nhuận, địa tô). Trong phạm vi của bài tiểu luận này, em xin trình bày những
thành tựu và hạn chế về lý luận thu nhập (tiền công, lợi nhuận, địa tô) của
trường phái tư sản cổ điển. Đây là một trong số những lý luận tiêu biểu của
trường phái này, tạo tiền đề cho các nhà kinh tế sau hoàn thiện lý luận về thu
nhập.
Em là một sinh viên theo ngành kinh tế, vì thế đây cũng là một vấn đề
mà em rất quan tâm. Nó giúp em hiểu rõ hơn và những thành tựu và hạn chế,
1
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế


những tiền đề quan trọng cũng như những điểm cần khắc phục trong lý luận
của các ông. Và hơn hết nó giúp em hiểu hơn về phương pháp luận trong
nghiên cứu khoa học của các nhà kinh tế học cổ điển.
Đây là lần đầu tiên em viết tiểu luận. Thế nên, chắc hẳn còn nhiều thiếu
sót và hạn chế. Em mong nhận được những ý kiến nhận xét của quý thầy cô
và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
NỘI DUNG
I. Sự xuất hiện của trường phái cổ điển và đặc điểm của nó
1.Hoàn cảnh lịch sử.
Kinh tế chính trị học cổ điển xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVII,
trong thời kỳ phương thức tư bản chủ nghĩa đã hình thành và bắt đầu phát
triển mạnh mẽ ở phương Tây, đặc biệt là nước Anh và Pháp. Trường phái này
phát triển trong một thời kỳ dài, trải qua nhiều giai đoạn, đạt tới đỉnh cao rực
rỡ vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và sau đó
dần dần xa rời những nguyên tắc truyền thông trước khi chấm dứt sự thống trị
tuyệt đối của mình vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đặc điểm nổi bật trong hoàn cảnh lịch sử cho sự ra đời của kinh tế học
cổ điển là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực sản xuất,
tỏ rõ ưu thế tất yếu của nó so với lĩnh vực lưu thông vốn là lĩnh vực chiếm ưu
thế trong thời kỳ phát triển của tư tưởng trọng thương trước đó. Phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển, chưa bộc lộ rõ những mâu
thuẫn của bản thân nó là một cơ sở thực tiễn của trường phái cổ điển tập trung
nghiên cứu các quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, cổ vũ và đề cao ưu
thế của phương thức này. Đặc điểm đó có ảnh hưởng quyết định tới phương
pháp luận nghiên cứu và các quan điểm lý luận của trường phái cổ điển, cả
những thành tựu cũng như những hạn chế lịch sử của trường phái này. Biến
đổi sâu sắc của lý luận cổ điển diễn ra vào đầu thế kỷ XIX chính là do những

thay đổi trong hoàn cảnh lịch sử của sự phát triển phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa lúc đó quy định. Chính sự liên hệ chặt chẽ của lý luận kinh tế
cổ điển với quá trình phát triển thực tiễn của chủ nghĩa tư bản trong một thời
kỳ dài là lý do dể hiểu cắt nghĩa cho một sự thực là trường phái cổ điển nhiều
khi thường được gọi rõ ràng hơn là kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
2.Những đặc điểm chung
3
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Đặc điểm nổi bật về phương pháp luận của kinh tế học cổ điển là việc
chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.
Bước ngoặt này đạt được chủ yếu là nhờ vào kết quả phát triển mạnh mẽ của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đưa tới nhận thức có tính chất cách
mạng rằng, toàn thể giá trị và của cải xã hội được sáng tạo ra từ lĩnh vực sản
xuất vật chất chứ không phải từ lĩnh vực lưu thông như những người trọng
thương trước đó quan niệm.
Về phương pháp nghiên cứu kinh tế học, có thể xem những người cổ
điển là những người lần đầu tiên vận dụng phương pháp trừu tượng hoá để
phân tích các mối quan hệ nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
do đó có thể vạch rõ được nhiều quy luật vận động và phát triển của phương
thức này. Lần đầu tiên phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên được
vận dụng đầy đủ vào việc nghiên cứu các mối quan hệ sản xuất - xã hội vốn là
đối tượng của môn kinh tế học. Phương pháp này của những người cổ điển
được C.Mác đánh giá rất cao và được nhiều nhà kinh tế sau này, trong đó có
cả những nhà nghiên cứu mác xít sử dụng như một công cụ đặc biệt hữu hiệu
để phân tích lý luận kinh tế.
Một đặc điểm khác của kinh tế học cổ điển là lý luận của trường phái
này được xây dựng trên cơ sở một hệ thống các phạm trù và quy luật đặc
trưng cho nền kinh tế hàng hoá và thị trường nói chung, được thể hiện rõ nét ở
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khác với các nhà kinh tế trước đó, các
nhà kinh tế học cổ điển không nghiên cứu riêng rẽ từng phạm trù, khái niệm

mà xây dựng chúng thành một hệ thống, có phạm trù xuất phát, phạm trù cơ
sở và đặt chúng trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đặc biệt lý luận giá trị
được coi là đầy đủ và được nghiên cứu thành công nhất của kinh tế học cổ
điển với một hệ thống phạm trù tương đối khoa học như giá cả, giá trị, lợi
nhuận, tiền công, lợi tức, địa tô….Dựa vào quan niệm đúng đắn về giá trị, các
nhà kinh tế học cổ điển đã giải thích và phân tích nhiều quan hệ kinh tế, các
hiện tượng và quy luật của nền tư bản chủ nghĩa như quy luật cung cầu, quy
4
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…trong một thể thống nhất, thể hiện
rõ tính khoa học, khách quan của quá trình nghiên cứu kinh tế.
Là sản phẩm của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
kinh tế học cổ điển cổ vũ nhiệt thành cho chủ nghĩa tự do trong kinh tế, phản
đối mọi sự tác động bên ngoài vào thị trường tự do. Tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh là lý tưởng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà những người cổ
điển ca ngợi và ủng hộ. Đặc điểm này hay đúng hơn - sự cổ vũ cho tự do
kinh tế - đã từng là cơ sở lý luận cho cả một thời kỳ dài của chính sách đứng
ngoài, không can thiệp vào kinh tế của các nước tư bản. Thái độ của các nhà
kinh tế học cổ điển phủ nhận mọi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế là kết quả đương nhiên của phương pháp luận nghiên cứu, xem xét sự
vận động và phát triển của phương thức sản xuất chỉ đơn thuần do các quy
luật tự nhiên điều tiết, tuyệt đối hoá các quy luật ấy mà không tính tới đặc
điểm lịch sử, cụ thể trong sự phát triển và tác động của chúng.
Đặc điểm bao trùm của kinh tế học cổ điển là tính chất hai mặt trong
phương pháp luận nghiên cứu cũng như mọi quan điểm lý luận của nó. Là
người chứng minh một cách khoa học cho sự phát triển khách quan không thể
phủ nhận được của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời là người
bảo vệ cho trường phái này, với tư cách là phương thức sản xuất vĩnh viễn,
cuối cùng của xã hội loài người. Quan điểm phi lịch sử của các đại biểu kinh
tế học cổ điển trở thành một vật cản thật sự đối với nghiên cứu một cách

