Quản trị điểm đến
Nhóm 3
Kế hoạch Marketing cho Làng gốm Bát Tràng
d.Nhu cầu thị trường đối với du lịch làng nghề Bát Tràng.................................................4
4.1 Thị trường mục tiêu của du lịch Bát Tràng.................................................................16
4.2 Mục tiêu của kế hoạch Marketing...............................................................................18
4.3. Chiến lược Định vị.....................................................................................................19
4.4. Chiến lược Marketing................................................................................................20
1. Giới thiệu chung
Làng có lịch sử khoảng 500 năm với khá nhiều ngôi nhà cổ có tuổi từ 100 ÷
200 năm. Trên tường các ngôi nhà này thường gắn nhiều mảnh gốm hoặc
gạch Bát Tràng. Loại gạch làng Bát Tràng nổi tiếng bền trắc và không bị
mọc rêu.
Từ xa xưa, số hộ giàu đã chiếm một tỷ lệ tương đối trong làng, các hộ này đã
xây cất cho mình những ngôi nhà bề thế, những ngôi nhà đó giờ đây đã trở
thành những công trình kiến trúc hết sức cổ kính. Ngoài ra, các công trình
như: đền làng, đình làng và nhà thờ họ, thờ tổ cũng được xây dựng rất kiên
cố, có cột, xà và cửa bằng lim. Tiếp thu nền kiến trúc kiểu Pháp vào những
năm đầu thế kỷ XX, trong làng cũng có những ngôi nhà kiểu Pháp có tường
1
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
rất dày từ 40 ÷ 60 cm, trần cao, mái nhà được làm bằng xà lim và gạch mỏng
Bát Tràng. Giờ đây, nhiều ngôi nhà với các kiểu kiến trúc cổ và các ngôi nhà
theo kiến trúc mới đan xen tạo nên sự phong phú về kiến trúc rất hấp dẫn
khách du lịch.
Hiện nay, làng có 100% số hộ gia đình sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ.
2. Thực trạng làng nghề Bát Tràng
a. Thực trạng du lịch làng nghề
Được mệnh danh là “đất trăm nghề”, kể từ khi mở rộng về phía Tây, Hà Nội
có tới 256 làng nghề truyền thống. Trong đó, gần 1/4 là những làng nghề lâu
đời trên 100 năm tuổi với đậm đặc các giá trị văn hoá - lịch sử. Đó là một
nguồn tài nguyên du lịch dồi dào có thể khai thác sử dụng ở hai hình thức:
du lịch thương mại và du lịch nhân văn. Nhằm thu hút khách ngoại địa - đặc
biệt là khách Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Thế nhưng, ngoại trừ hai cái tên được nhắc đến liên tục là Bát Tràng và làng
lụa Vạn Phúc, các làng nghề khác gần như bị bỏ quên, mặc dù có chủ trương
từ chính quyền địa phương. Ví như cụm làng nghề mây tre đan ở Chương
Mỹ, khảm trai Chuyên Mỹ, thêu Quất Động, nón làng Chuông, sơn mài Hạ
Thái… Dù được đầu tư phát triển du lịch từ những năm 2003 – 2004 song
đến nay tình hình du lịch tại những địa điểm này không có biến chuyển tích
cực nào, lượng tour thưa thớt, khách hàng thờ ơ.
Trong năm 2009, Sở Công thương TP.Hà Nội cũng đã có chủ trương và thực
hiện nhiều hoạt động hỗ trợ thúc đẩy du lịch làng nghề như tổ chức hội thảo
đánh giá thực trạng làng nghề lưu vực sông Đáy, sông Nhuệ; thu thập thông
tin về làng nghề để xuất bản sách, phim; tổ chức các lớp học truyền nghề,
các triển lãm sản phẩm thủ công nghiệp để xúc tiến thương mại, liên kết
kinh doanh nhằm bảo tồn, phát triển các nghề thủ công truyền thống…
Tuy nhiên, các kế hoạch của Sở vẫn chưa có định hướng cụ thể cho việc phát
triển ở mỗi làng nghề. Trong khi đó, nếu có định hướng chi tiết, những làng
nghề gần trung tâm như làng hoa Tây Tựu, Cốm Vòng, tương-miến Cự
Đà… đầy cơ hội để phát triển một cách bền vững.
