Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích sự khác biệt giữa văn hóa doanh nghiệp phương tây và văn hóa doanh nghiệp phương đông ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.2 KB, 12 trang )


ĐỀTÀI
Phân tích sự khác biệt giữa
văn hóa doanh nghiệp
phương tây và văn hóa doanh
nghiệp phương đông
Lớp:NCQT5QN Khoa: Quản trị kinh doanh
Nhóm 13 GVHD: Bùi Thị Thanh Thúy
LỜI NÓI ĐẦU
Trong một xã hội rộng lớn nói chung, mỗi doanh nghiệp được coi là một xã hội
thu nhỏ. Xã hội lớn có nền văn hóa lớn, xã hội nhỏ (doanh nghiệp) cũng có nền
văn hóa riêng biệt của nó. Nền văn hóa ấy chịu ảnh hưởng và đồng thời là một
bộ phận cấu thành nên nền văn hóa lớn. Như lời một nhà quản trị nổi tiếng
.E.Schein đã nói “Văn hóa doanh nghiệp gắn liền với văn hóa xã hội, là tầng sâu
của văn hóa xã hội. Văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi vừa chú ý tới năng suất và
hiệu quả sản xuất, vừa chú ý tới quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa người với người.
Nói rộng ra, nếu toàn bộ nền sản xuất đều được xây dựng trên một nền văn hóa
doanh nghiệp có trình độ cao, nền sản xuất sẽ vừa mang bản sắc dân tộc, vừa
thích ứng với thời đại hiện nay “.
(1)
Ở Việt Nam, văn hóa doanh nghiệp (VHDN) vẫn còn là một khái niệm tương đối
mới mẻ, tuy nhiên, nó đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng, đặc biệt là
từ các nhà quản lý doanh nghiệp. Doanh nhân và các nhà quản lý ngày càng
nhận ra ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đối với sự thành công và hiệu quả của
doanh nghiệp. Đặc biệt trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, các doanh
nghiệp Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực các ngành dịch vụ phải chịu sức ép cạnh
tranh ngày càng tăng từ các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thương
trường mà ngay cả trong việc thu hút lao động.Thực tế đã chứng tỏ rằng nền
VHDN mạnh mẽ sẽ là nền tảng cho việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thương trường và là yếu tố cơ bản thu hút lao động có tâm huyết
gắn bó với doanh nghiệp. Tuy nhiên, VHDN ở Việt Nam còn đang ở bước phát


triển sơ khai cần sự đầu tư hơn nữa từ phía các doanh nghiệp nói chung cũng
như các doanh nghiệp lĩnh vực dịch vụ nói riêng và các nhà quản lý để có thể
thực sự trở thành nguồn lực cho hoạt động kinh doanh cũng như tăng hiệu quả
kinh doanh của ngành nói chung.
2/Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luậnvề văn hóa doanh
nghiệp, phân tích sự giống và khác nhau giữa hai nền văn hóa doanh nghiệp phương
đông và phương tây
BỐ CỤC:
Lời nói đầu………………………………………………………………… 2
Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….2
Phần I:khái niệm……………………………………………………………….3
1.Hiểu thế nào về văn hóa doanh nghiệp……………………………… 3
2.văn hóa doanh nghiệp tại nhật………………………………………… 3
3.Thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại việt nam……………………… 4
4.Xây dựng văn hóa doanh nghiệp trên cơ sở nào…………………… 5
5.các hạt nhân văn hóa doanh nghiệp……………………………… 6
6.phát triển giao lưu văn hóa của các doanh nghiệp……………………6
7.Xây dựng văn hóa tiêu chuẩn về văn hóa doanh nghiệp…………….6
8.Văn hóa tập đoàn đa quốc gia………………………………………… 7
9.Văn hóa doanh nghiệp gia đình……………………………………… …7
Phần II: sự giống nhau và khác nhau của hai nền văn hóa doanh nghiệp
Phương đông và phương tây…………………………………………………8
1.Độc lập hay nhóm………………………………………………………….9
2.Nói thẳng hay vòng vo…………………………………………………….10
3.Đúng giờ hay trể giờ………………………………………………………10
4.sòng phẳng hay dựa trên mối quan hệ………………………………….11
5.cùng thắng hay là thua……………………………………………………11
Kết luận:…………………………………………………………………………12
Phần I: Khái niệm

