Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận Sự khác biệt giữa hệ tư tưởng thời Lý, Trần và Lê sơ. Hệ quả của nó.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.82 KB, 15 trang )

Sự khác biệt giữa hệ tư tưởng thời Lý, Trần và Lê sơ. Hệ quả
của nó.

Bài làm
Có nhà tư tưởng nói: “một dân téc phát triển không thể không
có lý luận của mình”. Việt Nam trong lịch sử là một nước văn
minh nên không thể không có lý luận. Hệ tư tưởng triết học của
Việt Nam đã là các quan niệm về đường lối trị nước, về trị loạn, về
quan hệ vua dân, về thành bại (tư tưởng chính trị xã hội); quan
niệm về bản chất con người, về đạo làm người, về chuẩn mực đạo
đức của con người (tư tưởng về con người). Hệ tư tưởng Việt
Nam trải qua một quá trình vận động và phát triển, bị thực tiễn
lịch sử Việt Nam chi phối nên không thể không mang những nét
đặc trưng, khác biệt. Trong phạm trù của chủ nghĩa phong kiến,
cùng với sự trưỏng thành của chế độ phong kiến và giai cấp phong
1
kiến Việt Nam (Lý, Trần, Lê sơ) Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo
đã phát triển thành một hệ thống, là mét trong những nguồn gốc
của tư tưởng triết học Việt Nam. Chúng có vai trò rất lớn trong sự
phát triển của tư tưởng dân téc và đã để lại những dấu Ên sâu sắc
cho các giai đoạn tư tưởng sau thời kỳ phong kiến. Đây là thời kỳ
mà các khuynh hướng tư tưởng ở Việt Nam phát triển một cách
sôi nổi đấy sinh lực và hào khí của một dân téc đã giành được độc
lập tự chủ. Tuy nhiên hệ tư tưởng thời Lý, Trần và Lê sơ lại có
những điềm khác biệt do hoàn cảnh lịch sử khác nhau chi phối và
để lại hậu quả trên nhiều phương diện. Song người viết chỉ đi đi
sâu vào tập trung phân tích hệ quả của tư tưởng liên quan đến liên
quan đến vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước.
1. Hệ tư tưởng thời Lý, Trần và hệ quả:
Vào những năm 40 của thế kỷ X, phong trào giải phóng dân
téc bền bỉ của nhân dân Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc


và giành được thắng lợi hoàn toàn. Vương triều Ngô được xác lập,
tiếp theo là nhà Đinh và Tiền Lê. Đây là cơ sở ban đầu rất cần thiết
2
cho sự tồn tại và chấn hưng của một quốc gia độc lập. Xuất phát từ
cơ sở đó mà từ thời Lý và trong suốt hai triều đại Lý, Trần nước ta
đã có những bước tiến dài trong công cuộc xây dựng đất nước và
thịnh vượng trên nhiều mặt. Và sự phát triển của hệ tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ X-XIV phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị
văn hoá của đất nước, phụ thuộc vào những di sản của quá khứ. Từ
đó qui định kết cấu hệ tư tưởng trong xã hội nước ta lúc này là
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo với những vị trí nhất định trong
những hoạt động về tư tưởng và văn hoá của nhân dân.
Đến thế kỷ X, Phật giáo đã có những bước phát triển lớn.
Nhiều chùa chiền xuất hiện. Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng là
người Việt. Lúc bấy giê Thiền tông là tông phái chủ yếu ở nước ta.
Ngay sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách thống trị của bọn
phong kiến phương Bắc và thực sự bước vào thời kỳ độc lập tự chủ
thì Phật giáo nước ta đã có một vị trí quan trọng trong đời sống xã
hội. Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất do đó có một cơ sở
kinh tế nhất định. Lúc Êy nho sĩ còn thưa thít cho nên nhà chùa
3
cũng là nơi đào tạo ra những sư tăng giữ vai trò là những phần tử
trí thức của thời đại. Từ thời Ngô đến thời Lý, Trần, Phật giáo đã
để lại dấu Ên trên các mặt văn hoá tinh thần của đất nước. Nó có
ảnh hưởng rõ rệt tới thơ văn và nghệ thuật nhất là kiến trúc và điêu
khắc. Qua sinh hoạt văn hóa và nghi lễ của nhà chùa, Phật giáo còn
tác động đến tư tưởng, tâm lý, phong tục và nếp sống của đông đảo
nhân dân ở các làng xã. Không những thế các cao tăng còn tham
gia chính sự ở triều đình, chính kiến của họ không khỏi chịu ảnh