Các làng nghề ở Hà Nội như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, gỗ Vân Hà, sơn
mài Hạ Thái, thêu Quất Động… có thể nói đã “ăn nên làm ra” nhờ xuất khẩu
các đồ mỹ nghệ, nhưng việc “xuất khẩu tại chỗ” cho khách du lịch lại chưa
phát triển đúng với thế mạnh của làng.
Khách Tây Âu rất thích đồ sơn mài. Khách Nhật rất thích tranh thêu. Khách
Mỹ rất thích đồ mỹ nghệ bằng gỗ, tre, rơm… Họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra
mua những tác phẩm nghệ thuật chất lượng. Nhưng khi họ sang Việt Nam
2
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
với mục đích du lịch, thường là dài ngày, các làng nghề chưa có những chính
sách chiến lược để phát triển các thể mạnh tiềm năng của mình trong việc
thuyết phục những đối tượng khách này.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó phải kể đến: hạ
tầng văn hoá truyền thống bị phá vỡ bởi quá trình đô thị hoá, môi trường ô
nhiễm do sản xuất phát triển, các điểm và các sản phẩm chưa được quan tâm
phát triển một cách đúng mực.
b. Tương lai du lịch làng nghề
Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới
tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc
trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước. Khi tham gia
tour du lịch làng nghề, khách không chỉ được ngắm phong cảnh du lịch làng
quê mà còn được thăm nơi sản xuất, thậm chí có thể tham gia vào một phần
quá trình tạo ra sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của
làng nghề truyền thống.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự tồn tại các làng nghề truyền thống
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương nói riêng và của cả
nước nói chung, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra
nhiều chính sách, giải pháp nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề và
đặc biệt khuyến khích sự phát triển của loại hình du lịch làng nghề.
Để làm được điều trên, trước mắt phải nhanh chóng chấn hưng làng nghề,
xây dựng các thiết chế về du lịch làng nghề, mở tour du lịch làng nghề, phát
triển các Showroom du lịch làng nghề. Kêu gọi đầu tư các nguồn lực trong
và ngoài nước xây dựng các đề án như: Hệ thống quản lý Showroom sản
phẩm làng nghề gắn kết với hoạt động du lịch.
c. Thị trường khách của làng gốm Bát Tràng
Khách đến với Bát Tràng vô cùng phong phú đa dạng với nhiều mục đích khác nhau.
Trong số khách quốc tế đến Hà nội mỗi năm thì lượng khách đến với Bát
tràng đạt 8- 9 Nếu thông kê đủ, số lượng khách quốc tế vào Hà Nội ước tính
lên tới gần 1 triệu lượt người. Trung bình hàng tháng, làng Bát Tràng đón
25-30 nghìn lượt khách, trong đó có khoảng 6-7 nghìn lượt khách quốc tế.
đến để tham quan các sản phẩm gốm và thực hiên các giao dịch buôn bán.
Ngoài ra cón hàng vạn khách nội địa đến đây tham quan mua sắm, nghiên
cứu tìm hiểu.
3
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
Khách nội địa chủ yếu là học sinh, sinh viên; các nhà chuyên gia, nghiên cứu
tìm hiểu về gốm sứ bát tràng chiếm 60%. Ngoài ra, khách đến tham quan
mua sắm đơn thuần chiếm 40%.
Khách quốc tế đến Bát Tràng có nhiều quốc tịch khác nhau. Tuy nhiên, chủ
yếu là Anh, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc. Khách tới đây tham quan mua
sắm đơn thuần chiếm 85% cón khách đến giao dịch làm ăn chiếm khoảng
25%.
Khách đến Bát Tràng tùy mục đích có thể lưu lại trong các khoảng thời gian
khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là tương đối ngắn. Khách nội địa thường đến
trong các ngày cuối tuần, các dịp lễ tết. Còn khách tham quan quốc tế,
thường đi theo đoan song thời gian lưu lại cũng rất ngắn.
d. Nhu cầu thị trường đối với du lịch làng nghề Bát Tràng
Lượng khách được Sở văn hóa thể thao và Du lịch Hà Nội công bố chính
thức trong 6 tháng đầu năm 2011 là 650.000 lượt khách, tăng 23% so với
cùng kỳ năm ngoái, trong đó đứng đầu là thị trường khách Trung Quốc, tiếp
đến là Australia, Nhật Bản. Đây là số lượng khách có thể thống kê, ngoài ra
còn có lượng khách chưa thống kê là du khách quốc tế đu bằng đường biển
đến Hải Phòng, Quảng Ninh; sau đó tham quan Hà Nội trong ngày rồi trở về
địa phương trên; lượng khách Trung Quốc vào Việt Nam bằng giấy thông
hành từ các cửa khẩu phía Bắc được các công ty du lịch đưa đến Hà Nội
tham quan trong ngày rồi vào Quảng Ninh, Hải Phòng.