1/ Hiểu thế nào về văn hoá doanh nghiệp?
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì còn lại
khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn hoá”. Còn UNESCO lại có
một định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng
quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng
đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng
bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ
và lối sống và dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Vậy văn hoá doanh nghiệp là gì? Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị
văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn
sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và
hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện
các mục đích.
Cũng như văn hoá nói chung, văn hoá doanh nghiệp có những đặc trưng cụ thể
riêng biệt. Trước hết, văn hoá doanh nghiệp là sản phẩm của những người cùng
làm trong một doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững. Nó xác lập
một hệ thống các giá trị được mọi người làm trong doanh nghiệp chia sẻ, chấp
nhận, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó. Văn hoá doanh nghiệp còn góp phần
tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được coi là truyền thống của
riêng mỗi doanh nghiệp.
2/ Văn hoá doanh nghiệp tại Nhật
Tại Mỹ, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động của doanh
nghiệp, thành tựu của doanh nghiệp và nội dung văn hóa của doanh nghiệp đó.
Họ nhận thấy rằng hầu hết các công ty thành công đều duy trì, gìn giữ nền văn
hóa doanh nghiệp của mình. Có sự khác biệt giữa các nền văn hóa trong các
công ty. Mỗi nền văn hóa khác nhau có thể đưa ra một hệ thống văn hóa doanh
nghiệp khác nhau. Theo ông A. Urata, văn hóa truyền thống của Nhật Bản, do
hoàn cảnh sau chiến tranh thế giới đã tạo ra những nét đặc trưng. Đó là những
người lao động Nhật Bản thường làm việc suốt đời cho một công ty, công sở. Họ

được xếp hạng theo bề dày công tác. Trong các công ty của Nhật Bản đều có tổ
chức công đoàn. Các quyết định sẽ được ra theo quyết định của tập thể và các
hoạt động đặc trưng đó có tên là Kaizen.
Văn hóa doanh nghiệp kiểu Nhật đã tạo cho công ty một không khí làm việc như
trong một gia đình, các thành viên gắn bó với nhau chặt chẽ. Lãnh đạo của công
ty luôn quan tâm đến các thành viên. Thậm chí ngay cả trong những chuyện
riêng tư của họ như cưới xin, ma chay, ốm đau, sinh con cũng đều được lãnh
đạo thăm hỏi chu đáo. Vì làm việc suốt đời cho công ty nên công nhân và người
lao động sẽ được tạo điều kiện để học hỏi và đào tạo từ nguồn vốn của công ty.
Nâng cao năng suất, chất lượng và đào tạo con người được coi là hai đặc trưng
cơ bản của văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản.
Có một sự khác bịêt cơ bản trong tư duy của người Nhật về doanh nghiệp. Tại
Mỹ và phương Tây, quyền lực cao nhất trong việc quyết định số phận của một
doanh nghiệp là các cổ đông. Người quản lý doanh nghiệp và vốn của doanh
nghiệp tách hẳn nhau. Cổ đông yêu cầu nhà quản lý phải nâng cao lợi nhuận
của doanh nghiệp trong một thời gian ngắn. Chỉ số cổ tức là thước đo năng lực
của nhà quản lý. Tuy nhiên, người Nhật lại quan niệm rằng doanh nghiệp tồn tại
như một hoạt động mang tính đạo đức. Mọi người trong công ty phải kết nối với
nhau trong mối quan hệ chung. Doanh nghiệp là một chủ thể thống nhất. Người
Nhật quan tâm đến lợi ích doanh nghiệp và người làm trong doanh nghiệp, thay
vì chỉ quan tâm đến lợi nhuận như ở phương Tây. Do đó, tại một doanh nghiệp
Nhật Bản, người lãnh đạo phải lo nâng cao đời sống cho người lao động và điều
này ảnh hưởng lớn đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nó cũng liên
quan mật thiết đến việc nâng cao chất lượng và năng suất lao động. Sự thống
nhất giữa doanh nghiệp và người làm trong doanh nghiệp đã tạo cho mọi thành
viên sự trung thành cao. Tất cả đều quan tâm đến sự sống còn của doanh
nghiệp, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao.
3/ Thực trạng văn hoá doanh nghiệp ở Việt Nam
Nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta thấy văn hoá trong các cơ quan và
doanh nghiệp ở nước ta còn có những hạn chế nhất định: Đó là một nền văn

