Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Nho giáo ra đời từ thế kỉ VI trước Công nguyên tại Trung Quốc, do Khổng Tử
sáng tạo. Đây không những là một học thuyết thống trị trong xã hội Trung
Hoa suốt một thời gian dài, mà còn du nhập và có ảnh hưởng rất sâu sắc đến
nước ta thông qua con đường xâm lược của phong kiến phương Bắc. Trong
suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhất là trong các triều đại phong kiến
Việt Nam (chủ yếu từ thế kỉ X đến XIX) Nho giáo đã có những tác động to
lớn vào mọi mặt đời sống tinh thần của người Việt Nam. Ở một khía cạnh nào
đó nó cũng góp phần xây dựng một yếu tố truyền thống của người Việt. Như
giáo sư Đào Duy Anh đã nói: “ Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay
Nho giáo đã tham gia một phần quan trọng vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh
thần của dân tộc và sự tạo thành văn hoá của dân tộc. Cho nên trong cuộc
cách mạng văn hoá hiện nay chúng ta tất phải nghiên cứu Khổng giáo hay
Nho giáo để xem nó ảnh hưởng đến văn hoá của chúng ta như thế nào”( Đào
Duy Anh, Nho Giáo tại Việt Nam, Tr 23, 1994). Vì vậy trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, để xây dựng con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là phải giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
con người Việt Nam truyền thống và con người Việt Nam hiện đại. Chính vì
vậy, trong bài tiểu luận này, em chọn đề tài “Những giá trị và hạn chế của
Nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay” nhằm mục đích tìm hiểu sơ qua
về quá trình hình thành, phát triển, nội dung chính của học thuyết Nho giáo,
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam và đặc biệt là xem xét, đánh giá
các nhân tố tích cực và tiêu cực của nó đối với xã hội Việt Nam hiện đại.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG CHÍNH
I. NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ HỌC THUYẾT NHO GIÁo
1. Sơ lược về lịch sử học thuyết Nho giáo
Ở Trung Quốc, khoảnh thế kỉ XII Tr CN, bộ tộc Chu nổi lên chinh phục các
bộ tộc lân cận, chuẩn bị lật đổ nhà Thương. Khoảng thế kỉ XI Tr CN, con trai
của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương đã diệt vua Trụ của nhà Thương, lập
nên nhà Chu. Từ khi nhà Chu lên giữ ngôi thiên tử, chế độ vẫn theo lối phong
kiến (phong hầu kiến quốc), chia thiên hạ thành 70 nước để phong cho các
công thần va con cháu làm chư hầu. Các nước chư hầu đều có quyền tự chủ
nhưng hàng năm phải triều cống thiên tử nhà Chu và theo lệnh nhà Chu đi
chinh phạt những khi có chiến sự. Khi nhà Chu còn thịnh thì trật tự trên vẫn
được đảm bảo. Nhưng khi nhà Chu suy nhược, mệnh lệnh không còn được
các nước chư hầu nghe theo, chư hầu phân ra đến 160 nước. Chiến tranh liên
miên kéo theo đó là cương thường đổ nát, nhân dân oán thán. Thời đại ấy
trong lich sử Trung Quốc gọi là Xuân Thu (hay thời Tiền Tần). Thời buổi
loạn lạc, người người tham phú quý, mê danh lợi, không thiết nhân nghĩa,
nhân dân khổ sở. Vì thế người trong nước mới lo tìm cách cứu vớt thiên hạ,
do đó các học thuyết đua nhau ra đời. Theo sách sử chép thì ở Trung Quốc lúc
bấy giờ có tới 130 học phái, trong đó có 6 phái lớn nổi bật là: Nho gia, Mặc
gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia và Ân Dương gia, mà ảnh hưởng lớn nhất là
ba học phái đầu tiên: Nho gia, Mặc gia và Đạo gia.