khách quan phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đẩy các nhà kinh tế học
của trường phái này tới nhiều mâu thuẫn lý luận không giải quyết được trong
phạm vi thế giới quan của giai cấp tư sản, đặc biệt là đối với những người kế
tục truyền thống của kinh tế học cổ điển vào cuối thế kỷ XIX.
Những đại biểu nổi tiếng của trường phái này trước hết phải kể đến
William Petty (1623-1687) được xem là người sáng lập trường phái kinh tế
học cổ điển nói chung, sau đó là Adam Smith (1723-1790) – linh hồn thật sự
của kinh tế học cổ điển, người thực hiện bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử tư
5
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
tưởng kinh tế của nhân loại và đặc biệt là David Ricacdo (1772-1823) - người
phát triển các tư tưởng kinh tế học cổ điển tới đỉnh cao rực rỡ nhất trước khi
trường phái này bước vào một thời kỳ khủng hoảng. Theo C.Mác, kinh tế
chính trị học tư sản cổ điển bắt đầu từ William Petty và kết thúc ở David
Ricacdo.
II.Vài nét về tiểu sử và phương pháp luận của các nhà kinh tế học cổ
điển.
1.William Petty (1623-1687)
William Petty sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công nhỏ là một
người có nhiều tài năng, học rộng biết nhiều lĩnh vực: vật lý, âm nhạc, cơ khí,
y học… ông cũng đồng thời là một chủ đất một nhà công nghiệp phát đạt.
C.Mác nhận xét Petty là nhà tư tưởng, nhà thực tiễn lớn, là nhà nghiên cứu
kinh tế thiên tài của giai cấp tư sản Anh. C. Mác gọi Petty là cha đẻ của kinh
tế chính trị cổ điển và khoa thống kê dân số
W. Petty viết nhiều tác phẩm như: Bàn về thuế khoá và lệ phí (1662), Lời
nói với những kẻ khôn (1664), Giải phẫu học chính trị ở Ireland (1672), Số
học chính trị (1676), Bàn về tiền tệ (1682).
Trong những tác phẩm đầu tiên, W.Petty còn mang nặng tư tưởng trọng
thương, nhưng trong tác phẩm cuối cùng của ông thì không còn dấu vết của
chủ nghĩa trọng thương.

Về phương pháp luận W.Petty đã áp dụng phương pháp mới về nhận
thức. Trường phái trọng thương chỉ thoả mãn với việc đơn thuần đưa ra
những biện pháp kinh tế hay chỉ miêu tả lại những hiện tượng kinh tế theo
kinh nghiệm. Còn W.Petty đã đi xa hơn, tìm cách giải quyết những hiện
tượng đó. Ông đã tiếp cận với quy luật khách quan. Ông nói: “Trong chính
sách kinh tế cũng như trong y học cần phải tính đến những quá trình tự nhiên,
không nên dùng những hành động cưỡng bức riêng của mình để chống lại
những quá trình đó” .
6
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Tuy vậy ông đã nhầm lẫn coi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản
cũng như quy luật tự nhiên tồn tại vĩnh viễn.
Về thế giới quan triết học, ông chống lại siêu hình nhưng là người theo
chủ nghĩa duy vật tự phát, coi kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức.
Phương pháp trình bày của ông: Xuất phát từ hiện tượng cụ thể phức tạp,
đi đến các hiện tượng trừu tượng. Đó cũng là phương pháp kinh tế học đặc
trưng của thế ký XVII (không phải như C.Mác: đi từ trừu tượng đến cụ thể).
2.Adam Smith (1723-1790)
Adam Smith là nhà kinh tế chính trị học cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên
thế giới. Ông xuất thân từ một gia đình viên chức thuế quan ở một thành phố
nhở xứ Scotland. A.Smith đã học ở trường đại học Glasgrow và Oxford. Sau
khi tốt nghiệp đại học, ông nghiên cứu giảng dạy ở Edinburgh và Glasgrow.
Trong vòng 13 năm ông giảng về thần học, luân lý học, luật học, logic cả văn
học và đặc biệt là kinh tế học. Năm 1759 A. Smith xuất bản cuốn “Lý luận về
những tình cảm đạo đức”. Cuốn sách này làm ông nổi tiếng. Quan điểm kinh
tế của A.Smith lúc đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng nông ở Pháp
trong thời gian ông sinh hoạt ở câu lạc bộ của F.Quesney (1764-1766). Về sau
nhờ vào việc khắc phục những hạn chế của trường phái trọng nông và trong
hoàn cảnh phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp ở Anh, học
thuyết kinh tế của Adam Smith đã được xây dựng một cách có hệ thống, trở

thành nền tảng của lý thuyết cổ điển. Công trình nghiên cứu khoa học lớn
nhất của A.Smith là cuốn sách “Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự
giàu có của các dân tộc” được ông chuẩn bị trong nhiều năm và xuất bản tại
London năm 1976.
A.Smith là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu
tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển kêu gọi tích
luỹ và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư bản
7
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
chủ nghĩa là hợp lý duy nhất. C.Mác coi A.Smith là nhà kinh tế tổng hợp của
công trường thủ công.
Thế giới quan của A.Smith về cơ bản là duy vật. Ông tiến xa hơn những
người trước là tìm hiểu các quy luật kinh tế. Đó là đặc trưng trong phương
pháp luận của ông. Nhưng chủ nghĩa duy vật của ông còn tự phát, máy móc.
Ông còn xa lạ với phép biện chứng.
C.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của A. Smith -
một phương pháp hai mặt mâu thuẫn, trộn lẫn các phần tử khoa học và tầm
thường. Một mặt, đi sâu vào mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản và có thể
nói là đi vào cơ cấu sinh lý của nó, mặt khác, chỉ là mô tả, liệt kê, thuật lại
bằng khái niệm có tính chất công thức những cái biểu hiện bề ngoài đời sống
kinh tế. Hai mặt đó không những chúng không yên ổn bên nhau mà còn xoắn
xuýt lấy nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau.
Phương pháp luận mâu thuẫn, vừa khoa học vừa tầm thường của
A.Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
3.David Ricacdo (1772-1823)
D.Ricacdo sinh tại Anh, trong một gia đình kinh doanh thương nghiệp, sau
đó chuyển sang lĩnh vực buôn bán cổ phiếu và chứng khoán. Là con thứ ba
trong gia đình đông tới 17 con. Ông bị bố từ bỏ với 800 bảng Anh vì đã cưới
người vợ không theo đạo Do Thái. D.Ricacdo sớm phải lặn lội vào cuộc sống,
do đó không có được một học vấn có hệ thống. Sau 12 năm buôn bán cổ