hưởng của giáo lý đạo Phật. Phật giáo là tôn giáo được giai cấp
phong kiến Việt Nam sử dụng một cách tích cực. Phật giáo đã ảnh
hưởng đến sinh hoạt tư tưởng và thế giới quan của người Việt
Nam. Phật giáo là một yếu tố quan trọng trong kiến trúc thược
tầng của xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIV. Nó
đã đáp ứng được yêu cầu củng cố địa vị thống trị của giai cấp
phong kiến Việt Nam, đã được giai cấp phong kiến Việt Nam sử
dụng để thu phục nhân dân và ổn định trật tự xã hội.
Và mét sự thực ảnh hưởng quan trọng đến công cuộc xây dựng
nhà nước thời Lý, Trần chính là sự phát triển của Phật giáo.Thời
4
Lý, Trần địa vị của Phật giáo ngày càng được nâng cao. Số dân
theo Đạo Phật ngày càng đông. Lê Văn Hưu chép: “Trong dân quá
nửa là sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa” hay nho thần Lê Quát
viết: “Trên từ vương công, dưới đến dân thường, kẻ bố thí vào việc
nhà Phật, dù hết tiền cũng không xẻn tiếc Chỗ nào có người ở tất
có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên”. Các vị sư Vạn Hạnh, Đa Bảo,
Viên Thông đều tham gia chính sự. Nhà vua rất coi trọng các vị
cao tăng. Nhiều vị cao tăng xuất thân từ tầng líp quí téc quan liêu
nh các vị sư: Viên Chiếu, Quảng Trí, Trí Bảo. Ngay cả một số vị
vua thời Lý, Trần cũng đi tu như: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông,
Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Trần Nhân Tông Trong đó Lý
Thánh Tông là người có công trong việc sáng lập ra phái Thảo
Đường. Còn Trần Nhân Tông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc
Lâm được sáng lập ở nước ta thời Trần.
Khi thời kỳ Bắc thuộc chấm dứt và bước sang thời kỳ độc lập
tự chủ thì Nho giáo chưa mạnh nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn
tại trong xã hội Việt Nam nh mét hiện tượng hiển nhiên. Nho giáo
thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên. Nó
5

được sử dụng gắn liền với hoạt động quản lý xã hội của bộ máy cai
trị của kẻ xâm lược. Ảnh hưởng của nó trong xã hội còn hạn chế.
Trong thế kỷ X, dưới triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho giáo vẫn
chưa có gì đáng kể. Nhưng bước sang thế kỷ XI, khi vương triều
Lý được thành lập, việc củng cố chế độ phong kiến và phát triển
nền văn hoá phục vụ cho chế độ phong kiến trở thành một yêu cầu
cấp bách thì giai cấp phong kiến cần phải đề cao Nho giáo và sử
dụng Nho giáo như một vũ khí sắc bén trên lĩnh vực chính văn hoá
và tư tưởng. Nho giáo bám vào yêu cầu của xã hội và nhà nước
phong kiến mà vươn lên. Người ta có thể dễ dàng nhìn thấy sự phát
triển của văn hoá ngay từ công việc giáo dục và thi cử. Sự xuất
hiện ở thời Lý một nền giáo dục Nho học có tính chất thế tục do
nhà nước phong kiến quản lí khác hẳn với nền giáo dục của nhà
chùa. Nó không những tác động trực tiếp vào sự hình thành đội
ngò tri thức dân téc và sự tuyển lùa nhân viên cho bộ máy quan
liêu, mà còn ảnh hưởng đến thế giới quan và những qui phạm
chính trị, đạo đức của con người. Song, Nho giáo thời kỳ này chưa
mạnh.
6
Còn Đạo giáo cũng tồn tại một cách thực tế trong xã hội Việt
Nam từ thời Ngô - Đinh đến Lý – Trần. Nhưng Đạo giáo phần
nhiều ảnh hưởng đến sự mê tín trong nhân dân mà không đáp ứng
những vấn đề đặt ra trên lĩnh vực tư tưởng. Để xây dựng chế độ
phong kiến Việt Nam đã sử dụng đến cả thần quỳên và tôn giáo.
Tư tưởng thần quyền biểu hiện ở lòng tin vào quyền năng vô hạn
của các vị thần mà tiêu biểu là Trời hoặc Ngọc Hoàng - đóng vai
trò là vị thần nhân cách tối cao
Như vậy, sự nhận thức tư tưởng và khuynh hướng tư tưởng ở
Việt Nam vào khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV đã xuất phát từ
một thực tế là Phật giáo, Nho giáo, và Đạo giáo đang tồn tại trong