Nhu cầu thiết yếu: Về cơ sở lưu trú và nhà hàng
Khách du lịch nước ngoài đến thăm làng nghề Bát Tràng với mục đích tham
quan tìm hiểu làng nghề gốm truyền thống Việt Nam, vừa trải nhiệm khung
cảnh làng quê vừa được tham gia vào quá trình sản xuất của người thợ để tạo
ra những sản phẩm gốm tinh xảo. Vì vậy họ rất muốn ở lại nghỉ đêm tại làng
nghề để xem cảnh đốt lò nung gốm. Điều này tạo cầu lớn đối với những cơ
sở lưu trú và các nhà hàng phục vụ ăn uống tại làng nghề Bát Tràng. Hiện
nay ở Bát Tràng, cơ sở lưu trú và ăn uống phục vụ khách du lịch quốc tế hầu
như là chưa có, không thể đáp ứng được đối với tour du lịch làng nghề.
Nhu cầu đặc trưng
• Nhu cầu về các tour du lịch trọn gói hấp dẫn du khách
4
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
• Tìm hiểu lịch sử hình thành, phát triển của làng nghề Gốm Bát
Tràng và quá trình sản xuất gốm Bát Tràng. Đến với làng nghề Bát
Tràng, du khách luôn có mong muốn được tìm hiểu những thông
tin về làng nghề, qua đó tiếp cận nền văn hóa truyền thống giàu
màu sắc của Việt Nam.
• Tìm hiểu văn hóa, tập quán sinh hoạt của người dân làng nghề Việt
Nam, tham quan cảnh vật làng quê Việt Nam. Bát Tràng là một
trong những làng nghề còn giữ được nhiều nét đặc trưng, dân dã,
quen thuộc của làng quê Việt Nam.
• Tham gia vào quá trình làm gốm, trực tiếp quan sát người thợ làng
nghề sáng tạo ra những sản phẩm gốm mang giá trị truyền thống
Việt Nam.
• Tìm hiểu các thông tin cơ bản về Bát Tràng thông qua các phương
tiện đại chúng.
• Sở hữu những món đồ lưu niệm đặc trưng của Bát Tràng. Với mục
đich đi thăm quan tìm hiểu văn hóa và tập quán địa phương, các
du khách đều có nhu cầu đối với các mặt hàng lưu niệm, các sản
phẩm đặc trưng của làng nghề. Hàng thủ công truyền thống có thể
được ví như biểu tượng văn hóa và nghệ thuật của một quốc gia, là
nhân tố quan trọng để hấp dẫn du khách. Xuất khẩu tại chỗ hàng
thủ công truyền thống thông qua việc bán cho khách du lịch đã
mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ.
Các sản phẩm gốm Bát Trạng được xuất khẩu đi rất nhiều nước
trên thế giới, tuy nhiên đối với việc “xuất khẩu tại chỗ” lại chưa
được lưu tâm đúng mức. Các mặt hàng gốm tại chợ Bát Tràng chủ
yếu là những mặt hàng sản xuất theo ý thích cá nhân của người thợ
hoặc làm rập khuôn theo truyền thống, chưa có sự sáng tạo và điều
chỉnh theo thị hiếu của khách du lịch. Đa phần các sản phẩm đều
không phải những mặt hàng được gia công với độ tinh xảo cao.
Trong khi khách du lịch lại có nhu cầu lớn đối với những sản phẩm
lưu niệm tinh xảo và mang tính đặc trưng của làng nghề.
5
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
Làng Bát Tràng đã làm du lịch nhiều năm, tuy nhiên đối với sản
phẩm đặc trưng của làng nghề, mang dấu ấn và ký ức riêng của
gốm Bát Tràng hiện nay vẫn còn là một vấn đề chưa được giả đáp.