hoá được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp và phức tạp do những yếu tố khác
ảnh hưởng tới; môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn tới có cái nhìn ngắn
hạn; chưa có quan niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, làm việc chưa có
tính chuyên nghiệp; còn bị ảnh hưởng bởi các khuynh hướng cực đoan của nền
kinh tế bao cấp; chưa có sự giao thoa giữa các quan điểm đào tạo cán bộ quản
lý do nguồn gốc đào tạo; chưa có cơ chế dùng người, có sự bất cập trong giáo
dục đào tạo nên chất lượng chưa cao. Mặt khác văn hoá doanh nghiệp còn bị
những yếu tố khác ảnh hưởng tới như: Nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn và
ảnh hưởng của tàn dư đế quốc, phong kiến.
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá,
ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó
khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng xã hội ngày nay thì
các nguồn lực của một doanh nghiệp là con người mà văn hoá doanh nghiệp là
cái liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị của từng nguồn lực riêng lẻ. Do vậy,
có thể khẳng định văn hoá doanh nghiệp là tài sản vô hình của mỗi doanh
nghiệp. Theo ông Trần Hoàng Bảo (1 trong số 300 nhà doanh nghiệp trẻ) nhận
xét: Văn hoá của doanh nghiệp được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người
lãnh đạo và tác phong làm việc của nhân viên. Cũng theo ông Bảo, đối tác khi
quan hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh
nghiệp qua văn hoá của doanh nghiệp đó.
Sự thành công của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là ở các nước châu á thường
được dựa trên mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo, còn các nước Tây Âu
thì thành công của doanh nghiệp lại được dựa trên các yếu tố như khả năng
quản lý các nguồn lực, năng suất làm việc, tính năng động của nhân viên…
Ngoài những yếu tố chủ quan, để xây dựng văn hoá doanh nghiệp còn phải chú
trọng tới những yếu tố khách quan. Đó là việc tạo lập thị trường, lợi ích của
người tiêu dùng, được thể hiện qua “Các nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người
tiêu dùng”, là quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
4/ Xây dựng văn hoá doanh nghiệp trên cơ sở nào?

Trước hết chúng ta phải có quan điểm cụ thể về vai trò của văn hoá doanh
nghiệp. Sự thắng thế của bất cứ một doanh nghiệp nào không phải ở chỗ là có
bao nhiêu vốn và sử dụng công nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc tổ chức
những con người như thế nào. Con người ta có thể đi lên từ tay không về vốn
nhưng không bao giờ từ tay không về văn hoá. Văn hoá chỉ có nền tảng chứ
không có điểm mốc đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của doanh nghiệp có thể
sẽ là rất cao nếu như nó được xây dựng trên nền tảng văn hoá. Các doanh
nghiệp khi xây dựng đều phải có nhận thức và niềm tin triệt để, lúc đó văn hoá
sẽ xuất hiện. Mọi cải cách chỉ thực sự có tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi
ích cá nhân, còn văn hoá doanh nghiệp thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi
ích của cá nhân.
Khi xây dựng văn hóa doanh nghiệp cần phải có những biện pháp cụ thể. Biện
pháp đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống định chế của doanh nghiệp, bao
gồm: Chính danh, tự kiểm soát, phân tích các công việc, các yêu cầu. Sau đó
xây dựng các kênh thông tin; xây dựng các thể chế và thiết chế tập trung và dân
chủ như: Đa dạng hoá các loại hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; tiêu
chuẩn hoá các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; xây dựng cơ chế kết hợp hài
hoà các lợi ích để doanh nghiệp trở thành ngôi nhà chung, là con thuyền vận
mệnh của mọi người.
5/Các hạt nhân văn hóa doanh nghiệp
Đây là cơ sở để hình thành văn hóa doanh nghiệp. Các hạt nhân văn hóa là kết
quả của sự tác động qua lại giữa các thành viên trong doanh nghiệp với nhau.
Khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, nền văn hóa doanh nghiệp xuất hiện, phát
triển và tự bảo vệ. Văn hóa doanh nghiệp có tính đặc thù nên các hạt nhân văn
hóa được hình thành cũng có tính chất riêng biệt. Văn hóa của các tập đoàn đa
quốc gia khác với văn hóa của các doanh nghiệp liên doanh hoặc văn hóa của
doanh nghiệp gia đình. Hạt nhân văn hóa doanh nghiệp bao gồm triết lý, niềm
tin, các chuẩn mực làm việc và hệ giá trị.
6/Phát triển văn hóa giao lưu của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp thường có xu hướng liên doanh, liên kết với nhau. Để tồn tại