phiếu, ông đã nghỉ việc với tài sản hàng triệu bảng Anh.
Giàu có và địa vị cao, nên sau khi nghiên cứu khoa học tự nhiên (toán
học, vật lý học, địa chất học….) ông chuyển sang nghiên cứu kinh tế chính trị
( từ 1807- 1818). Trong cuộc đời hoạt động khoa học của mình, ông chịu ảnh
hưởng nhiều nhất của A. Smith và T.R. Malthus – nhà kinh tế học tư sản tầm
thường nổi tiếng. Người ta cũng không thể không nói đến J.Mill, một nhà văn
và nhà chính luận có công lao lớn trong việc dẫn dắt D.Ricacdo đến với khoa
8
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
học, giúp ông xuất bản công trình đầu tiên cuốn “Những nguyên lý của kinh
tế chính trị và thuế khoá” (1817). Trong tác phẩm này ông không chỉ phát
triển học thuyết của Adam Smith mà còn chỉ ra những mâu thuẫn của nó.
Thời gian này trung tâm của kinh tế chính trị không phải là vấn đề sản xuất ra
của cải vật chất mà là sự phân phối nó giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội.
D.Ricacdo xác định đúng đối tượng của kinh tế chính trị “Nhiệm vụ chính
của kinh tế chính trị là xác định các quy luật điều khiển của sự phân phối
đó”. Ông đã cố gắng xây dựng và phân tích quy luật phân phối trong nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa: Tiền lương cho công nhân, lợi nhuận cho tư bản và địa tô
cho chủ đất và ông nhấn mạnh rằng phân phối cho giai cấp này giảm xuống
thì phân phối cho giai cấp kia tăng lên.
Về phương pháp luận của D.Ricacdo, C.Mác nhận xét:Nếu A.Smith còn
dao động giữa phương pháp khoa học và tầm thường thì D.Ricacdo nhất quán
kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất:
thời gian lao động quyết định gía trị, tức là lấy lý luận giá trị lao động làm cơ
sở cho toàn bộ học thuyết kinh tế của ông. Ông đã xem xét lại tất cả các phạm
trù kinh tế dưới ánh sáng lý luận giá trị lao động. C.Mác viết: “Việc lấy thời
gian lao động quyết định giá trị làm điểm xuất phát là (là công lao), việc xác
định giá trị bằng thời gian lao động là điểm cơ bản trong học thuyết kinh tế
của D.Ricacdo”.
Ông đã đứng trên lập trường duy vật (chủ nghĩa duy vật máy móc) để đi

trên quy luật kinh tế. Tư tưởng về quy luật khách quan trong sự phát triển
kinh tế đã quán triệt trong toàn bộ học thuyết của ông.
Đặc trưng trong phương pháp luận của ông là muốn trình bày sự vận
động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ông đã tìm hiểu sự phụ thuộc bên
trong của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã sử dụng rộng rãi, thành
thục phương pháp trừu tượng hoá để nắm bản chất các hiện tượng kinh tế, để
nắm quy luật chi phối các hiện tượng đó.
9
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
C.Mác đã đánh giá cao phương pháp này của W. Petty, A.Smith,
D.Ricacdo và cả phái trọng nông nữa, vì học đã nghiên cứu “các quan hệ phụ
thuộc bên trong của các cơ quan sản xuất TBCN” – Bên cạnh đó C.Mác cũng
chỉ ra tính chất hạn chế, tính không triệt để, cho tư bản là vĩnh viễn, cho tiền
tệ là vĩnh cửu và bất biến. Nếu A.Smith trong một chừng mực còn có quan
điểm lịch sử thì D.Ricardo tỏ ra phi lịch sử nghiêm trọng đến mứccho rằng
công cụ đi săn của người nguyên thủy cũng là tư bản. Cũng theo quan điểm
triết học của Anh mà đại biểu là Jeremy Bentham - người đã đề ra luận điểm:
Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội phải là hạnh phúc lớn nhất mà đại đa số có
thể đạt được.
Đặc trưng của duy vật máy móc là nặng về phân tích mặt lượng, phân
tích trong hoàn cảch lịch sử hẹp, khi xem xét các phạm trù kinh tế, không thấy
sự phát sinh của các phạm trù kinh tế. Nếu A.Smith lẫn lộn các giá trị thặng
dư và lợi nhuận thì D.Ricardo cũng không thoát khỏi sai lầm đó, ông đã sa
vào chủ nghĩa kinh nghiệm, vừa triệt để vừa không triệt để.
Tóm lại, C.Mác nhận xét khái quát như sau: ở A.Smith cảm giác nặng
hơn là logic, ở D.Ricardo logic nặng hơn là cảm giác.
III.Những thành tựu và hạn chế về lý luận thu nhập (tiền lương, lợi
nhuận, địa tô) của các nhà kinh tế học cổ điển
Lý luận thu nhập là một trong số những lý luận quan trọng và có nhiều
cống hiến của các nhà kinh tế học cổ điển. Nó vượt xa những quan điểm của

các nhà kinh tế trước đây và là một tiền đề cực kỳ quan trọng cho lý luận thu
nhập của các nhà kinh tế học sau này, cũng như lý luận thu nhập của C.Mác
song bên cạnh những thành tựu về lý luận thu nhập mà các nhà kinh tế học cổ
điển đã đạt được, vẫn còn những hạn chế lịch sử nhất định Dưới đây là
những điểm cơ bản về thành tựu và hạn chế trong lý luận thu nhập của trường
phái tư sản cổ điển.
1.Về lý luận tiền lương
10
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
1.1.Những thành tựu
Các nhà kinh tế học cổ điển, từ W.Petty, đến A.Smith và D.Ricardo đều
lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận tiền lương.
Người công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó, sản xuất
ra một lượng hàng hoá nào đó thì nhận được một số tiền trả công nhất định.
Tiền trả công đó gọi là tiền lương hay tiền công. Các nhà kinh tế học cổ điển
cho rằng, tiền lương gắn với thu nhập có lao động, là giá cả của lao động, là
giá trị tư liệu sinh hoạt dùng để nuôi sống công nhân và gia đình họ. W.Petty
cho rằng tiền công chính là giá cả của hàng hoá lao động và quy mức tiền
công tối thiểu về giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết của người lao động.
Còn theo A.Smith, trong xã hội “nguyên thuỷ”, trước chủ nghĩa tư bản, toàn
bộ sản phẩm thuộc về người lao động. Khi làm việc bằng tư liệu sản xuất và
ruộng đất của mình, người sản xuất nhận được sản phẩm toàn vẹn của lao
động của họ. Nhưng khi sở hữu tư bản chủ nghĩa xuất hiện, người công nhân
trở thành lao động làm thuê, thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị
của sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa, mà chỉ là một bộ phận của giá
trị đó. A.Smith có thể được coi là người đầu tiên xác định một cách chính xác
và toàn vẹn cơ sở của tiền công là giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho đời
sống của người công nhân và gia đình họ. Những tư liệu sinh hoạt này được
đổi bằng lao động của mình trên thị trường. Ông cũng quan niệm được vấn đề
mức tiền công trung bình tương ứng với giá trị của sức lao động (mặc dù ở