Nhu cầu bổ sung: Các dịch vụ bổ sung phục vụ quá trình tiêu dung của
khách tại làng nghề Bát Tràng như dịch vụ nghỉ ngơi, giải khát, hàng quán…
e. Sản phẩm
Sản phẩm gốm Bát Tràng vừa đa dạng về chủng loại, vừa phong phú về màu
sắc kích cỡ. Ngoài những sản phẩm truyền thống có từ các đây 400, 500
năm, thì hiện nay với nhu cầu thị trường đã xuất hiện rất nhiều mẫu mã mới
phục vụ cho cuộc sống. Xét về tổng thể thì có thể chia các sản phẩm của Bát
Tràng làm các loại chủ yếu sau:
• Đồ dân dụng.
- Cỡ nhỏ có: bát cơm, bát đào, bát đá, chén, tách và be rượu.
- Cỡ vừa có: bát yêu, bát nắp, ấm chuyên, ấm tích, liễn, phạng, thùng hoa bèo,...
• Đồ thờ.
Bát hương, đỉnh chầm, cây đèn, độc bình, song bình, lộc bình, ống cắm
hương, chân nến, lọ hoa, bộ tam đa và các loại choé,...
• Đồ trang trí nội thất và vườn.
Có các loại chậu hoa, chậu thống, đôn, trạc, nghê, voi, vịt, cá, tôm, cua, ve
sầu cùng các loại phù điêu và đĩa treo tường và mới đây là những đồ vật có
kích thước rất nhỏ và ngộ nghĩnh thường phục vụ dưới hình thức đồ lưu
niệm cho khách du lịch như hộp phấn, hình người, bộ ấm chén cỡ nhỏ xíu.
Với những ngày lễ trong năm như: ngày quốc tế phụ nữ, ngày lễ tình yêu,
ngày nhà giáo,... cũng có những sản phẩm đặc trưng tại các quầy hàng.
Kỹ thuật chế tác gốm ở Bát Tràng đã có thể phục chế lại được tất cả các sản
phẩm cổ truyền đặc sắc từ 300 ÷ 400 năm trước, điều mà không một nơi sản
xuất gốm sứ làm được giỏi bằng. Chính điều này đã giúp Bát Tràng không
những duy trì được tiếng tăm vốn có mà còn làm cho tiếng tăm đó vang xa hơn.
Trong mỗi sản phẩm là tâm hồn và tài nghệ với nét văn hoá Bát Tràng từ xưa
truyền lại qua bao đời nay, các sản phẩm đó vẫn rất đẹp và vô cùng rõ nét.
Có những sản phẩm của các nghệ nhân Bát Tràng đã trở thành báu vật của
làng như chiếc bình gốm cao 3m của nghệ nhân Nguyễn Minh Ngọc tại xóm
6
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
1, làng cổ Bát Tràng. Đây là chiếc bình sứ lớn nhất Việt Nam và là niềm tự
hào của người dân Bát Tràng.
Với những sản phẩm mang tính lịch sử và nghệ thuật như vậy, khách du lịch
có thể đến thăm làng theo các tour du lịch chuyên đề như: Nghệ thuật gốm
sứ dân gian Việt Nam hay văn hoá Viêt Nam hoặc đơn thuần chỉ để ngắm
nhìn sự phong phú trong các cửa hàng.
f. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Bát Tràng là một trong ít làng nghề được thành phố quan tâm đầu tư cơ sở
hạ tầng phục vụ du lịch tương đối đồng bộ: có xe buýt từ Hà Nội chạy tới
tận xã, có cảng đường sông thuận lợi cho du khách đi bằng đường thủy.
Đường bộ và đường sông đến Bát Tràng rất thuận tiện nhưng hiện tại rất cần
được cải tạo và nâng cấp. Bến sông hiện nay là bãi đổ chất thải rắn của làng,
gây mất mỹ quan và tạo ấn tượng ban đầu không tốt cho du khách. Đường
dẫn lên bến vào làng còn tương đối hẹp. Tuyến đường đê Long Biên - Xuân
Quan hiện đang bị xuống cấp, có rất nhiều ổ gà gây cản trở việc đi lại. Hiện
nay tuyến đường đã được mở rộng hơn 2m sau khi xây kè đê bằng bê tông
nhưng đường vẫn chưa được tu bổ nâng cấp.