Nho gia (Nho giáo) xuất hiện ở Trung Quốc chính vào thời Xuân Thu đầy
những biến động ấy do Khổng Tủ (551 – 497 Tr CN) sáng lập. Tuy rằng có
nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Tước khi có học thuyết Nho giáo của
Khổng Tử thì đã có những người và tầng lớp xã hội được gọi lag Nho. Nhưng
cũng không ai phủ nhận Nho giáo từ thời Xuân Thu trở đi nhờ Khổng Tử mà
trở thành học thuyết có hệ thống, tôn chỉ rõ ràng. Vì vậy về sau nói Khổng
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giáo cũng chính nói Nho giáo. Khổng Tử tên là Khổng, tự là Trọng Ni, sinh ở
nước Lỗ trong một gia đình quý phái nhưng đang trong thời kì sa sút. Vì thế
thủa bé ông đã biết đến những việc nặng nhọc, vất vả. Có lẽ đó cũng là một
trong những lí do khiến học thuyết của ông có nhiều quan điểm coi khinh lao
đông chân tay. Khổng Tử là người rất thông minh, nhân hậu, từ nhỏ đã ham
học, hay chú ý về lễ nghi, phép tắc của con người nhất là những bậc đế
vương. Nhưng hết thẩy những tư tưởng đao đức và việc làm của ông trong
suốt cuộc đời đều nhằm mục đích cứu đời, giúp nước cho dù nó có phần hạn
chế khi muốn khôi phục thể chế nhà Chu trên cơ sở những chủ trương cải
lương, ôn hoà nhằm không đảo lộn đẳng cấp xã hôi. “Khổng Tử khảo cứu chế
độ và phong tục thời cổ, ngẫm nghĩ những tư tưởng của các bậc thánh hiền
đời trước và suy xét cái lẽ biến hoá của trời đất, rồi đem những điều mình tâm
đắc lập thành học thuyết có tông chỉ rất cao, quán triệt cả căn nguyên của vạn
vật và các lẽ sinh hoá của vạn vật, cả tâm tính và hành động của người
ta”(Trần Trọng Kim, Nho Giáo, NXB văn hoá thông tin 2001). Ông đi chu du
khắp nơi trong nước mong tìm được minh quân để phò giúp nhằm khôi phục
hoà bình, thống nhất đất nước, nhưng không được trọng dụng, phần vì không
tìm được minh chủ, phần vì học thuyết của ông thoát ly hiện thực. Cuối đời,
hết sức thất vọng, ông trở về nước Lỗ chuyên tâm dạy học, chỉnh lý, san định
sách cổ nhằm giữ gìn, truyền bá văn hoá cổ đại. Những tập sách đó sau này
tập trung thành Ngũ Kinh, gồm có: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh lễ, Kinh Xuân
Thu. Ông không có trước tác riêng truyền lại cho hậu thế, nhưng học trò của
ông có hàng ngàn người, học ghi chép lại những lời Khổng Tử và soạn lại
trong các bộ Luận Ngữ, Trung Dung, Đại Học nhằm truyền đạo cho ông (ba
bộ trên sau này cùng với bộ Mạnh Tử hợp thành Tứ thư). Sau khi Khổng Tử
mất, hoc thuyết cảu ông chia ra làm nhiều phái, mỗi phái có ý nghĩa khác
nhau, nhưng hầu như càng về sau tinh thần của Nho giáo ngày càng kém đi và
xa rời dần so với những tư tưởng ban đầu của Khổng Tử. Tuy nhiên dù gặp
nhiều thăng trâm trong lịch sử nhưng Nho giáo vẫn trở thành công cụ đắc lực
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của gia cấp thống trị nhằm duy trì quyền lực của mình trong xã hôi phong
kiến. Từ đời Xuân Thu cho đến các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh trong hơn 2000 năm, Nho giáo cùng với ngai vàng của các triều đại đã
cùng nhau thống trị đời sống tinh thần của con người trong xã hội phong kiến.