ông không có khái niệm này) và nghiên cứu cả giới hạn thấp nhất của nó là
mức tối thiểu về thể chất mà cơ thể đòi hỏi để duy trì sự sống và làm việc
bình thường. Ông còn nhận xét cả sự phụ thuộc của tiền công vào điều kiện
lịch sử, truyền thống của từng nước mà xét đến cùng là do trình độ phát triển
kinh tế của nước đó quy định. Còn với D.Ricardo, ông coi bản thân lao động
(chứ không phải sức lao động) là hàng hoá, do đó giá cả lao động của thị
trường (tức là tiền công) được quyết định bởi giá cả tự nhiên và giao động
xung quanh nó. Về thực chất ông quan niệm giá cả tự nhiên của lao động là
11
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
giá trị sức lao động, bởi vì ông xác định nó bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt
nuôi sống người công nhân và gia đình họ. Ông đã chỉ ra cấu thành tư liệu
sinh hoạt cho người công nhân phụ thuộc vào yếu tố lịch sử, truyền thống dân
tộc.
Bước đầu, các nhà kinh tế học cổ điển đã có sự phân biệt tiền lương thực
tế và tiền lương danh nghĩa tức là giá cả thực tế và giá cả bằng tiền lương của
lao động; và cho rằng, tiền lương phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu về lao
động và giá cả trung bình của lương thực. W.Petty thừa nhận rằng công nhân
chỉ nhận được một phần ít ỏi trong tổng số giá trị mà họ tạo ra. Phần còn lại
đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đó chính là cơ sở để các nhà kinh tế vạch rõ cơ
sở bóc lột công nhân làm thuê, là mầm mống phân tích giá trị thặng dư sau
này. Ông cũng đã đi sâu phân tích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa tiền
lương và giá cả lúa mì (giá trị tư liệu sinh hoạt) ông rút ra kết luận: tiền lương
tỷ lệ nghịch với giá cả lúa mì (giá trị tư liệu sinh hoạt). Kết luận này hoàn
toàn trái ngược với kết luận của C.Mác: tiền lương tỷ lệ thuận với giá trị sức
lao động. Như vậy, mặc dù có sai lầm, song W.Petty đã nêu được cơ sở khoa
học của tiền lương là giá trị của các tư liệu sinh hoạt. A.Smith đã xem xét
những nguyên nhân khác nhau có tính chất nghề nghiệp trong tiền công và
ông còn cho rằng tiền công của loại công nhân bậc thấp là do hai nhân tố
quyết định, đó là: Lượng cầu về lao động và giá cả thông thường hay trung

bình của lương thực. Ông khẳng định chắc chắn rằng thị trường tự do là cái
quyết định và điều tiết tiền công ở một mức độ nhất định và ông quan tâm đến
việc làm thế nào để hạn chế sự chênh lệch giữa tiền công thực tế và tiền công
danh nghĩa. A.Smith lập luận rằng: tiền công tăng lên sẽ dẫn đến chỗ sinh đẻ
nhiều, làm tăng số cung về lao động và từ đó dẫn đến chỗ làm tăng sự cạnh
tranh của lao động. Sự cạnh tranh đó đến lượt nó lại làm giảm mức tiền công
và kéo theo sự giảm sinh đẻ, số cung về lao động lại giảm đi và sự cạnh tranh
trên thị trường lao động cũng giảm bớt căng thẳng - điều này cuối cùng lại
đưa đến kết quả là mức tiền công tăng lên. Đó là một quy luật vận động của
12
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
tiền lương trong cơ chế tự do cạnh tranh mà A.Smith đã nhận xét được. Xét
về nhiều mặt, đây rõ ràng là một đóng góp có nhiều ý nghĩa của ông. Với
D.Ricardo, ông chịu ảnh hưởng của quy luật về nhân khẩu của Thomas
Robert Mathus. Do đó ông cho rằng tiền công cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng
nhanh, dẫn đến cung về lao động lớn hơn cầu về lao động, làm cho tiền công
phải hạ xuống, đời sống công nhân xấu đi là kết quả tất yếu của việc tăng
nhân khẩu. Một trong những công lao to lớn của ông là đã phân tích được tiền
công thực tế và xác định nó như là một phạm trù kinh tế. Ông nhấn mạnh rằng
lượng hàng hoá người công nhân mua được bằng tiền công, chưa quyết định
địa vị xã hội của người đó, sự quyết định tình cảnh của công nhân phụ thuộc
vào mối tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận. Ông cũng cho rằng tiền
lương phụ thuộc vào giá cả trung bình của lương thực, ông quan niệm mối
liên hệ trực tiếp giữa giá cả bánh mỳ và mức tiền công như sau: nếu giá bánh
mỳ tăng lên mà tiền công không tăng thì công nhân sẽ đói và chết.
Tiến bộ hơn chủ nghĩa trọng nông, A.Smith đã chia xã hội tư bản thành
ba giai cấp: giai cấp địa chủ là người chiếm hữu ruộng đất; các nhà tư bản
công nghiệp, thương nghiệp và giai cấp công nhân làm thuê. Công lao của
ông là ở chỗ đã gắn ba giai cấp với ba hình thức thu nhập. Mỗi giai cấp sẽ
nhận được một bộ phận thu nhập tương ứng từ trong tổng thu nhập của xã hội.

Giai cấp chiếm hữu ruộng đất địa tô, giai cấp các nhà tư bản nhận được lợi
nhuận, công nhân nhận được tiền lương.
D.Ricardo đã nêu được những kết luận hợp lý về quan hệ giữa tiền lương
với lợi nhuận và năng suất lao động; khi năng suất lao động tăng thì tiền
lương giảm và lợi nhuận tăng. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương là trình
độ phát triển kinh tế, điều kiện sản xuất và điều kiện đào tạo (lao động phức
tạp phải có tiền lương lớn hơn lao động giản đơn), rằng giá trị được tạo ra
gồm hai bộ phận: tiền lương và lợi nhuận.
1.2 Những hạn chế
13
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Các nhà kinh tế học cổ điển còn lẫn lộn giữa khái niệm lao động và sức
lao động. Các ông đều cho rằng, tiền lương là giá cả của lao động (chứ không
phải sức lao động). Sau này, dựa trên lý thuyết giá trị - lao động, C.Mac chỉ ra
là sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì lao
động không phải là hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Sở dĩ như
vậy là vì:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật
hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động có thể “vật
hoá được là phải có tư liệu sản xuất”. Nhưng nếu người lao động có tư liệu
sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất, chứ không phải bán “lao
động”. Vì vậy lao động không phải là hàng hoá, nó không thể có trước khi
người công nhân bán cho nhà tư bản. Công nhân không thể bán cái mà anh ta
không có.
Thứ hai, việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu
thuẫn về lý luận sau đây: nếu lao động là hàng hoá thì nó phải được trao đổi
ngang giá. Nhưng nếu được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu được
lợi nhuận (giá trị thặng dư). Điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật
giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn nếu hàng hoá lao động được trao
đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận

quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.
Thứ ba, nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy giá trị của lao động
lại được đo bằng lao động là một điều luẩn quẩn, vô nghĩa.
Vì thế, lao động không phải là hàng hoá. Cái mà công nhân bán cho nhà
tư bản và cái mà nhà tư bản mua của người công nhân chính là sức lao động.
Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá trị của sức lao động.
Từ đó ông chỉ ra bản chất của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là giá trị hay
14
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá
cả của lao động.
Khi phân tích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa tiền lương và giá cả
lúa mỳ (giá trị tư liệu sinh hoạt), W.Petty đã rút ra kết luận: tiền lương tỷ lệ
nghịch với giá cả lúa mỳ (giá trị tư liệu sinh hoạt). Kết luận này hoàn toàn trái
ngược với kết luận của C.Mac. C.Mac cho rằng: tiền lương tỷ lệ thuận với giá
trị sức lao động.
Cả W.Petty và D.Ricardo đều cho rằng phải trả lương nhỏ hơn mức tối
thiểu các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho đời sống của công nhân và gia đình
họ,buộc họ luôn phụ thuộc vào nhà tư bản. Theo W.Petty, việc duy trì mức
lương cao cho công nhân thường làm họ trở nên lười biếng hơn. Chính đề
nghị của ông duy trì mức tiền lương tối thiểu lại được xem là đã đặt nền móng
cho lý thuyết “quy luật sắt về tiền lương”. Còn D.Ricardo coi việc tiền công
bị giữ ở mức chết đói không phải là do các quy luật đặc thù của chủ nghĩa tư
bản mà do các quy luật tự nhiên có ý nghĩa phổ biến. Chỉ có trong những
hoàn cảnh đặc biệt, thuận lợi nhất, khả năng tăng cường các lực lượng sản
xuất mới vượt qua mức tăng dân số. Còn trong điều kiện bình thường thì một
khối lượng đất đai có hạn cùng với sự giảm sút doanh lợi của việc đầu tư tư
bản sẽ dẫn đến chỗ làm năng suất của đất đai tụt xa so với mức tăng dân số.
Lúc đó một cơ chế điều chỉnh tự nhiên sẽ phát huy tác dụng: tiền lương thấp

hơn giá cả lao động sẽ hạn chế mức tăng dân số. A.Smith không quan niệm
như vậy, ông cho rằng cần phải trả lương cao, vì từ việc làm đó sẽ chứa đựng
yếu tố làm giảm mức lương. Bởi vì, việc trả lương cao sẽ dẫn đến tình trạng
cung về lao động lớn hơn cầu về lao động, lúc đó lại có thể giảm tiền lương.
Hơn nữa, theo mức lương cao sẽ khuyến khích công nhân làm việc tốt hơn.
Ông kiến nghị không nên duy trì “quy luật sắt” về tiền lương mà để nó tự điều
tiết. Theo ông, “tiền lương cao vốn là hậu quả của việc tăng của cải, đồng
thời cũng là nguyên nhân tăng dân số”.
15
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Theo tư tưởng của T.R.Malthus, D.Ricardo kêu gọi nhà nước đừng can
thiệp vào thị trường lao động. Ông cũng chống lại việc giúp đỡ một cách tạm
bợ cho người nghèo. Theo ông, điều đó sẽ cản trở sự hoạt động của các quy
luật tự nhiên và nếu nâng đỡ số người nghèo ở một mức độ vô lý, thì sẽ hạn
chế việc cải thiện đời sống của công nhân nói chung.
2. Về lý luận lợi nhuận
2.1 Những thành tựu
Kinh tế chính trị học tư sản chưa bao giờ có thể giải thích một cách khoa
học bản chất và nguồn gốc thu nhập của các giai cấp bóc lột. Những người
đầu tiên lý giải về lợi nhuận là những người trọng thương. Xuất phát từ quan
niệm trao đổi, họ cho rằng lợi nhuận sinh ra từ lĩnh vực lưu thông, bởi vì nhờ
ngoại thương, thương nhân đem bán hàng hoá ra nước ngoài với giá cao hơn
giá họ mua. Song, như Ph.Ănghen đã lưu ý:” Trong trường hợp đó, cái mà
người này được là cái mà người khác nhất định phải mất”. Do đó, lợi nhuận
không thể xuất hiện tư lưu thông hàng hoá, bởi vì trong quá trình này chỉ diễn
ra sự thay thế hình thái giá trị mà thôi. Công lao đáng kể của những người
trọng nông là ở chỗ, họ coi vấn đề nguồn gốc giá trị thặng dư không phải từ
lĩnh vực lưu thông mà từ lĩnh vực sản xuất. Song do tính hạn chế giai cấp, họ
không thể giải quyết đúng đắn vấn đề này. Những người trọng nông cho rằng,
giá trị thặng dư chỉ được tao ra trong nông nghiệp, bởi vì trong ngành này tác

động của lực lượng tự nhiên dẫn đến kết quả tăng những giá trị sử dụng vượt
quá chi phí sản xuất. Đến những nhà cổ điển của kinh tế chính trị học tư sản
đã có những đóng góp quan trọng vào việc lý giải nguồn gốc giá trị thặng dư.
Theo quan điểm của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển thì lợi nhuận là
do lao động của công nhân (cả trong nông nghiệp và công nghiệp) tạo ra mà
họ không được trả công. Theo C.Mac đây là thành tựu của kinh tế chính trị tư
sản trong thời kỳ tiến bộ của nó. Theo A.Smith lợi nhuận là “khoản khấu trừ
thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Theo cách giải thích của A.Smith thì lợi
16
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư.
C.Mac đánh giá cao A.Smith đã “nêu được nguồn gốc thật sự của giá trị
thặng dư đẻ ra từ lao động ”. Chúng đều có nguồn gốc chung là lao động
không được trả công của người công nhân. A.Smith mô tả như sau: công nhân
chỉ được nhận một phần nào đó (dưới dạng tiền công) giá trị tao ra từ lao
động và bằng một lượng lao động nhất định của mình, phần tăng thêm do
công nhân làm ra thì biến thành lợi nhuận của các nhà tư bản, trong đó một
phần đem đi trả dưới dạng địa tô (nếu phải thuê đất) và lợi tức (nếu phải vay
tiền). Khác với chủ nghĩa trọng nông, A.Smith cho rằng không chỉ có lao
động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận.
D.Ricardo xem lợi nhuận là phần giá trị ngoài tiền công. Ông chưa biết đến
phạm trù giá trị thặng dư, nhưng trước sau nhất quán quan điểm cho rằng giá
trị là do công nhân tao ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Về điểm này
theo C.Mac nhận xét “so với A.Smith thì D.Ricardo đã đi xa hơn nhiều”. Ông
coi lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân.
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng lợi nhuận là bóc lột, nó tỷ lệ nghịch
với tiền lương của công nhân. A.Smith khẳng định một cách dứt khoát rằng
lợi nhuận là một loại thu nhập mang tính chất bóc lột chứ không phải là một
dạng tiền công trả cho người lao động trông coi và quản lý xí nghiệp. Quy mô
của nó được quyết định không phải bằng khối lượng hay sự nặng nhọc và