Bao quanh làng là một con đường bên sông mà từ đó du khách có thể phóng
tầm mắt bao quát được ra mặt nước sông Hồng mênh mông rộng lớn. Con
đường này đã được quyết định thi công trong tổng thể kế hoạch quy hoạch
chi tiết làng nghề truyền thống Bát Tràng, nhưng mới chỉ được hoàn thành
3/4. Phần còn lại từ Đình đến thôn Giang cao được cho rằng đó là phần đẹp
nhất của làng thì chưa được làm. Con đường này bị cụt một đoạn từ cổng
Đền làng đến thôn Giang cao vì bị lở khi nước sông lên hằng năm nên muốn
tạo một con đường dài liên tục thì phải xây kè và mở lại đoạn đường đã bị
nước sông cuốn đi. Hiện nay con đường phần được làm mới chỉ đổ bê tông.
Đường đi trong làng cổ vẫn rất chật hẹp và ngoắt ngéo tuy đó là nét đặc
trưng của làng, nhưng để khách du lịch có thể tiện đi lại thì cần có biển chỉ
dẫn bởi lối đi trong làng nếu không phải người làng thì rất khó thâm quan
được mọi nơi trong làng.
Cở sở vật chất phục vụ ăn nghỉ khách du lịch còn hạn chế. Các loại hình
dịch vụ để du khách có thể nghỉ ngơi khi tới tham quan như: nhà hàng, quán
cafe, bưu điện, nhà vệ sinh công cộng,...
Đối với khách du lịch nước ngoài, họ rất muốn ở lại Bát Tràng qua đêm để
được xem thực tế cảnh đốt lò nung gốm, nhưng không thểs vì địa phương
7
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
không bố trí được chỗ ăn nghỉ. Rồi các công trình phụ cận hỗ trợ việc đón tiếp
du khách còn rất thiếu, ảnh hưởng không nhỏ đến khai thác tiềm năng du lịch.
• Thực trạng về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng chưa cao. Xã Bát Tràng có hơn
7.000 nhân khẩu, trên diện tích 164ha đất. Trong đó, 99% dân số tham gia
vào làng nghề truyền thống (bao gồm 84% dân số sản xuất đồ gốm sứ, 15%
dân số làm dịch vụ cho làng nghề (buôn bán men, đất, hồ, chất đốt...).
Theo danh sách của UBND xã thì năm 2003, Bát Tràng có 562 hộ sản xuất
phải đóng thuế. Tuy nhiên, con số này tụt dần từ đầu năm 2004, đặc biệt đến
những tháng cuối năm, thay vì hoạt động rầm rộ như những năm trước, số
gia đình ngừng sản xuất bất ngờ tăng lên một cách đáng lo ngại. Cụ thể là:
Tháng 8 có 236 hộ nghỉ, tháng 9 có 210 hộ nghỉ, tháng 10 có 199 hộ nghỉ và
tháng 11 có 197 hộ nghỉ...
Hiện nay, Bát Tràng đang khan hiếm lao động có kỹ thuật và có tay nghề. Theo
thống kê của Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng, có 90% thanh niên Bát Tràng biết làm
gốm nhưng theo đuổi nghề thì không nhiều. Hầu hết họ được đào tạo theo kiểu
“cha truyền con nối”, chưa có nhiều bước đột phá sáng tạo trong quá trình làm
gốm. Buộc phải thuê lao động ngoại tỉnh. Công việc được thuê chủ yếu là: đổ
rót, chuốt, vẽ, trồng - dỡ lò, làm men... Lao động ngoại tỉnh đến đây do không có
gì ràng buộc nên việc thợ bỏ đi thường xuyên xảy ra.
Thiếu lao động có trình độ cao, lao động trẻ, thiếu người thực sự tâm huyết
và yêu nghề dẫn đến việc làng nghề Bát Tràng đang “khủng hoảng” về lao
động. Chưa có giải pháp cụ thể nào cho thực trạng này. Để đẩy nhanh tiến
độ công việc cho kịp thời gian giao hàng, hầu hết các xưởng gốm đều chấp
nhận thuê thợ với giá cao, mặc dù họ chưa đáp ứng được chất lượng cũng
như yêu cầu của công việc.
• Thực trạng về môi trường
Trước những năm 2000 toàn xã và vùng gốm sứ có trên 1000 lò hộp đốt
than, mỗi ngày làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi
trường khoảng 2.000 tấn khí độc hại gồm: CO, CO2, H2S, hắc ín,
Hydrocacbon và khoảng 600 tấn chất thải rắn, bụi silic. Cảnh quan xuống
cấp do môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề bởi chất thải khí và chất
thải rắn (70% dân số bị mắc bệnh rối loạn đường hô hấp và hơn 80% bị đau
mắt hột). Về Bát Tràng điều đầu tiên nhìn thấy là đường làng ngõ xóm đâu
cũng vương vãi bột than và xỉ lò, tường nhà, nơi nào cũng là phương tiện
chế biến nhiên liệu.