Cho tới ngày nay khi đã kết thúc vai trò lịch sử của mình, Nho giáo vẫn có
những ảnh hưởng nhất định đối với xã hội Trung Quốc và một số quốc gia
châu Á khác trong đó có Việt Nam.
Tóm lại, Nho giáo là học thuyết có lịch sử lâu đời và mạng nhiều tính chất
phức tạp. Ngoài ra quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam cũng có
nhiều đặc biệt đáng lưu ý và đòi hỏi có sự nghiên cứu, tìm hiểu một cách to àn
diện khách quan
2. Quá trình du nhập và phất triển Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo là học thuyết có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài tại Trung Quốc và
một số quốc gia châu Á khác trong đó có Việt Nam. Nho giáo du nhập vào
Việt Nam không phải theo con đương giao lưu văn hoá mà là theo vó ngựa
của quân xâm lược, được thế lực phong kiến phương Bắc âm mưu sử dụng
làm công cụ đồng hoá nhân dân ta. Cũng chính vì thế nên ban đầu khi mới du
nhạp, Nho giáo không nhận được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam, mà thậm
chí trong hơn 1000 năm Bắc thuộc nó còn bị tẩy chaym chối bỏ. Tuy nhiên từ
thế kỉ X sau khi nước ta giành độc lập thì nhân dân ta dần tiếp thu những tư
tưởng chủ đạo của Nho giáo mà rõ nét hơn cả là việc các triều đại phong kiến
Việt Nam đã sử dụng Nho giáo như là hệ tư tưởng, công cụ trị nước, công cụ
đào tạo con người nhằm phục vụ gia cấp thống trị. Khi đó các triều đại phong
kiến Việt Nam đã nhận thấy Nho giáo là học thuyết có lợi cho sự thống trị của
mình nên đã không ngừng củng cố và đề cao nó, nhất là ở việc giáo dục theo
Nho giáo. Tuy nhiên ở các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê do phải củng cố chính
quuyền nên sự tác động của Nho giáo chỉ ở mức dộ công cụ để củng cố bộ
máy nàh nước chứ chưa ảnh hưởng đến chế độ khoa cử. Đến thời Lý, nền
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giáo dục Nho học được chính thức xác lập kể từ khi vua Lý Thánh Tông
(1034 – 1072) trị vì. Đây là Thời kì mà triều đại phong kiến Việt Nam hình
thành về cơ bản. Nhà Lý mở trường dạy Khổng giáo và tổ chức các kì thi
Khổng giáo. Tháng tám, mùa thu năm Canh Tuất 1070 nàh Lý cho xây dưng
Văn Miếu, đắp tương Khổng Tử, Chu Công và thất thập nhị hiền. Đây là sự
kiện đánh dấu việc nho giáo được chính thức thừa nhận về mặt nhà nước.
Năm 1075 vua Lý Nhân Tông (1073 – 1127) đã tuyển những người học rộng,
am hiểu Khổng giáo và tổ chức thi “Minh kinh bác học”, “Nho học tam
trường”. Năm 1076 Vua Lý cho thành lập Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu
và đặt ra Hàn lâm viện. Qua đó vau Lý đã khẳng định nền giáo dục chính
thống la nền giáo dục Nho học. Đến thời Trần, giáo dục Nho họpc tiếp tục
phát triển, phép thi quy củ hơn. Năm 1227 vua Trần Thái Tông (1225 – 1258)
mở khoa thi “Tam giáo” nghĩa là thi những người học Nho, Phật và Lão giáo.