xã hội nước ta, có một vị trí nhất định trong những hoạt động về tư
tưởng và văn hoá của nhân dân. Đây là một điểm khác biệt so với
hệ tư tưởng thời Lê sơ. Bên cạnh sự phát triển thịnh vượng của
Phật giáo, bị chi phối bởi Phật giáo nó còn bị chi phối bởi Nho
giáo và Đạo giáo. Trong khi thời Lê sơ, chỉ có Nho giáo giữ vị trí
độc tôn
7
Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam trong thời kỳ này liên
quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước, tổ chức và
điều khiển công cuộc dựng nước và giữ nước. Để đáp ứng yêu cầu
xây dựng một nhà nứơc phong kiến hùng mạnh có thể giữ nước và
trị nước, trên lĩnh vực tư tưởng đã xuất hiện những quan niệm và
kiến giải về nhà nước phong kiến. Không những thế giai cấp phong
kiến Việt Nam còn dùng đến cả sự thuyết lý về đạo đức để ổn định
trật tự xã hội và cổ vũ tinh thần chiến đấu cho sự nghiệp cứu nước.
Giai cấp phong kiến thống trị, trước hết là tầng líp quý téc và quan
liêu mà đại biểu là nhà vua nắm giữ mọi quyền hành ở triều đình
và trong xã hội. Tiếp đó là giai cấp địa chủ, lúc đầu số lượng còn
Ýt nhưng về sau tăng dần lên. Tăng lữ là một tầng líp xã hội đáng
kể và có lực lượng đông đảo. Nhưng chỉ có quí téc đi tu và tầng líp
trên trong nhà chùa mới thực sự gia nhập vào hàng ngò giai cấp
phong kiến. Nhà nước phong kiến đã sử dụng số tăng lữ này với
tầng líp nho sĩ mới xuất hiện để duy trì sự ổn định và củng cố
quyền lực của triều đình. sự trưởng thành của giai cấp địa chủ và
tầng líp nho sĩ nó làm cho có cấu của bộ máy nhà nước phong kiến
8
từ thời Lý tới Trần, nhất là vào cuối thế kỷ XIV có những thay đổi
lớn. Những chức vụ quan trọng của nhà nước phong kiến vốn nằm
trong tay tầng líp quí téc đã chuyển dần sang tay tầng líp nho sĩ.
Đến cuối đời Trần, tầng líp nho sĩ quan liêu đã trở thành chỗ dùa