8
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
Từ năm 2006, Ban quản lý dự án nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa phối hợp cùng UBND xã Bát Tràng và
Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng triển khai dự án “Thúc đẩy ứng dụng lò ga nung
gốm tiết kiệm năng lượng” tại làng nghề đã làm thay đổi bộ mặt nơi đây.
Theo kế hoạch phát triển của dự án đến hết năm 2010 sẽ thực hiện chuyển
đổi về cơ bản 150 lò than đang hoạt động tại xã thay thế bằng lò gas bông
gốm tiết kiệm năng lượng mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho các hộ sản xuất
và bảo vệ môi trường.
Từ năm 2008 -2010, số lượng lò nung ga công nghệ mới tăng một cách
nhanh chóng, từ 40 dự án lên tới hơn 600 dự án. Theo kết quả điều tra mới
nhất của xã Bát Tràng, hiện trên 95% các hộ sản xuất gốm ở Bát Tràng đã
chuyển từ lò đốt than sang công nghệ là nung ga.
Tuy nhiên do giá gas cao nên nhiều người vẫn muốn giữ lò than để làm hàng
chợ, hàng không vẽ họa tiết cầu kỳ, dù biết là lò than thì gây độc cho môi
trường. Do số lượng lò than còn nhiều nên tình trạng ô nhiễm môi trường
làng nghề vẫn không được cải thiện. Nhiều hộ có mặt bằng sản xuất chật hẹp
phải tận dụng đường đi, tường rào làm chỗ phơi than, đổ xỉ than. Đường sá
bụi bặm rất trở ngại cho việc đón khách du lịch. Vẫn còn tồn tại những
trường hợp vi phạm vệ sinh môi trường, đổ rác thải không đúng nơi quy
định.
• Thực trạng về chính sách phát triển
Từ năm 2002, các nghệ nhân Bát Tràng bắt đầu liên kết để sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm thông qua Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng. Những thành viên của
hiệp hội không chỉ là những gia đình sản xuất gốm mà còn có cả các công ty
kinh doanh gốm sứ. Thông qua hiệp hội, người Bát Tràng có cơ hội tìm
hiểu, nắm bắt thông tin về thị trường, các kiến thức mới trong công nghệ sản
xuất gốm sứ, phương thức buôn bán thời thương mại điện tử và cách nâng
cao năng lực cạnh tranh.
Mới đây, Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng đã thành lập Trung tâm xúc tiến xuất
khẩu Bát Tràng và tiến hành xây dựng thương hiệu "Bát Tràng Việt Nam-
1.000 năm truyền thống".
3. Phân tích SWOT
a. Điểm mạnh ( Strengths) :
• Có một lịch sử lâu đời
9
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
Làng gốm sứ Bát Tràng được hình thành từ thế kỷ 15. Trong những năm tồn
tại và phát triển của làng, nhiều đời nghệ nhân đã làm ra những sản phẩm có
giá trị, tạo lập danh tiếng cho xứ sở. Khách trong, ngoài nước tấp nập đến
thăm quan, mua hàng. Trong các cửa hàng, có đủ các mẫu gốm sứ từ cổ
truyền đến hiện đại của các nước Pháp, Italy, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc. Kể từ lúc hình thành phường Bạch Thổ đến ngày nay, quê gốm Bát
Tràng đã trải qua bề dày lịch sử vẻ vang rất đáng tự hào. Giá trị lịch sử lâu
đời là một điểm mạnh để thu hút khách du lịch đến với Bát Tràng.
• Có lễ hội hàng năm thu hút khách du lịch
Hàng năm lễ hội làng Bát Tràng được tổ chức vào dịp Rằm tháng Hai âm
lịch, gồm các phần tế lễ theo phong tục truyền thống và lễ rước nước, tắm
bài vị, rước bài vị ra đình.Làng nghề Bát Tràng, ven sông Hồng, nổi tiếng
với nghề làm gốm. Làng gần bến sông, có đủ đình, chùa, đền, miếu linh
thiêng và cũng là nơi dân làng sinh hoạt cộng đồng khi làng vào đám hoặc
dịp lễ tết trong năm .