Năm 1232, vua Trần Thánh Tông cho mở khoa thi “Thái học sinh” lấy 3
người đoc đầu gọi là Tam khôi gồm có Trang nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Ngoài ra nhà vua cong đặt quốc học viện để giảng Tứ thư, Ngũ kinh. Đến đời
nhà Trần Nho học thịnh hơn nhà Lý và có nhiều Nho gia chân chính như Mạc
Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên thời vua Trần Anh Tông (1293 – 1314), Trương
Hán Siêu làm quan đời cua Trần Anh Tông và vua Trần Minh Tông, Phạm Sư
Mạnh làm quan đời vua đời TRần Minh Tông và TRần Dụ Tông. Và đặc biệt
là Chu Văn An, nhà giáo dục, nhà Nho yêu nước, người đã dâng “Thất trảm
sớ” xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên nịnh thần nhưng vua không nghe. Nho
giáo thời kì này chủ yếu là Hán Nho và Đương Nho. Nhưng sau khi nhà Hồ
cướp ngôi nhà Trần rồi để đât nước rời vào tay quân Minh thì chúng đem
Tống Nho dạy cho nhân dân ta. Vua Lê Thái Tổ đánh đổ giặc Minh, khôi
phục nước nhà, mở mang Nho học. Năm 1428, Lê Thái Tổ đã hạ chiếu trong
nước dưng nhà học, dạy dỗ nhân tài. Đến năm 1429 khảo thí Minh kinh. Đến
đời vau Lê Thánh Tông (1460 – 1497) thì chế độ phong kiến Việt Nam cũng
như nền giáo dục Nho học ở vào thời kì cực thịnh, phát triển vượt bậc với
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiều thành tựu rực rỡ. Khổng giáo giờ đây đã vượt lên vị trí độc tôn, được
xem như “học thuyết triết học chính trị - xã hội mà giai cấp phong kiến làm
tinh thần thống trị tinh thần xã hội. Vào năm Giáp Thìn (1484), Lê Thành
Tông đã cho ghi tên tuổi các vị tiến sĩ vào bia dưng tại Quốc Tử Giám để lưu
danh những người đỗ đạt và khuyến khích tinh thần học tập của các Nho sĩ.
Thời kì này xuất hiện nhiều nàh Nho yêu nước sâu sắc mà tiêu biểu nhất là
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, là người tiếp thu Khổng giáo và vận dụng sáng
tạo nó vào việc củng cố chế độ phonng kiến Việt Nam trong thời đại Lê sơ.
Ngoài ra còn có các nhà Nho yêu nước khác như Nguyễn Trực, đỗ trạng
nguyện thời vau Lê Thái Tông, Lương Thế Vinh dỗ trạng nguyên thời vua
Thánh Tông... “Từ thời nhà Lê về sau, trải qua nhà Mạc, nhà hậu Lê và nhà
Nguyễn, Nho học ở Việt Nam tuy thịnh nhưng học giả trong nước phần nhiều
chỉ học lối khoa cử, lấy văn chương để cầu sự độ đạt chứ không có mấy người
học đến chỗ uyên thâm của Nho giáo để tìm thầy cái đạo lí cao xa hoăck là để
xướng lên các học thuyết có giá trị”(GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, TS Phạm
Văn Đức, TS Hồ Sĩ Quý “ Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá). Nhưng trong đó không thể phủ nhận rằng
vẫn cong những nhà Nho học rộng và có tài, có tinh thần yêu nước như
Nguyễn Bỉnh Khiêm đời nhà Mạc, những bậc văn sĩ tài giỏi như Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguễn Dữ (đều là học trò của Nguyễn Bỉnh
Khiêm) đời hậu Lê, Phạm Quý Thích, Nguyễn Du là những di Nho nhà Lê
sống trong thời Tây Sơn, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến...
Theo thời gian, qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhìn chung Nho giáo cũng
đã chiếm một vị trí quan trọng trong hệ tư tưởng chính thống của các triều đại
phong kiến và đến nhà Nguyễn (thế kỉ XIX), Nho giáo đã giữ vị trí độc tôn.