quan trọng để nhà vua tiến hành trị nước.
2. Hệ tư tưởng thời Lê sơ và hệ quả của nó
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã mở ra mét giai đoạn mới
trong lịch sử. Xét về tổng thể kết cấu kinh tế xã hội Lê sơ chủ yếu
vẫn là nông nghiệp- nông dân- làng xã, kinh tế hàng hoá chỉ là bộ
phận bổ sung cho nông nghiệp.
Sau khởi nghĩa Lam Sơn, toàn bộ tướng lĩnh chuyển thành
chính quyền phong kiến Lê Sơ. Vị “động chủ” trở thành hoàng đế,
các “động sĩ” trở thành đại thần. Nhà nước này có nhiều điểm khác
với nhà nước Lý, Trần về tổ chức và hệ tư tưởng.
Về hệ tư tưởng: Phật giáo đã bị hạn chế từ thế kỷ XIV, đến
đầu thế kỷ XV thì suy yếu. Uy thế của Phật giáo bị đả kích nặng
nề, trong giới thượng lưu đã có nhiều người từ bỏ. Sự đả kích của
Phật giáo đầu tiên là từ chính quyền. Đạo giáo cũng bị chính quyền
9
đả kích. Trong khi đó Nho giáo thời Lê sơ phát triển lên đến đỉnh
cao. Nho giáo bứơc lên vũ đài tư tưởng và chính trị ở nứơc ta từ
thời Lý, nhưng lúc đầu nó mới biểu hiện nh mét hệ thống quan
điểm khác biệt với Phật giáo và hợp tác với Phật giáo để củng cố
cho chế độ phong kiến. Mâu thuẫn giữa Nho giáo với Phật giáo lúc
này mới là sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa hai hệ thống
tư tưởng. Sự đối lập đó là xét về mặt nội dung chứ thực ra suốt từ
thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, Nho giáo vẫn chung sống hoà bình với
Phật giáo. Mãi đến giữa thế kỷ XIV khi mà địa vị của Nho giáo
được nâng lên một bước và tầng líp nho sĩ đã trở nên đông đảo thì
sự đối lập đó được các nhà Nho tuyên bố một cách công khai và có
ý thức.
Việc sử dụng Nho giáo là sự lùa chọn có ý thức của giai cấp
thống trị phong kiến. Phật giáo và Nho giáo đều được giai cấp
thống trị sử dụng để cấu trúc xã hội. Nhưng tư tưởng Phật giáo là

giải thoát, là không chú ý củng cố gia đình và dòng họ, còn Nho
giáo lại củng cố gia đình và dòng họ. Nho giáo làm chức năng một
học thuyết về đạo đức nhân luân, về giáo dục thi cử và lý thuyết
10
chính trị trị nước phù hợp với chế độ quân chủ tập quyền chuyên
chế mà Phật giáo không thể nào bằng. Các vua Lý, Trần rất tôn
sùng Phật giáo nhưng khi xây dùng một nhà nước tập quyền quan
liêu không thể loại trừ Nho giáo. Xét cho cùng thì Phật Thiền dẫu
có tích cực nhập thế đến mấy cũng không thể bằng Nho giáo. Giữa
hai hệ tư tưởng Êy có một khoảng cách khó vượt qua. Vua Trần
Thánh Tông tuy tinh thông Phật học, phật giáo mà vẫn cho Trần
Ých Tắc “mở trường học ở phủ đệ, họp các văn sĩ bốn phương cho
học tập, dạy bảo nên tài”. Tư tưởng Nho giáo bảo vệ sự liên kết gia
đình dòng họ, xung quanh một triều đình và gĩư gìn sự phân chia
đẳng cấp xã hội phức tạp theo danh phận. Nhưng nó biết dung hợp
sự phân chia và liên kết này trên nền tảng đạo đức, luân lý và chính
trị, trên cơ sở quan niệm và hoạt động lễ và pháp hoà lẫn nhau
được thần thánh hoá là trung hiếu, tam cương phục vụ cho yêu cầu
thống trị của giai cấp phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa Nho giáo và
Phật giáo diễn ra có lúc âm thầm, có lúc công khai, lại nhiều lúc
“dung hợp” kéo dài và phức tạp, phản ánh một quá trình tìm một
11
công cụ tinh thần của giai cấp thống trị Đại Việt. Cuối cùng Nho
giáo hoàn toàn thay thế trong thế kỷ XV.
Nho giáo là kết quả của quá trình lùa chọn lịch sử và phát triển
lâu dài. Nho giáo chi phối trong nhiều lĩnh vực mà không thể
không kể đến hệ thống giáo dục từ địa phương đến triều đình. Nội
dung giáo dục chủ yếu là kinh học và sử học. Thời Lê sơ từ năm
1442 trở đi, chế độ khoa cử đã hoàn chỉnh, cứ 3 năm một kỳ thi
Hương và thi Hội. Lê Thánh Tông còn cho lập bia tiến sĩ tại Quốc