Hội làng diễn ra trong 2 ngày 15 và 16 tháng hai âm lịch và thường kéo dài
7 ngày. Cùng với nghi lễ rước nước, tế lễ và các trò chơi dân gian, làng nghề
sẽ trưng bày những sản phẩm gốm đặc sắc nhất của mình tại “Chợ gốm Bát
Tràng” nằm ở vị trí trung tâm của làng. Những hoạt động sôi nổi trên thu
hút rất nhiều khách du lịch đến Bát Tràng vào dịp lễ hội diễn ra.
• Có điểm mua sắm nổi tiếng đặc trưng thu hút khách du
lịch
Gốm Bát Tràng đã tạo được thương hiệu cho riêng mình, sự xuất hiện của
chợ gốm Bát Tràng đã chứng minh cho điều đó.
Chợ gốm Bát Tràng nằm ngay bên sông Hồng. Chợ bán tất cả những sản
phẩm của người dân trong làng, và chỉ bán duy nhất sản phẩm bằng gốm. Từ
những chiếc bình, nhỏ bé bằng ngón tay đến bình lớn to bằng cái cột nhà, rồi
bát chén, đĩa màu sắc xanh ngọc, đen.. đặc biệt là những món quà lưu niệm
như vòng đeo dây, hình con vật, đều được bày bán ở đây.Chợ gốm không
nặng về buôn bán, bạn có thể tha hồ nhìn ngắm và tìm hiểu các sản phẩm ưa
thích. Người bán hàng cũng rất thân thiện và giải thích tận tình. Khách du
lịch sau khi tham quan làng gốm, nhà trưng bày hay tìm một vài món đồ giả
cổ nào đó, khách đều dừng chân trước chợ gốm bên sông này.
• Là thương hiệu gốm sứ nổi tiếng trên khắp thế giới
Từ những năm chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, gốm
Bát Tràng có mặt ở khắp 5 châu. Giá trị xuất khẩu hàng năm của gốm Bát
Tràng lên tới hàng triệu USD/năm. Bát Tràng được công nhận là thương
hiệu cho hàng gốm sứ lâu đời của VN trên thị trường quốc tế. Ngày nay, đồ
10
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
gốm Bát Tràng còn được lưu giữ tại rất nhiều bảo tàng trong nước và trên
thế giới. Nghề gốm truyền thống Bát Tràng được nhiều tác giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu và giới thiệu trên nhiều phương diện khác
nhau. Đây là một lợi thế rất lớn để Bát Tràng thu hút khách du lịch quốc tế.
• Có hình một thức du lịch độc đáo mới mẻ, hấp dẫn độc
đáo
Tại Bát Tràng dịch vụ tham quan bằng xe trâu rất phổ biến.Ý tưởng dùng xe
trâu như một hình thức quảng cáo đã đem lại thành công ngoài sức tưởng
tượng. Liên tục từ tháng 3 năm 2005 mỗi ngày hai cỗ xe trâu phục vụ ít nhất
là năm, sáu đoàn khách, mỗi đoàn từ ba đến mười người. Không phải du
khách nào đến Bát Tràng cũng có cơ hội đi xe trâu bởi các công ty du lịch đã
đăng ký theo tour kín hết cả ngày.
Ngoài dịch vụ tham quan trên xe trâu, những gia đình có lò gốm ở Bát Tràng
còn phát triển dịch vụ cho khách vào thăm quan lò gốm của gia đình, nặn
gốm để hiểu hơn về quy trình sản xuất sản phẩm.
• Giao thông thuận lợi :
Từ trung tâm Hà Nội có đường thuỷ và đường bộ đến Bát Tràng. Đường
thủy đi từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến
Bát Tràng. Đường bộ qua cầu Chương Dương (hay cầu Long Biên) rồi theo
đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng (khoảng 15km) hoặc
theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về hướng tay phải theo đường liên huyện
qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng (khoảng hơn 20km).
Từ Hà Nội đến Bát Tràng có tuyến xe bus riêng và có cảng đường sông rất
thuận tiện cho khách du lịch.