trong môi trường kinh doanh phức tạp, đa văn hóa, các doanh nghiệp không thể
duy trì văn hóa doanh nghiệp mình giống như những lãnh địa đóng kín của mà
phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Việc phát triển văn hóa giao lưu
sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về
văn hóa của các doanh nghiệp khác nhằm phát triển mạnh nền văn hóa của
doanh nghiệp mình và ngược lại.
7/Xây dựng các tiêu chuẩn về văn hóa doanh nghiệp
Để hình thành một nền văn hóa mạnh và có bản sắc riêng, hầu hết các doanh
nghiệp thường xây dựng cho mình những tiêu chuẩn về văn hóa và buộc mọi
người khi vào làm việc cho doanh nghiệp phải tuân theo. Tuy nhiên, các tiêu
chuẩn này có thể thay đổi khi không còn phù hợp hoặc hiệu quả thấp. Trong
trường hợp như vậy, việc sáng tạo ra những tiêu chuẩn mới là cần thiết.
Trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và quá trình cạnh tranh quốc tế
ngày càng gay gắt thì văn hóa doanh nghiệp được chú trọng xây dựng và phát
triển. Nó trở thành một loại tài sản vô hình đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
kho tài sản doanh nghiệp và là một trong những công cụ cạnh tranh khá sắc bén.
Những doanh nghiệp không có nền văn hóa mạnh khó có thể cạnh tranh cao
trên thị trường. Đồng thời, doanh nghiệp có thể tạo ra và tăng uy tín của mình
trên thị trường thông qua việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa doanh
nghiệp mạnh.
8/Văn hóa tập đoàn đa quốc gia
Các tập đoàn đa quốc gia có nhiều chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế
giới, thường phải đối mặt với môi trường kinh doanh đa sắc tộc, đa quốc tịch và
đa văn hóa. Để tăng cường sức mạnh và sự liên kết giữa các chi nhánh của các
công ty đa quốc gia ở các nước khác nhau, các tập đoàn phải có một nền văn
hóa đủ mạnh. Hầu như tập đoàn đa quốc gia nào cũng có bản sắc văn hóa riêng
của mình và đây được coi là một trong những điều kiện sống còn, một loại vũ khí
cạnh tranh lợi hại. Các công ty đa quốc gia có mục đích kinh doanh chiến lược,
nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng và danh tiếng cao về chất lượng sản phẩm và dịch
vụ trên thị trường thế giới. Những kết quả này có thể coi là sản phẩm của quá