Tử giám, và đưa Nho học vào văn hoá làng xã. Năm 1470, triều
đình ban hành 24 điều giáo huấn đề cập đến những vấn đề củng cố
gia đình, tông téc, xóm thôn theo lễ nghiã, hiếu, trung, tam tòng.
Hơn nữa, trên cơ sở một nền kinh tế xã hội là ruộng đất và
nông dân gia trưởng đang phát triển mạnh, trên cơ sở một chế độ
phong kiến quan liêu đang mở rộng muốn xây dựng một nhà nước
thống nhất và tập quyền thì Nho giáo hơn hẳn Phật giáo. Mặt khác
chính ý thức hệ tư tưởng này lại góp phần tích cực củng cố nhà
nước phong kiến tập quyền quan liêu, củng cố nền thống nhất của
xã hội nông nghiệp tạo ra một kỷ cương xã hội theo lễ và pháp.
12
Một nền thống nhất mà cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thì
phải dùa vào bịên pháp quản lí hành chính là chính thì hệ tư tưởng
Nho giáo có ý nghĩa hỗ trợ tích cực nhất. Chế độ phong kiến tập
quyền và quan liêu phát triển đến đỉnh cao đã dùng Nho giáo làm
công cụ độc tôn chi phối tư tưởng xã hội, chấm dứt một thời kỳ
tam giáo trên phương diện chính thống. Tư tưởng của tầng líp cầm
quyền đã khá đậm những quan điểm Nho gia.
Các nhà nước phong kiến trung cổ nước ta đều có xu hướng
tập quyền, chuyên chế và quan liêu hoá. Nhưng mỗi triều đại lại có
đặc điểm riêng. Ở thời Trần, vua Trần Thánh Tông từng nói:
“Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp tổ tông phải
cùng hưởng phú quý với anh em trong họ”. Các tôn thất họ Trần
chia nhau nắm giữ các chức vụ chủ chốt ở triều đình và địa phương
tạo ra cái thế mà nhà sử học Ngô Sĩ Liên gọi là “tông tử duy
thành” (liên kết họ hàng bảo vệ ngôi vua) duy trì cơ chế quý téc
hoá. Lê sơ có khác, Lê Quý Đôn nhận xét: “Vua Thái Tổ không thể
bắt chước việc cũ nhà Trần tức là phong tất cả cho người trong họ.
Những người tài giỏi bấy giê nh Lê Khôi, Lê Khang đều lấy tư
13

cách là công thần mà trao chức chứ không phong tước chia đất”.
Rõ ràng mối liên kết dòng họ tôn thất để nắm giữ chính quỳên
trong cả nước của nhà Trần sang Lê sơ không thành nguyên tắc.
Để tuyển lùa quan lại, triều đình thông qua quân công và khoa cử
Nho học là chủ yếu. Quý téc hoàng téc chỉ còn một số quyền lợi
kinh tế “chứ không cho cai trị lé, phủ Các bậc vương hầu phiên
phụ bị tước bỏ quỳên thế làm cho suy yếu ”. Chế độ tuyển lùa
quan lại bằng quân công và thi cử tạo ra một bộ máy quan liêu
hành chính. Nho sĩ chiếm một số lượng rất lớn trong đội ngò quan
liêu. Sự gắn bó giữa số lượng quan liêu với hoàng đế tạo ra một
mối liên kết rộng lớn khác nhiều với mối liên kết tôn thất còn chặt
hẹp nh thời Lý, Trần. Nhà nứơc quan liêu Lê sơ vừa là một tổ chức
chính quyền, vừa hoà nhập vào sĩ phu nên bản thân nó giống như
là một đẳng cấp xã hội.
Trên cơ sở tìm hiểu hệ tư tưởng thời Lý, Trần và thời Lê sơ
chúng ta đã thấy rõ sự khác biệt trong mỗi triều đại. Dưới hai triều
đại Lý, Trần hệ tư tưởng chi phối không đơn nhất nh thời Lê sơ mà
nó chịu sự chi phối của tam giáo (Phật giáo, Đạo giáo và Nho
14
giáo). Trong đó Nho giáo ở mỗi thời kỳ lại được coi trọng với mức
độ khác nhau, đến thế kỷ XV nó đã chiếm vị trí độc tôn. Từ đó cho
thấy nếu so với thời Lý, Trần, hệ thống hành chính quốc gia thời
Lê sơ đã thể hiện một bứoc tiến cơ bản. Nó đã đạt đến đỉnh cao của
mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu.
15

×