Tuy nhiên, Nho giáo triều Nguyễn cũng là giai đoạn hưng thịnh cuối cùng của
Nho giáo Việt Nam. “Nếu như Nho giáo Việt Nam trong một số triều đại
trước ít nhiều có tính chất tích cực và hợp thời thì Nho giáo triều Nguyễn đã
trở thành hết sức tiêu cực và lỗi thời. Vì lỗi thời nên Nho giáo triều Nguyễn
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã thất bại trong việc ấn định trật tự xã hội và hoàn toàn thất bại trước thử
thách của lịch sử. Sự thất bại của Nho giáo triều Nguyễn đã cho thấy được
chân lý lúc bấy giờ: muốn giành được độc lập dân tộc và cải thiện được dân
sinh và đưa nhà nước tiến lên những đỉnh cao của htời đại, người Việt Nam
phải được trang bị bằng một tư tưởng khác cao hơn Nho giáo” (GS.TS
Nguyễn Trọng Chuẩn, TS Phạm Văn Đức, TS Hồ Sĩ Quý “ Tìm hiểu giá trị
văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá). Đầu thế
kỷ XX chính quyền thực dân Pháp và phong kiến Việt Nam đã huỷ bỏ chế đọ
học tập và thi cử theo Khổn giáo. Tuy vậy, Khổng giáo vẫn có ảnh hưởng lâu
dai đến xã hội và con người Việt Nam. Phan Bội Châu là nhà cách mạng dân
tộc tiêu biểu cho những năm đầu của thế kỷ XX. Với tư cách là một nhà Nho
yêu nước, ông đã kêu gọi những phần tử ưu tú của tầng lớp nhà Nho nổi dậy
chống lại ách thống trị của kẻ xâm lược. Nhưng càng về sau này, Nho giáo
càng trở nên lạc hậu, phản động và dần dần mất đi ảnh hưởng của mình ngay
cả trên quê hương Trung Quốc cũng như ở Việt Nam và đến nay đã hoàn toàn
chấm dứt vai trò lịch sử của mình.
3. Những nội dung cơ bản của học thuyết đạo đức nho giáo.
3.1 Vai trò của đạo đức nho giáo.
Quan điểm đạo đức của một trường phái triết học, của một tôn giáo nào đó
bảo vệ lợi ích, quyền lợi cho một chế độ, một hình thái kinh tế xã hội nào đó.
Vì vậy học thuyết đạo đức Nho giáo được sinh ra nhằm phục vụ cho chế độ
nhà nước phong kiến.
Học thuyết đạo đức Nho giáo một mặt phản ánh những hành vi ứng xử giữa
cá nhân và xã hội, mặt khác phản ánh quan hệ giai cấp trong xã hội. Trong
Nho giáo vấn đề cơ bản nhất, bao quát nhất là vấn đề đạo đức: “Trời có đạo
trời, đức trời, đất có đạo đất, đức đất, muôn vật cũng có đạo đức của muôn
vật.”(Quang Đạm, Nho Giáo xưa và nay)con người có đạo đức của con người.
Vì vậy con người phải đặt việc rèn luyện trau dồi đạo đức lên hàng đầu.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hơn nữa, Nho giáo còn được coi là một học thuyết đạo đức bởi vì nho giáo
đưa ra những quan điểm về thiện, ác, đạo làm người cùng những chuẩn mực,
những quy tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh, đánh giá hành vi của con
người trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình
với quốc gia và thiên hạ. Trong xã hội, Nho giáo chú ý nhiều nhất đến quan
hệ vua- tôi. Vua được coi là thiên tử(con trời) có quyền lực tối cảôtng thiên
hạ, thay trời cai trị muôn dân. Còn kẻ bề tôi phải tận trung với vua, đúng như
Đổng Trọng Thư nói “ Vua xử thần tử thần bất tử bất trung”(Nguyễn Hữu Vi,
Giáo trình lịch sử triết học).