phức tạp của loại lao động nói trên (như một số người khẳng định) mà bởi
quy mô của tư bản sử dụng thực tế. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công
và lợi nhuận. Với D.Ricardo, bởi vì giá trị hàng hoá được ông quy về các thu
nhập cho nên tiền công và lợi nhuận tỷ lệ nghịch với nhau.
Trường phái cổ điển đã nhận biết được xu hướng hình thành lợi nhuận
bình quân và xu hướng giảm tỷ suất lợi nhuận. Nghiên cứu vấn đề lợi nhuận,
A.Smith cũng phát hiện được xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận cũng
như xu hướng san bằng của nó giữa các ngành sản xuất khác nhau. Ngoài ra
ông còn nhận xét được cả sự liên quan giữa việc giảm sút tỷ suất lợi nhuận
17
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
với việc giảm sút tỷ suất lợi tức, hơn nữa ông cho rằng mức lợi nhuận và lợi
tức thấp là biểu hiện của sự phát triển kinh tế và phồn vinh của dân tộc. Theo
ông, tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp. D.Ricardo đã có
những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân, ông cho rằng những nhà tư
bản có đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Ông cũng đã thấy
xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm
sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ, công
nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng, do quy luật màu mỡ đất đai ngày càng
giảm, giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng
lên, còn lợi nhuận không tăng. Như vậy, địa chủ là người có lợi, công nhân
không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư bản có hại, vì tỷ suất lợi nhuận
giảm xuống.
2.2.Những hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành công về lý luận lợi nhuận nhưng các
nhà kinh tế học cổ điển vẫn còn có một số hạn chế.
Các ông chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng
dư. Ở A.Smith, rõ ràng là không có sự phân biệt giữa hình chung, trừng tượng
của lợi nhuận với các hình thái biểu hiện cụ thể của nó. Chính việc không có
một khái niệm khoa học về giá trị thặng dư đã làm cho việc nghiên cứu lợi

nhuận của ông không có cơ sở chắc chắn. D.Ricardo do không hiểu tính chất
đặc thù của lợi nhuận với tính cách là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư
nên đã đồng nhất lợi nhuận với giá trị thặng dư. Theo C.Mác, giá trị thặng dư
là lao động không công của người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất.
Nó là bản chất. Còn lợi nhuận là hình thái biểu hiện ra bên ngoài xã hội của
giá trị thặng dư. Về mặt thực chất, giá trị thặng dư và lợi nhuận có cùng một
nguồn gốc thống nhất. Đó là lao động không công của người công nhân.
Nhưng về mặt số lượng giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư có thể có sự không
ăn khớp, tuỳ theo quan hệ mua bán, trao đổi trên thị trường.
18
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Thêm vào đó, các ông cũng chưa phân tích rõ nguồn gốc của lợi nhuận.
Mặc dù đã nêu ra được nguồn gốc của lợi nhuận nhưng do không nhất quán
trong việc xác định nguồn gốc của giá trị, A.Smith cũng không nhất quán
trong việc các định nguồn gốc của giá trị, ông cũng không nhất quán trong
việc xác định nguồn gốc của lợi nhuận. Một mặt, ông cho nó là do lao động
của công nhân tạo ra; mặt khác, như tất cả lý luận gia tư sản khác, ông coi nó
là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Đây là một quan điểm không khoa
học. Do đó, bản chất đúng đắn của lợi nhuận đã bị xuyên tạc, và tính chất bóc
lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bị xoá nhoà. Khuynh hướng
san bằng tỷ suất lợi nhuận mà A.Smith nhận xét trên đây là do kết quả của sự
quan sát thực tế và do sai lầm trong việc xác định nguồn gốc thật sự của lợi
nhuận đưa lại. Hơn nữa chính phạm trù lợi nhuận cũng không được ông định
nghĩa một cách nhất quán. Còn D.Ricardo, do không hiểu sự khác nhau giữa
sức lao động và lao động nên ông không thể giải thích được nguồn gốc của lợi
nhuận trên quan điểm quy luật giá trị.
A.Smith cũng không giải quyết được vấn đề lợi nhuận bình quân. Ông
không xác định nổi quan hệ giữa quy luật lợi nhuận bình quân và quy luật giá
trị. Theo quy luật sau thì giá trị mới, và do đó, là lợi nhuận, phải tỷ lệ với số
lượng công nhân làm việc. Nhưng trong thực tế thì lợi nhuận lại tỷ lệ với

lượng tư bản ứng trước. Đứng trên quan điểm siêu hình, A.Smith không khám
phá được sự chuyển biến giá trị thành giá cả sản xuất, không vạch ra được chỗ
khác nhau giữa việc sản xuất giá trị thặng dư (tỷ lệ với tư bản khả biến) và
quá trình phân phối giá trị thặng dư giữa các chủ tư bản, phù hợp với lượng tư
bản ứng trước. Cũng như A.Smith, D.Ricardo không làm sáng tỏ được mối
quan hệ giữa lợi nhuận bình quân và quy luật giá trị, cho nên đã cho rằng,
giữa chúng tồn tại một mâu thuẫn. Ông không giải thích được vì sao lợi nhuận
lại biến thành thành lợi nhuận bình quân, còn giá trị thì biến thành giá cả sản
xuất. C. Mác nhận xét rằng trong q úa trình cạnh tranh giữa các ngành sản
xuất, sự tự do di chuyển giữa tư bản từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang
19
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
ngành tỷ suất lợi nhuận cao dẫn đến xu hướng san bằng tỷ suất lợi nhuận giữa
các ngành, hình thành nên lợi nhuận bình quân. Đó là lợi nhuận mà tư bản thu
được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận chung và lượng tư bản đầu tư của ngành.
Căn cứ vào lợi nhuận bình quân các nhà sản xuất bán hàng hóa theo giá cả sản
xuất. Đó là giá cả sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Về lý thuyết, giá cả
hàng hóa xoay quanh giá cả của nó. Nhưng trong thực tế, tự do cạnh tranh
kinh tế, giá cả hàng hóa trên thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Sự hình
thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất phản ánh sự phân chia lại giá cả
thặng dư và giá cả hàng hóa giữa các ngành, đảm bảo sự bình đẳng trong đầu
tư giữa các ngành sản xuất. Ông cũng không đúng khi cho rằng, trong chủ
nghĩa tư bản, các hàng hóa được bán theo giá trị trung bình của chúng.
D.Ricardo còn xem xét lợi nhuận bằng con mắt phi lịch sử của mình. Cơ sở
của việc quan niệm này là việc ông coi tư bản như là một phạm trù tự nhiên,
vĩnh viễn. Ông nói rằng, vì tư bản là các tư liệu sản xuất và tất cả mọi chi phí
để trả cho công nhân nên nó tồn tại từ chế độ nguyên thuỷ, trong tay những
người thợ săn và những người đánh cá.
3. Về lý luận địa tô
3.1 Những thành tựu