trình vận động của văn hóa tập đoàn. Tuy nhiên, để đạt được những đỉnh cao
của sự thành công đó, các tập đoàn phải mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chẳng
hạn, để có nhãn hiệu Pepsi Cola nổi tiếng với màu xanh tươi trẻ, Tập đoàn Pepsi
phải chọn cách tiếp cận văn hóa phương Đông - sản xuất loại đồ uống mang
nhãn hiệu Pepsi Cola với biểu tượng thiếu âm và thiếu dương (biểu tượng của
những người theo Phật giáo) để đến với khách hàng là những tín đồ của Phật
giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng này, Tập đoàn phải chi tới 500 triệu USD và giá
của nhãn hiệu Pepsi đã lên tới 55 tỷ USD. Đối thủ cạnh tranh của Pepsi Cola là
Tập đoàn Coca Cola. Tập đoàn này có nền văn hóa hùng mạnh và với những ưu
thế về danh tiếng, uy tín cũng như nghệ thuật kinh doanh đã chiến thắng Pepsi
Cola trên thương trường mặc dù đồ uống Coca Cola chỉ được xếp thứ 7 trong số
12 loại đồ uống hàng đầu của nước Mỹ về chất lượng và đồ uống này đã bị
người tiêu dùng châu Âu tẩy chay vào năm 1999.
9/Văn hóa doanh nghiệp gia đình
Các doanh nghiệp gia đình được xem là một loại định chế độc đáo trong đó một
gia đình là hạt nhân của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp gia đình chịu ảnh
hưởng của truyền thống gia đình, sự kế tục giữa các thế hệ và lòng trung thành
với những triết lý kinh doanh, kinh nghiệm, bí quyết được gia đình đúc rút được
trong quá trình kinh doanh. Thông thường, trong gia đình, người chủ gia đình
thường nắm được bí quyết về một nghề nghiệp nào đó và dựa vào nghề nghiệp
đó để thành lập doanh nghiệp gia đình. Vì thế, văn hóa doanh nghiệp gia đình
chịu ảnh hưởng rất lớn tác động của phong cách lãnh đạo của người chủ gia
đình. Kỷ luật trong doanh nghiệp gia đình thường được đề cao vì họ vừa là
người chủ sở hữu vừa là người sử dụng các tài sản của gia đình. Chẳng hạn,
doanh nghiệp sản xuất giày dép Biti’s (Việt Nam) là một biến thể của doanh
nghiệp gia đình. Doanh nghiệp này có một nền văn hóa mạnh và các thành viên
của doanh nghiệp đều thấm nhuần được những giá trị và chuẩn mực của văn
hóa doanh nghiệp. Doanh nghiệp này đang có triển vọng trở thành một trong
những công ty đa quốc gia đầu tiên của Việt Nam.
Có thể nói, Văn hoá doanh nghiệp là nhằm tạo ra quy tắc ứng xử cho doanh

nghiệp mà không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo. Cách làm này của các doanh
nghiệp không chỉ có tác dụng thúc đẩy cho doanh nghiệp mình thực hiện được
phương thức kinh doanh "lấy con người làm trung tâm", mà còn làm cho năng
lực phát triển sản phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của doanh
nghiệp trở nên phồn vinh, tăng thêm sự gắn bó của nhân viên với doanh nghiêp,
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Văn hóa là một rào cản rất lớn trong những cuộc đàm phán có sự tham dự của
các đối tác đến từ nhiều nền văn hóa. Không giống như khi đàm phán với đối tác
trong nước, vốn có cùng nền văn hóa, ngôn ngữ, định kiến xã hội , những đối
tác đến từ những nền văn hóa khác nhau gần như là một bí ẩn mà những nhà
đàm phán phải khám phá rất nhiều, nếu muốn có một cuộc đàm phán thành
công. Có một sự khác biệt rất lớn về văn hóa giữa các nước phương Tây với
các nước phương Đông, điều này dẫn đến sự khác biệt trong cách giao tiếp và
đàm phán.
Phần II:
Sự khác nhau và giông nhau của hai nền văn hóa
doanh nghiệp phương đông và phương tây
1/Độc lập hay nhóm
Trong văn hóa của người phương Tây, sự độc lập của cá nhân được đánh giá
cao, trong khi đó văn hóa phương Đông, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các
nguyên tắc về trung - tín - lễ - nghĩa nên đề cao tính tập thể và tôn trọng các giá
trị cộng đồng. Sẽ không ngạc nhiên nếu các đối tác phương Tây đến tham dự
đàm phán với một thành viên duy nhất và thành viên này có đầy đủ thẩm quyền
để ra mọi quyết định.
Cũng vì thế, không quá ngạc nhiên khi một doanh nhân phương Tây cực kỳ khó
chịu vì đối tác phương Đông của mình, sau 1 tuần đàm phán, lại tuyên bố “phải
gọi điện thoại hỏi sếp ở nhà đã”. Người phương Tây thường coi điều này như là
sự thiếu tôn trọng trong đàm phán.
Các doanh nhân phương Đông thường đến bàn đàm phán với một phái đoàn
“hoành tráng”. Họ quan niệm càng đông càng chắc vì việc ra quyết định được