Trong gia đình, Nho giáo đề cao mối quan hệ cha-con và mối quan hệ
chồng vợ. Nhằm duy trì trật tự tôn ti trong gia đình góp phần củng cố trật tự
kỷ cương ổn định xã hội và ràng buộc trách nhiệm giữa con người với con
người. Trong quan hệ cha con, Nho giáo đặt vị trí người cha cao hơn, người
con có ngiã vụ phải kính trọng và chăm sóc cha mẹ. Phải coi việc phụng sự
cha mẹ là gốc của mọi việc trọng đại. Đấy là chữ “Hiếu”. Đồng thời người
con phải phục tùng mệnh lệnh của người cha. Trong quan hệ vợ chồng, Nho
giáo đưa ra những chuẩn mực đạo đức ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ
giữa vợ chồng với nhau. Đặc biệt Nho giáo đề cao vai trò của người chồng
trong gia đình, người phụ nữ thường phải chịu nhiều thiệt thòi hơn.
Tóm lại học thuyêt đạo đức nho giáo không chỉ phản ánh quan hệ đạo đức
mà còn phản ánh quan hệ đạo đức xã hội nhằm mục đích chính trị.
3.2 Những phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo.
Trong học thuyết đạo đức Nho giáo thì trung tâm nằm ở Tam Cương và
Ngũ thường. Tam cương liên kết với Ngũ thường bằng năm đức Nhân, lễ,
Nghĩa, Trí, Tín.
Đức nhân
Trong đạo đức làm người, chữ nhân được Khổng Tử đặt lên hàng đầu, đức
nhân là tiêu chuẩn cao nhất, Nhân là điều hợp với đạo đức và lòng người.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhân, một mặt là lòng thương người “điều mà mình không muốn thì đừng
làm cho người khác”, “ muốn lập thân thì phải giúp người khác lập thân
trước, muốn thành đạt cũng phải giúp người khác thành đạt. Đồng thời với
bản thân phải kiềm chế mình theo đúng lễ, nếu không hợp với lễ thì không
nhìn, không nói, không nghe, không làm. Ngoài ra nhân còn bao gồm các nội
dung khác như: cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần
cù....Như vậy nhân là một phạm trù rất rộng gần như đồng nghĩa với đạo đức.
Khổng tử coi Nhân và Thánh gần như một, đã Thánh là Nhân, đã Nhân là
Thánh. Bản thân Khổng Tử cũng chưa dám nhận là người có nhân. Còn
Khổng Nhan, Mạnh Tử, Tăng Tử đều khẳng định Nhân là đỉnh cao chót vót
của lâu đài đạo đức.
Trong quan hệ gia đình, Khổng Tử nhấn mạnh đến quan hệ cha mẹ- con cái
trong đó nổi lên chữ hiếu. Ông khẳng định rằng Nhân là gốc của Hiếu. Con
cái phải luôn có hiếu với cha mẹ, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ là nghĩa vụ
và bổn phận của con cái, đồng thời phải yêu thương kính trọng cha mẹ. Kính
đồng thời cũng là bản chất của chữ Hiếu, có nghĩa Kính cũng chính là Nhân.
Đối với các phẩm chất Trí, Dũng cũng vậy. Khổng Tử nói “Nhân giả tất hữu
dũng, dũng giả bất tất hữu nhân”(Luận Ngữ) (người có nhân tất có dũng,
người có dũng chưa chắc có nhân)
Như vậy có thể khẳng định rằng “Chữ Nhân đối với mọi người trong thiên
hạ còn hơn cả nước, lửa, người ta có thể đạp lên nước, lửa mà chết chứ không
đạp lên chữ nhân”(Nguyễn Đăng Duy,Nho Giáo với văn hoá Việt Nam)(Dân
chi ư nhân dã, thậm ư thuỷ hoả, thuỷ hoả ngô kiến đạo nhi tử giả, dễ di kiến
đạo nhân nhi tử giả dã).
Đồng nghĩa với việc coi chữ Nhân là nội dung, là tinh thần cốt lõi trong học
thuyết đạo đức nho giáo.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đức lễ
Đặt sau đức Nhân là đức lễ nhằm giáo dục con người, duy trì các mối quan
hệ trong vòng trật tự kỉ cương.