Các nhà kinh tế học cổ điển đã xây dựnglý luận địa tô trên cơ sở lý luận
giá trị lao động.
W.Petty hiểu được thực chất của địa tô là sản phẩm thặng dư, tức là phần
vượt ra ngoài các chi phí tiền công cho lao động của lĩnh vực nông nghiệp.
Theo A.Smith, khi ruộng đất trở thành sở hữu tư nhân thì địa tô chỉ là
“khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động”. Ông coi địa tô như là “tiền
trả cho việc sử dụng đất đai”. Như vậy, ông đã phát hiện điều quan trọng: Độc
quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô.A.Smith cho rằng “quy
mô của địa tô nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm”, ông coi địa tô là
kết quả của giá cả độc quyền.Ông đã phân biệt được địa tô và tiền tô. Theo
20
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
ông, tiền tô bằng địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất đai. Điều này
tiến bộ hơn phái trọng nông, vì phái trọng nông cho rằng, toàn bộ sản phẩm
thuần tuý là do tự nhiên mang lại. Theo cách giải thích của ông thì địa tô là
hình thái của giá trị thặng dư.Ông cũng đã phân biệt được địa tô chênh lệch
do màu mỡ đất đai và vị trí địa lý của đất đai đưa lại. Một trong những công
lao lớn của A.Smith là đã chỉ ra mức địa tô trên mảnh ruộng là do thu nhập
của mảnh ruộng đó đưa lại, và chỉ ra một cách tài tình rằng địa tô trên những
ruộng canh tác cây chủ yếu (cây lương thực và thức ăn cho súc vật) quyết
định địa tô trên ruộng trồng cây khác.
C.Mác đã đánh giá rất cao lý luận địa tô của A.Smith, song C.Mác cho
rằng, D.Ricardo phân tích xuất sắc hơn. Lý luận về địa tô của D.Ricardo là
một sự kiện lớn trong lịch sử kinh tế chính trị. Ông bác bỏ lý luận địa tô và
sản vật của những lực lượng tự nhiên hoặc do năng suất lao động đặc biệt
trong nông nghiệp mang lại mà nó có nguồn gốc từ chính lao động đã bỏ vào
đất đai trong điều kiện có chiếm hữu nhất định đưa lại. Ông hoàn toàn dựa
vào quy luật giá trị để giải thích địa tô, nhấn mạnh rằng địa tô hình thành
không ngược với quy luật giá trị mà theo quy luật giá trị. D.Ricardo cho rằng,
giá trị nông sản phẩm hình thành trên điều kiện ruộng đất xấu nhất, vì ruộng

đất là yếu tố có giới hạn nên xã hội phải canh tác cả trên ruộng đất xấu. Ông
lập luận rằng, do “đất đai canh tác hạn chế”, độ màu mỡ đất đai giảm sút,
“năng suất đầu tư bất tương xứng”, trong khi đó, dân số tăng nhanh làm cho
nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến trong mọi xã hội. Điều này buộc
xã hội phải canh tác trên ruộng đất xấu. Vì canh tác trên ruộng đất xấu, nên
giá trị nông sản phẩm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu nhất quyết định.
Do đó tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình thu được lợi nhuận
siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa chủ và gọi là địa tô.
Như vậy là khi người ta bắt đầu canh tác những đất đai màu mỡ loại hai (tức
là kém màu mỡ hơn) thì địa tô sẽ xuất hiện ngay lập tức trên mảnh đất loại
21
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
một. Ông phê phán tính chất ăn bám của địa chủ không tham gia sản xuất
nhưng lại thu địa tô nhân danh quyền sở hữu ruộng đất.
Cũng như A.Smith, D.Ricardo đã phân biệt được địa tô và tiền tô. Địa tô
là việc trả công cho những khả năng thuần tuý tự nhiên. Ngoài địa tô, tiền tô
còn bao gồm cả lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất. Theo ông, địa tô và
tiền tô phục tùng những quy luật khác nhau và thay đổi theo chiều hướng
ngược nhau.
3.2. Những hạn chế
Ở A.Smith còn có những hạn chế về lý luận địa tô. Giống như những
người trọng nông ông cho rằng bản chất đất đai chẳng những có giá trị sử
dụng mà còn có vai trò đặc biệt trong việc tạo ra giá trị trao đổi. Điều đó có
nghĩa là ông gắn cho địa tô một đặc tính vĩnh viễn, phi lịch sử. Ông còn
chứng minh lợi ích của chủ đất phù hợp với lợi ích xã hội. Ông chưa hiểu
được một cách đúng đắn sự chuyển hóa lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô. Sau
này C. Mác đã lý giải bản chất và nguyên nhân lợi nhuận siêu ngạch hình
thành nên địa tô chủ nghĩa mà vấn đề then chốt là do đặc điểm khác nhau giữa
thời gian lao động xã hội cần thiết trong nông nghiệp khác với trong công
nghiệp. A.Smith bị khống chế bị tư duy sai lầm là giá cả tự nhiên của hàng