• Điểm khác biệt của Gốm Bát Tràng
Những đặc điểm nổi bật của sản phẩm gốm Bát Tràng là : dày, chắc, nặng;
kĩ thuật nung đạt nhiệt độ 1300 độ C; có 5 loại men đặc trưng gồm men lam,
men nâu, men trắng ngà, men xanh rêu, men rạn và nghệ thuật vẽ họa tiết
mang dấu ấn của sự thăng hoa. Với các đặc điểm này, gốm Bát Tràng tiếp đã
chinh phục thị trường trong và ngoài nước bằng chất lượng cũng như giá trị
nghệ thuật.
Ngoài những yếu tố trên, giá trị lịch sử và văn hoá của gốm Bát Tràng cũng là
điểm tạo ra sự khác biêt. Hiếm có làng gốm nào có lịch sử lâu đời như Bát Tràng.
Những điểm nhấn trên của gốm Bát Tràng sẽ là lợi thế để thu hút khách du
lịch trong và ngoài nước không chỉ những người quan tâm đến đồ gốm mà
còn cả những du khách yêu nghệ thuật hay muốn tìm hiểu về lịch sử văn
hoá.
11
Quản trị điểm đến
Nhóm 3
b. Điểm yếu (Weakness)
• Ô nhiểm môi trường
Làng gốm sứ Bát Tràng phát triển cũng đang nảy sinh nhiều bức xúc, đó là
nạn ô nhiễm môi trường do chất thải của nghề. Hàng năm, gần 1.000 lò nung
gốm bằng than đốt hàng trăm tấn than và vật liệu làm cho đường bẩn, bụi,
không khí, môi trường ô nhiễm, nồng nặc mùi than. Tuy các đường ngõ xóm
đã được xã và dân bê tông, cứng hóa, nhưng các đường trục của xã còn là
đường đất, chưa có rãnh thoát nước, mới mưa đã lầy lội, mới nắng đã bụi,
khổ cả dân và khách. Đặc biệt ô nhiễm môi trường ở làng gốm sứ Bát Tràng
kéo dài, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân, nhiều bệnh như hô hấp, viêm da,
dị ứng ở mức cao. Nước sinh hoạt cũng chỉ gọi là sạch tạm thời.
Vấn đề ô nhiễm môi trường do ngành công nghiệp gốm sứ phát triển nhưng
các vấn đề về chất thải không được quan tâm , xử lý và kiểm soát chính vì
vậy tạo ra ảnh hưởng xấu tới cảnh quan và sức hấp dẫn đối với khách du lịch
của điểm đến du lịch. Vấn đề ô nhiễm môi trường này nếu không được xử lý
nhanh chóng và sớm thì ngày ngày phá hủy cảnh quan, gây tốn kém cho việc
giải quyết xử lý các vấn đề môi trường sau này.
• Du lịch còn thiếu tính chuyên môn cao
Hiện công tác du lịch chủ yếu là cắt ngọn, chưa có định hướng cụ thể, chưa
có tính chuyên môn cao. Khách du lịch chỉ đến nửa ngày tham quan. Bên
cạnh đó, thuyết trình viên tại Bát Tràng chủ yếu là những người dân sống lâu
năm ở đây , không có đào tạo chuyên môn về du lịch. Trình độ ngoại ngữ
của họ có hạn hoạt động còn mang tính nhỏ lẻ, chưa có tổ chức và được
hướng dẫn đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp.
Người dân mới chỉ quan tâm đến việc bán các hàng hóa của làng nghề cho
khách với phong cách thiếu chuyên nghiệp mà chưa quan tâm đến việc hút
khách từ chính hoạt động tạo ra sản phẩm của làng nghề. Nói cách khác,
người dân dường như chú ý đến sinh kế hơn là bảo tồn di sản văn hóa và
thiếu hẳn công nghệ tạo sản phẩm du lịch để tạo nên những tour hấp dẫn.
Du lịch Bát Tràng còn thiếu tính định hướng : hướng tới phát triển du lịch
song song với phát triển làng nghề hay đơn thuần chỉ là phát triển công
nghiệp sản xuất gốm sứ. Sự thiếu đồng bộ trong phương hướng phát triển
này như trên đã nói vừa gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu tới sự phát
triển và sức hấp dẫn của điểm đến du lịch, bên cạnh đó tiềm ẩn sự thiếu bền
vững. Bát Tràng cần được định hướng lại phương hướng phát triển du lịch
và duy trì làng nghề truyền thống, phát triển bền vững, bảo đảm môi trường
trong lành , tạo điều kiện cho việc phát triển du lịch.
• Cơ sở hạ tầng còn hạn chế
12