dựa trên sự đồng thuận của mọi thành viên. Đôi lúc, yếu tố này có một nhược
điểm là quyết định cuối cùng được đưa ra rất chậm và việc đi đàm phán sẽ tốn
rất nhiều chi phí vì tính chất “đầy đủ ban bệ” và “ai cũng có phần”.
2/Nói thẳng hay vòng vo
Trong tình yêu, người phương Tây tỏ tình một cách thẳng thắn bằng câu “I love
you”. Người phương Đông thì thường vòng vo theo kiểu “vườn hồng đã có ai
vào hay chưa” hay là “mận hỏi thì đào xin thưa” Cách tiếp cận vấn đề trong
giao tiếp trên bàn đàm phán của 2 nền văn hóa này cũng tương tự như vậy.
Với quan điểm thẳng thắn trong mọi vấn đề, các doanh nhân phương Tây
thường bày tỏ ý kiến một cách trực diện và nêu rõ nhu cầu của mình. Trong
thương vụ làm ăn, họ luôn luôn quan tâm đến mức lợi nhuận mà thương vụ sẽ
đem lại cũng như phần trăm hoa hồng có được từ lợi nhuận đó.
Tuy nhiên, đối với thương gia nhiều nước phương Đông, việc này đôi khi bị coi
là hơi thái quá và không ít người tỏ ra khó chịu. Họ thường đề cập vấn đề vòng
vo và không chính thức, thường mời đi dùng bữa trước khi đàm phán và nhiều
khi việc đàm phán diễn ra trong các cuộc nhậu. Dễ dàng nhận thấy điều này qua
các câu hỏi đầu tiên mà người Mỹ và người Nhật hay quan tâm. Trong khi người
Mỹ hay hỏi “cái gì”, “giá bao nhiêu” thì người Nhật lại thắc mắc “như thế nào” và
“tại sao”.
3/Đúng giờ hay trễ giờ
Khái niệm “thời gian là tiền bạc” là hoàn toàn chính xác đối với các thương nhân
người Mỹ. Văn hóa phương Tây (trong đó có Mỹ) cho rằng, thời gian là một cái
gì cụ thể, thấy được, quản lý được (quan niệm thời gian đơn tuyến -
monochronic time). Những người thuộc về văn hóa thời gian đơn tuyến thường
sử dụng thời gian một cách chặt chẽ, chủ động (có thể tiết kiệm hoặc lãng phí
thời gian). Họ đúng hẹn và chỉ làm một việc trong một khoảng thời gian nhất định
về một lĩnh vực.
Vì thế, người phương Tây rất xem trọng chuyện giờ giấc và ít khi trễ giờ trong
các cuộc hẹn làm ăn. Họ hẹn bạn 9 giờ bắt đầu đàm phán thì có nghĩa là chắc
chắn 9 giờ sẽ bắt đầu.