Trước hết, lễ là phạm trù chỉ tôn ti trật tự, kỉ cương của xã hội mà mọi
người, mọi giai cấp trong xã hội phải học phải tuân theo. Theo đó, trong xã
hội có vua- tôi, cha-con, chồng- vợ, có người trên kẻ dưới, có việc trái việc
phải cho nên phải có lễ để phân minh rõ ràng.
Thứ hai, lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt
buộc, ràng buộc với mọi hành vi, ứng xử của con người trong các mối quan
hệ xã hội cũng như trong các hoạt động khác của con người. Tuy nhiên lễ
không phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề
luôn gắn liền với Nhân. Trong mối quan hệ giữa Nhân và lễ thì Nhân là gốc,
là nội dung còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ trong các tang lễ, xa xỉ chẳng
bằng tiết kiệm, đầy đủ mọi nghi thức chẳng bằng xót thương.
Do đó “Người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được” vì “ Nói về lễ
không phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”
Lễ không những là biểu hiện của Nhân mà lễ còn điều chỉnh đức Nhân cho
đúng. Khổng Tử nói “ Cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà
không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng
thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”.
Và theo Khổng Tử giữa tình và lễ thì lễ quan trọng hơn, vì thế ông đã nói cai
trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì
dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng
đạo đức đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực
lòng quy phục”. Như vậy đức lễ có vai trò rất lớn trong việc cai trị dân, trong
đường lối cai trị nước của các bậc thiên tử ở thời đại phong kiến.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong giáo dục cũng chủ trương đề cao đức lễ, mục đích giáo dục là uốn nắn
nhân cách và bồi dưỡng nhân tài vì vậy phương châm giáo dục quan trọng
trong nho giáo là “ Tiên học lễ, hậu học văn”.
Vì vậy đức lễ có vai trò rất lớn, nó quy định hình thức mối quan hệ giữa
người với người trong xã hội.
Đức nghĩa
Trong quan niệm của nho giáo, “Nghĩa vừa là phạm trù đạo đức vừa là
phạm trù chính trị xã hội. Khổng tử coi nghĩa là phẩm chất cơ bản của người
quân tử “ Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa” (quân tử dụ ư nghĩa”) đồng
thời người quân tử phải hành động vì nghĩa “ Người quân tử dùng nghĩa lí
làm căn bản” (Luận Ngữ )(quân tử nghĩa dĩ vi chất).
Nghĩa gắn liền với Nhân, Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc thì nghĩa là nghĩa
vụ để thực hiện tình cảm đó. Do đề cao nghĩa ngang với Nhân nên Mạnh Tử
khuyên người ta chỉ nên nói điều “nhân nghĩa” “Tôi vì Nhân nghĩa mà thờ
vua, con vì Nhân nghĩa mà thờ cha, em vì Nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi,
cha con, anh em đều bỏ lợi, đối với nhau chỉ bằng lòng hâm mộ nhân nghĩa.
Quốc gia như thế mà không hưng thịnh thì chưa từng có”(.Luận Ngữ )(Vì
vậy nghĩa mục tiêu sống mà con người cần vươn tới.
Nghĩa cũng gắn liền với dũng, muốn làm việc nghĩa mà không có dũng thì
không thể thực hiện được, Khổng Tử trọng dũng gắn liền dũng với nghĩa,
trong đó nghĩa chỉ đạo dũng và dũng phải phù hợp với nghĩa.
Ngoài ra nghĩa cũng đồng nghĩa với cái tâm trong sáng, không bị những
ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc nghĩa với cái tâm trong
sáng, không bị những ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc
nghĩa là những bậc công tử mà “phú quý bất năng dâm bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất”( phú quý không ham muốn, không vì nghèo đói mà hạ
thấp mình, không vì uy vũ mà bị khuất phục).
11