hóa do các nguồn thu nhập quyết định, điều đó dẫn đến những kết luận trái
ngược nhau (trước kia địa tô được coi là yếu tố cấu thành của giá cả tự nhiên,
sau đó lại coi nó như một khoản dôi ra ngoài giá cả tự nhiên; trước coi địa tô
là nguyên nhân của giá cả, sau đó lại coi nó là hậu quả của giá cả). A.Smith
chưa hiểu được địa tô chênh lệch II và phù nhận địa tô tuyệt đối do ảnh hưởng
của phái trọng nông. Về sau C. Mác đã vượt qua được hạn chế này và phát
hiện ra địa tô chênh lệch II và địa tô tuyệt đối. Dựa trên lý luận lợi nhuận bình
quân và giá cả sản xuất, C.Mác cho rằng, địa tô không phải là tặng vật của tự
nhiên mà nó lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân do công nhân
nông nghiệp tạo ra bị nhà tư bản chiếm và nộp cho địa chủ. Địa tô tư bản chủ
nghĩa được biểu hiện dưới hai hình thức: Địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
22
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
Trong địa tô chênh lệch có địa tô chênh lệch I và II. A.Smith còn cho rằng:
năng suất lao động nông nghiệp cao hơn năng suất lao động công nghiệp vì
trong nông nghiệp có sự giúp đỡ của tự nhiên
Còn với D.Ricardo ta dễ dàng nhận thấy một thiếu sót cơ bản của ông là
việc phủ nhận địa tô tuyệt đối - địa tô thu được ngay trên những mảnh đất xấu
nhất, là một điều tồn tại hiển nhiên trên thực tế. Ông còn đồng nhất địa tô
chênh lệch II với lợi nhuận của tư bản. Việc ông phủ nhận địa tô tuyệt đối là
vì ông chưa biết đến cấu tạo hữu cơ (C/V), không thấy tính quy luật cấu tạo
hữu cơ trong công nghiệp thường lớn hơn cấu tạo hữu cơ trong nông nghiệp
và vì thế nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là phủ nhận quy luật giá trị. Thiếu sót
này như chúng ta đã biết, đã được C.Mác khắc phục một cách toàn diện trong
công trình nghiên cứu của mình sau này. Cái sai của D.Ricardo là ông đã gắn
lý luận địa tô với quy luật ruộng đất sinh lời ngày càng giảm đã từng bị phê
phán trong kinh tế chính trị học (Turgot, Multhus). Người ta cũng nhận ra
rằng, trong sự phân tích của D.Ricardo cái ảnh hưởng của quy luật màu mỡ
đất đai ngày càng giảm mà T.Multhus đưa ra,cường điệu quá mức vai trò của
các mảnh đất xấu và bỏ qua khả năng thực tế mà tiến bộ khoa học kỹ thuật có

thể đưa lại cho việc cải thiện đất đai canh tác. Ngoài ra việc D.Ricardo xem
địa tô là một vấn đề phi lịch sử cũng bộc lộ rõ hạn chế của thế giới quan tư
sản của ông, người bảo vệ tư tưởng thành tâm cho chủ nghĩa tư bản.
4.Về giả cả ruộng đất
4.1.Những thành tựu
Thành công chủ yếu của họ là đã dùng lý luận giá trị để giải thích giá cả
ruộng đất.Họ cho rằng, giá cả ruộng đất là địa tô tư bản hoá. Bán ruộng đất có
nghĩa là bán quyền thu địa tô.Vì vậy địa tô là căn cứ để tính giá bán ruộng
đất.W.Petty đã xác định giá cả ruộng đất rất độc đáo. Theo ông nếu gọi R là
mức địa tô do môt mảnh đất mang lại thì giá trị mảnh đất này sẽ bằng 20xR.
Con số 20 được ông giải thích là số chênh lệch về tuổi tác giữa ba thế hệ: ông
23
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
47 tuổi, cha 27 tuổi, con 7 tuổi, cùng đồng thời là số năm mà ba thế hệ này
sống chung.
4.2. Những hạn chế
Cách xác định giá cả ruộng đất của W.Petty chưa đầy đủ,và không có cơ
sở lý luận chắc chắn.Sau này,C.Mac đã tính như sau:
Địa tô
Giá cả ruộng đất = 100%
Lợi tức
TỔNG KẾT
Mặc dù trường phái kinh tế học tư sản cổ điển tồn tại không lâu nhưng
không ai có thể phủ nhận được những đóng góp lớn lao của nó. C.Mác đã
nhận xét, khoa học thực sự của nền kinh tế học hiện đaị chỉ thực sự bắt đầu
khi trọng tâm của việc nghiên cứu được chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang
lĩnh vực sản xuất. Riêng trong lý luận thu nhập, các ông cũng đã có những
cống hiến xuất sắc về lý luận tiền lương, lý luận lợi nhuận, và lý luận địa
tô.Ta có thể tổng kết lại những thành tựu nổi bật trong lý luận tiền lương của
các nhà kinh tế học cổ điển như: các ông đã lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho

lý luận tiền lương; và cho rằng tiền lương gắn với thu nhập có lao động, là giá
cả của lao động là giá trị tư liệu sinh hoạt dùng để nuôi sống công nhân và gia
đình họ.Bước đầu họ đã có sự phân biệt tiền lương thực tế và tiền lương danh
nghĩa; họ cho rằng tiền lương phụ thuộc vào quan hệ cung – cầu về lao động
và giá cả trung bình của lương thực,còn trong lý luận về lợi nhuận họ đã rút ra
được các kết luận quan trọng như: Lợi nhuận là do lao động của công nhân
(trong cả công nghiệp và nông nghiệp) tạo ra mà họ không được trả công; lợi
nhuận là bóc lột, nó tỷ lệ nghịch với tiền lương của công nhân; họ nhận biết
24
Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế
được xu hướng hình thành lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm tỷ suất lợi
nhuận. Và ở lý luận địa tô, những đóng góp của các nhà kinh tế học cổ điển
thể hiện ở việc xây dựng lý luận địa tô trên cơ sở lý luận giá trị lao động; và
cho rằng địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động và điều
kiện có chiếm hữu địa tô là quyền tư hữu ruộng đất; phân biệt được điạ tô
chênh lệch do mảnh ruộng đó đem lại (Adam Smith); D.Ricardo đưa ra được
kết luận đúng đắn rằng: giá trị nông sản được hình thành trong điều kiện trong
ruộng đất xấu nhất.Bởi vậy, tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình
sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt
được, trong lý luận thu nhập của ông cũng bộc lộ những hạn chế như còn lẫn
lộn khái niệm lao động và sức lao động trong lý luận tiền lương, W.Petty và
D.Ricardo ủng hộ lý thuyết sắt về tiền lương, cho rằng phải trả lương nhỏ hơn
mức tối thiểu các tư liệu cần thiết cho đời sống của công nhân và gia đình họ
nhằm buộc họ luôn phụ thuộc vào nhà tư bản.Trong lý luận về lợi nhuận, các
nhà kinh tế học cổ điển chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá
trị thặng dư, chưa phân tích rõ nguồn gốc của lợi nhuận. Hạn chế trong lý luận
địa tô thể hiện ở việc các ông coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn và phi lịch sử,
chưa hiểu đầy đủ và đúng đắn địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt
đối nhưng suy cho cùng những hạn chế của trường phái kinh tế tư sản cổ
điển là do điều kiện khách quan của lịch sử quy định.Giai đoạn các ông sống

là giai đoạn mà chủ nghĩa tư bản phát triển rưc rỡ và chưa bộc lỗ rõ những
mâu thuẫn và hạn chế của nó. Bởi vậy các ông vẫn có khuynh hướng ủng hộ
chủ nghĩa tư bản.
Nghiên cứu lý luận thu nhập của trườg phái kinh tế tư sản cổ điển,chúng
ta thấy được cả những ưu điểm và khuyết điểm, những thành tựu cũng như
hạn chế trong lý luận của các ông. Nhưng nó cũng chính là tiền đề quan trọng
cho các nhà kinh tế học sau này kế thừa và phát triển./.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy cô và các bạn!
25

×