Trong khi đó, văn hóa phương Đông quan niệm thời gian là vô hình, khó xác
định và do đó không quản lý được (quan niệm thời gian đa tuyến - polychronic
time) nên thời gian có thể được co giãn một chút. Người thuộc nền văn hóa thời
gian đa tuyến hiếm khi chủ động sử dụng thời gian, thường làm nhiều việc cùng
lúc và ôm nhiều lĩnh vực. Do đó, các hội nghị ở châu Á thường thì diễn ra trễ
hơn một chút so với thời gian in trong thiệp mời.
4/Sòng phẳng hay dựa trên mối quan hệ
Trong một cộng đồng, người phương Tây thường có mối quan hệ theo nhóm,
được hình thành dựa trên những nhóm nhỏ hơn. Trong khi đó, mối quan hệ của
người phương Đông thì rắc rối và phức tạp hơn. Có thể lấy người Trung Quốc
làm ví dụ, họ thường kinh doanh dựa trên mối quan hệ và rất xem trọng chuyện
giới thiệu.
Người phương Tây quan niệm: “Tôi làm ăn với anh bất kể anh là ai và chúng ta
rất sòng phẳng và rõ ràng trong các hợp đồng”. Còn đối với người phương
Đông, chữ tín lại rất quan trọng. Có một câu nói đùa là “Tôi chơi với anh vì anh
là bạn của bạn người em rể tôi”. Sự quan hệ trong tiếng Trung là Guanxi, mang
ý nghĩa chỉ mối quan hệ đôi bên cùng có lợi, một yếu tố không thể thiếu để thành
công tại quốc gia này.
Ở Trung Quốc, không có một mối quan hệ nào đơn thuần là quan hệ kinh doanh.
Muốn kinh doanh bền vững và phát triển, cần phải kết hợp hài hòa giữa mối
quan hệ công việc với mối quan hệ cá nhân. Thiết lập được một mạng lưới các
mối quan hệ giữa các cá nhân và tổ chức là hoạt động chủ chốt trong chiến lược
kinh doanh. Từ nhiều thế kỷ trước, đó là cách duy nhất để mọi thứ xuôi chèo mát
mái. Ngày nay, yêu cầu xây dựng mối quan hệ tương trợ dựa trên sự tôn trọng
lẫn nhau vẫn mang ý nghĩa sống còn để thành công ở phương Đông.
5/Cùng thắng hay là thắng - thua
Cách biểu hiện bên ngoài của người phương Tây và người phương Đông cũng
có sự khác nhau.
Người phương Tây rất thẳng thắn trong việc biểu hiện ra bề ngoài, trong lòng
buồn thì bề ngoài cũng biểu hiện nỗi buồn. Nhưng người phương Đông thì khác,

nhiều khi bề ngoài “thơn thớt nói cười”, nhưng thực ra là “mặt dày tâm đen”.
Điều này cũng được biểu hiện trong kinh doanh.
Cạnh tranh trong kinh doanh không nhất thiết luôn là thắng - thua (win-lose),
trong rất nhiều trường hợp nó là tình huống cùng thắng (win-win). Đây là khái
niệm mà nhiều doanh nghiệp Mỹ đang sử dụng: Từ cạnh tranh trong đối đầu
sang cạnh tranh trong hợp tác. Trong khi đó, đối với người phương Đông, đặc
biệt là người Nhật, mặc dù bề ngoài họ ít cạnh tranh trực tiếp nhưng ẩn giấu sâu
bên trong là quan điểm win-lose. Có nghĩa là tôi sẽ thắng và anh sẽ thua. Nên
việc sử dụng các mưu kế chiến thuật trong bàn đàm phán là chuyện bình
thường.
KẾT LUẬN
Việc nhìn nhận được những cơ hội và thách thức có một vai trò hết sức quan
trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong quá trình hộ nhập kinh tế quốc tế.Nó giúp doanh nghiệp nhìn nhận được
những mặt yếu kém, phát huy những mặt mạnh đồng thời học hỏi nhưng kinh
nghiệm quý giá từ những nền kinh tế phát triển. Qua đó sẽ giúp các doanh
nghiệp tìm được chỗ đứng cho mình trên đấu trường quốc tế. Sự thành công
của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung như
khẳng định một cách đúng đắn chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn.
Do kiến thức còn hạn chế nên bài thảo luận của nhóm em khó tránh khỏi thiếu
soát. Chúng em rất mong được sự đóng góp ý kiến của cô để bài báo cáo của
chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!.

×